Ghi chép của Viên Dung-Huỳnh Tâm và Hải Âu
Bản đồ các khu vực xảy ra chiến sự Lão Sơn: Những điểm cao ký hiệu chữ màu đỏ là cứ điểm của quân Trung Quốc, ký hiệu mau đen là của quân Việt Nam...
Trên bản đồ này: Điểm cao F 146 là Cao điểm 1509, D 255 là Cao điểm 1100, B 164 là Cao điểm 772 ( Đồi thịt băm) còn C211 là cao điểm 685-(Lò vôi thế kỷ)...
Tù binh Việt Nam, thuộc những đơn vị C5, D5, E567, F322, QĐ26, QK1. Tạm giữ trên núi 255, chờ ngày chuyển về trại giam.
Ảnh: Hải Âu DF-1, F40, QD14.
-Hải Âu:Trung tá tình báo Hoa Nam, phóng viên chiến trường...Ảnh: Viên Dung
Ảnh: Hải Âu DF-1, F40, QD14.
-Hải Âu:Trung tá tình báo Hoa Nam, phóng viên chiến trường...Ảnh: Viên Dung
Viên Dung, phóng viên chiến trường của một hãng tin phương tây, người Việt gốc Hoa Sài Gòn...Ảnh: Hải Âu
Cuộc hội ngộ bất ngờ
của hai đứa con Việt
Sáng nay, đỉnh núi 255 lặng yên, xương mù đã
trả lại bầu trời “quang mây tạnh” cho Lão Sơn. Binh sĩ Trung Quốc trải qua
những ngày sống trong giao thông hào, hít thở mùi đất ẩm thấp, khó chịu, rất
ngột ngạt.
Có lệnh truyền báo:
– Hôm nay toàn thể binh sĩ được lệnh trồi lên
mặt đất, thay đổi không khí.
Tôi vừa ra khỏi giao thông hào, hưởng được
không khí trong lành của buổi sáng. Không có thú vị nào hơn là hít hơi cho lòng
ngực phồng lên, lấy một hơi thở thật dài, và đẩy sâu xuống tận đáy “đơn điền”,
cho xì hơi ra thật mạnh như thể quả bong bóng bị xì, tung vỏ bay cao vút.
Ôi thoải mái làm sao, sung sướng với điều mình
đang có, dù một khắc thôi đã thỏa mãn lắm rồi. Có xung phong vào trận địa mới
biết cuộc đời người lính dãi dầu nắng mưa, đầu gối tuyết thân phơi gió xương
ngoài trận mạc.
Chúng tôi đứng trên đỉnh núi cao tham quan
toàn cảnh núi Lão Sơn, để ý nhất về hướng đất Tổ xa xa, nhìn thấy cột khói chạy
dài. Hỏi ra mới biết nơi cận cảnh chính là dòng sông Lô. Buổi sớm mai này đẹp
quá, dòng sông Lô toát ra hơi nước, vẽ lên không gian một con rồng xám uẩn khúc
huyền diệu.
Lòng tôi bay bổng, thả hồn theo bài thơ “Tiếng
hát sông Lô” của Hoàng Cầm:
Sông Lô chảy xuống
sông Hồng
Sông Hồng trôi đến
biển Đông xa vời
Biển Đông cuộn sóng
ngang trời
Nhắc đi bốn bể những
lời sông Lô
Hoàng
Cầm, Việt Bắc, 12-1947
Hải Âu DF-1, F40, QD14 đứng sau lưng tôi tự
bao giờ, nào hay biết, vừa xoay lại anh ta nhe răng cười, hỏi:
– Hình như anh đang vận dụng bầu trời để hưởng
không khí thiên nhiên?
– Đúng vậy, rất thèm khát không khí này anh ạ.
Hải Âu DF-1, F40, QD14, nói tiếp:
– Thực ra tôi cũng như anh, và mọi người ở đây
cũng thế, chúng tôi là người của chiến trường hứng chịu đạn bom, mùi thuốc súng
đã choáng váng lắm rồi, cho nên phải trân quí những buổi tinh xương, thanh bình
thế này.
Tôi vờ trách y:
– Người lính vẫn ham sống đấy à?
– Thực ra làm lính bất đắc dĩ, mình chết cho
mấy thằng Bắc Kinh sống.
– Anh nói vậy không sợ thượng cấp nghe à?
– Sợ cái gì, chúng ta chết ở đây có ai biết
đâu, cha mẹ hay con bồ nhí đã chết trước tôi rồi, họ chết đói trong giá lạnh
vào mùa Đông năm ngoái.
Lòng tôi bỗng se lại, nói:
– Quả nhiên mỗi người có một cuộc đời riêng
biệt, sống vui hay chán chường, một phần do chính mình tự lo liệu, và một phần
do môi trường xã hội đưa đẩy ta. Cuộc đời này hết thú vị khi một trong hai điều
này không đáp ứng nguyện vọng của mình. Anh phải đứng lên tự tạo cho mình một
lối sống mới. Ví dụ sau chiến tranh, hết làm lính, anh sống thế nào.v.v…
– Thưa anh, việc này tôi mù tịt, vì tôi không
định được tương lai !
Y nói tiếp:
– Chúng ta đến mé núi nhé, ở đó có không gian
rộng hơn?
– Vâng.
Một mái lều nhỏ của
nhóm báo chí, tựa lưng vào tảng đá lớn. Chúng tôi mượn nơi đây để quan sát
chiến trường. Phần dưới một công sự nối liền giao thông hào của bộ chỉ huy
chiến trường. Chính tại nơi này, cánh tay phải của tôi bị thương lấn thư hai,
bởi trái lưu đạn rơi xuống hầm trú ẩn. Ảnh: NF3.86.
Đứng trước một bao lơn rộng, nhìn xuống triền
núi thoai thoải, không thể làm ngơ trước cảnh rừng núi bị đạn bom Trung Cộng
san bằng biên giới Việt Bắc, hỏi:
– Thưa anh, có thể, cho tôi biết về phối trí
chiến thuật, chiến lược, phòng thủ, và phản công không?
– Vâng, tôi biết đến đâu trả lời đến đó, bởi
kiến thức và trí nhớ có hạn. Theo qui luật của quân đội Trung Cộng, từ tháng
4-1984 mở rộng phạm vi “tự vệ” lấn chiếm phần đất của Việt Nam, tuy nhiên bước
tiến quân của Trung Cộng, bị chặn lại ở khu vực Bắc suối Thanh Thủy.
Từ đó đến nay vẫn phối trí và phòng ngự của
quân Trung Cộng không thay đổi, điển hình phối trí tại điểm C211, Việt Nam gọi
là (A6b) đến điểm A5 tại đồi Chuối và Cây Khô. Phòng thủ gồm có Tiểu đoàn 2,
riêng ở núi đá 400 và đá 233 có Tiểu đoàn 1, thuộc Trung đoàn 595, Sư đoàn 199.
Tại C211 do Quân đoàn 67 phối trí theo địa hình cũ. Bộ chỉ huy Sư đoàn 199 đóng
quân tại núi 277, thay cho đơn vị phòng ngự cũ là Sư đoàn 40 thuộc Quân đoàn
14.
Camexd, F27, QD11. Đang quay film một trái
pháo hôm qua của Việt Nam, đánh trúng mỏm đá, của Bộ chỉ huy Trung đoàn 595.
Ảnh: NF3.86.
Phòng ngự tại những điểm núi A169, B164, C211,
D255, E111, F146, G145, H left6, I405, 344, 145, 167, 156, 139, 151, 172, 153,
109, 149, 168, 136, 255, 147, 262, 148,142, 146, 508, 140, 28, 143, 144, 78,
116, 79, 124, 128, 123, 662-6, 129, 131, 130, 2F, 2P, 255, 277, 1509. Theo kỷ
thuật phối trí của Bộ chỉ huy chiến trường, quân sự Vân Nam. Trang bị vũ khí
cho mỗi cụm, chia thành bốn hướng chiến đấu.
Tính từ hướng Nam, Bắc, Đông, và Tây, lấy điểm
núi C211 (A6b) làm cơ sở chiến thuật. Bộ binh gồm có:
Cụm 1, từ 4 đến 5 binh sĩ, trang bị vũ khí AK,
1 Trung liên, lựu đạn.
Cụm 2, có 5 đến 10 binh sĩ, trang bị vũ khí
AK, 1 Trung liên, 1 Đại liên, lựu đạn, 1 khẩu B41.
Cụm 3, có 10 đến 20 binh sĩ, trang bị 2 Trung
liên, 1 Đại liên, 1 khẩu B41, 1 pháo tên lửa hạng nhẹ Grad-P (1 giá H12 ứng
dụng mỗi giá 2 ống), 1 cối 60mm, 1 ống nhòm hồng ngoại tuyến.
Cụm 4, có 20 đến 30 binh sĩ, trang bị 3 Trung
liên, 2 Đại liên, 3 khẩu B41, 2 pháo tên lửa hạng nhẹ Grad-P (2 giá H12 ứng
dụng mỗi giá 2 ống), 2 cối 60mm, 1 máy Vô tuyến điện, 1 ống nhòm hồng ngoại
tuyến.
Cụm 5, có 50 đến 80 binh sĩ, trang bị vũ khí,
2 Trung liên, 3 Đại liên, 3 khẩu B41, 2 cối 60mm, 3 giá H12 ứng dụng 2 ống, 2
máy Vô tuyến điện, 2 ống nhòm hồng ngoại tuyến.
Cụm 6, có 80 đến 100 binh sĩ, gọi là sở chỉ
huy Đại đội, trang bị 7 Trung liên, 5 Đại liên, 6 khẩu B41, 4 cối 60mm, 5 giá
H12 ứng dụng 2 ống, 3 ống nhòm hồng ngoại tuyến, 3 máy Vô tuyến điện, 1 điện
thoại.
Cụm 7, có 5-10 binh sĩ, trang bị AK, 2 Trung
liên, 1 khẩu B41, lựu đạn.
Cụm 8, có 10-20 binh sĩ, trang bị 1 Đại liên
có tầm kiểm soát rộng, 2 khẩu B41, 1 cối 60mm.
Cụm 9, có 20-40 binh sĩ, trang bị 3 Đại liên
có tầm kiểm soát rộng, 3 khẩu B41, 3 cối 60mm.
Cụm 10, có 40-80 binh sĩ, trang bị AK, 5 khẩu
B41, 6 Trung liên, 5 Đại liên, 7 cối 60mm.
Cụm 11 và 12, nhiệm vụ ngụy trang cảnh giới,
có 50 binh sĩ, trang bị 5 Trung liên, 4 Đại liên, có tầm kiểm soát rộng, 2 khẩu
B41, vũ khí cá nhân AK.
Trước sau quân Trung Cộng có 434 binh sĩ trấn
thủ mỗi hướng, ngoài ra tăng cường 14 Trung liên, 10 Đại liên, 12 B41, 8 giá
H12 ứng dụng 6 ống, vũ khí cá nhân chủ yếu AK, lựu đạn, mìn, mặt nạ phòng chống
chất độc, và thiết bị thông tin. Hỏa lực Bộ binh 3 vòng phòng thủ, phối hợp
quyết định chiến trường cùng Pháo binh, Không quân.v.v….
Viên Dung-NF3.86. Ngồi tư lự trước cửa công sự, vừa hút
thuốc lá, vừa suy ngẫm về những người lính bênh kia, tự hỏi đến khi nào họ quét
sạch quân thù (Trung Cộng). Ảnh: Hải Âu DF-1, F40, QD14.
Giao thông hào, hầm công sự của quân Trung
Cộng dùng bao cát, hoặc xếp đá cao khoảng 0,5 mét rất kiên cố, khoét lỗ ngắm
bắn. Vòng ngoài bốn phía công sự, trưng dụng địa thế tối đa, cài buộc lựu đạn,
treo mìn trên cây, bẫy giật dưới đất, trên nhũ đá, v.v… Công sự có 2 cửa, phía
trước và sau. Cách cửa 8m, cài 1 lớp mìn định hướng, và cách 10m cài thêm 1 lớp
mìn định hướng thứ hai. Nếu địch tiếp cận công sự sẽ gặp mìn “đè nổ” và “vướng
nổ” của TNT, ứng dụng tại chiến trường, tự chế (nhồi 4-6 thỏi TNT vào loong bơ
và gắn ngòi nổ), loại mìn này chuyên chống Bộ binh rất hữu hiệu.
Hiện nay quân lệnh hạn chế di chuyển trên mặt
đất, có lúc phải trườn bò để thi hành quân vụ. Ban đêm tuần tiễu, chia 3 vòng
cụm, kết hợp tổ cảnh giới. Tiếp cận với địch có những tổ thám báo, quân báo,
biệt kích, và cảm tử quân.
Hải Âu DF-1, F40, QD14 đang đứng trước lều của
nhóm báo chí chiến trường tại đỉnh núi 255, phía sau binh lính Trung Cộng đang
học tập, trao đổi chiến thuật. Ảnh: NF3.86.
Chúng ta chỉ mới nói đến vòng 1 phòng thủ, nếu
địch muốn tấn công Bộ chỉ huy Sư đoàn phải vượt qua nhiều lớp phòng thủ, tuy
nhiên có rất nhiều trường hợp quân Việt Nam thọc sâu, đánh thủng những phòng
tuyến, trực tiếp tấn công vào Bộ chỉ huy. Đôi lúc suy nghĩ rùng mình, bởi quân
Việt Nam đánh du kích, một chiến thuật khó ai đo lường trước, có thể nói quân
đội Việt Nam thiên tướng điều động “âm binh”. Nếu xem thường chiến thuật và
không cân bằng hỏa lực, có thể bại trận, kéo cờ thất thủ, lui binh ra khỏi Lão
Sơn.
Văn phòng, Bộ chỉ huy Quân Ủy Trung ương Vân
Nam, lập bản đồ toàn cảnh chiến trường Lão Sơn. Nguồn: Bản chính, của Bộ chỉ
huy quân sự Vân Nam.
Nguồn: Bản phụ của đồ hình trên, ghi lại những
điểm nóng chiến trường Lão Sơn, do Bộ chỉ huy quân sự Vân Nam thực hiện.
Thưa anh NF3.86, chúng ta nên biết rằng, trong
bản đồ này phân biệt rõ 2 cụm cứ điểm, những màu đỏ là cứ điểm của Trung Cộng,
anh đã biết rồi. Anh nên biết những cứ điểm màu đen của Việt Nam, bởi cuộc
chiến này người ta chú ý nhiều nhất cứ điểm C211, phía Việt Nam thường gọi nơi
này cứ điểm (A6b) Lão Sơn, và cứ điểm 1509 Vị Xuyên.
Những cứ điểm màu đen, như O (vị trí núi A6a),
cứ điểm Q (núi Cô Ích), cứ điểm B164 (Đồi Đài), cứ điểm D (đồi Đá 300), cứ điểm
E (núi 685), cứ điểm N (khu A5, Cây Khô). Vị trí Đá Pháp 1 & 2 nằm phía
dưới thung lũng giữa hanh gió, đối diện với hai cứ điểm O và C, còn có tên “âm
binh” thung lũng “Gọi hồn”. Ngoài ra những cứ điểm màu đen P, R, M, K, J tuy
không tên tuổi, nhưng quan trọng không kém.
Hải Âu DF-1, F40, QD14 có trí nhớ rất tốt, tôi
hỏi tiếp:
– Anh quan tâm nhiều nhất những trận chiến nào
?
– Cũng may, tôi có ghi
lại diễn biến trận chiến đẫm máungày 31/5/1985 tại cứ điểm C211
(A6b).
Mặt trận C211 Lão Sơn đã trở thành chiến trận
cài răng lược, ta và địch vờn nhau, mất mấy năm qua, chưa phân thắng bại. Hiện
nay quân đội Việt Nam đang tấn công mỏm núi A6, thuộc sườn núi Đông dãy núi đá
400 (cao khoảng 200m), cách biên giới Việt-Trung khoảng 1,5km về phía Đông Nam.
Tiếp giáp về phía Đông A6 có đồi đá Pháp; từ
Đông Bắc sang Tây Bắc có đồi Đài, đồi Cô Ích, đồi Chuối, đồi Cây Khô, mỏm A5,
A23; phía Tây mỏm A22 (A6 cách những mỏm trên khoảng 200-300m); phía Nam có
hang Gió (cách 200m), hang Dơi, hang Mán, hang Làng Lò (500-100m) thuận lợi cho
giấu quân, và tiếp liệu.
Mỏm A6 là núi đá tai mèo không liền khối, rộng
70m, dài 130m, phía Đông và Tây dốc gần như thẳng đứng, phía Nam và Bắc dốc
thoải. Từ sườn Nam sang Tây Bắc dốc thẳng đứng hình thành 2 tầng núi, địch khó
tấn công, muốn đánh phải đi vòng sang Đông Nam.
Mỏm A6, gồm có 2 mỏm, nối liền với nhau bằng
một yên ngựa thấp, quân đội Việt Nam muốn chiếm cứ điểm A6b, còn ta muốn chiếm
cứ điểm A6a, bởi nó cao đứng, thuận lợi đáng kể về chiến lược, tuy nhiên ở cứ
điểm này cũng có nhược điểm, lý do bị pháo quá nhiều cho nên trơ trụi, cây cối
không còn. Chiếm được cứ điểm C211 không hẳn là an toàn vì vị trị quá trơ trọi,
ai cũng bị ám ảnh lành lạnh sau gáy. Trong quá khứ 2 quân đội, ta và địch đều
vận dụng lối chơi bắn tỉa hay tập kích, cho nên tinh thần binh lính hai bên đều
xuống thấp.
Đặc biệt, cái quân đội “âm binh” Việt Nam
thuộc Trung đoàn 567, Sư đoàn 322 và Trung đoàn 982, Sư đoàn 313 thay phiên
nhau tử thủ, họ ngoan cố không chịu nhả tử địa Lão Sơn. Họ phòng ngự ở đồi
Pháp, đồi Cô Ích, đồi Đài, A6a, 200, A21. Còn có các đơn vị E567, F322, QĐ26,
QK1 Việt Nam, thay nhau nghi binh. [1]
Thám báo của ta cho biết kế hoạch chiến đấu
của địch quân:
– Tại những cứ điểm trên, địch quân (Việt Nam)
tấn công quân ta (Trung Cộng) gồm có Tiểu đoàn 4, và 6, Trung đoàn 567, Sư đoàn
322, Quân đoàn 26 Quân khu 1, Tiểu đoàn 5 được xem lực lượng cơ động nhất của
Quân đoàn 26 Việt Nam.
Đánh giá kết quả lời
khai của những tù binh có giá trị về chiến lược
Những ngày lửa binh, có lúc địch quân (Việt
Nam) không nao núng, tấn công đáng khiếp sợ của Đại đội 4, Tiểu đoàn 5, đánh
chiếm A6b. Đại đội 4 thay nhau nhảy vào cướp phòng ngự giao thông hào, họ đã
lấn chiếm sâu vào trận địa của ta (Trung Cộng). Trong quá trình chiến đấu họ
chưa triển khai hết hỏa lực, bỗng dưng nội tình địch quân (Việt Nam) không mấy
sáng sủa, gặp trở ngại bị chao đảo, khó khăn về nhân sự, có trường hợp số sĩ
quan con ông cháu cha, thuộc “thái tử” đảng, xin rút về hậu cứ, ham sống sợ
chết, đưa đến phân hóa hàng ngũ, điển hình Đại đội 6 binh sĩ đào ngũ quá nhiều
[2]. Kéo theo hệ lụy nhục chí chiến đấu, lan truyền đến những Đại đội khác.
Cuối cùng giao nhiệm vụ cho Đại đội 5 đánh chiếm chốt A6b.
Địch quân có Đại đội 5, Trung đội 3 với 103
binh sĩ tương đối khá, có quyết tâm, đoàn kết và kỷ luật tốt. Đại đội 5 được
tăng cường 6 cối, 1 phân đội trinh sát, 1 Tiểu đội công binh, 1 tổ hoá học (4
người với 212 quả đạn M72 lửa), 1 Tiểu đội vô tuyến điện, tất cả đều có nhiệm
vụ đánh chiếm A6b và những chốt còn lại.
Trung đội 1 có 26 binh sĩ, tăng cường 1 công
binh, 2 trinh sát, 1 hóa học, 1 thông tin, trang bị 1 B41, 1 B40, 2 M72, 26 AK,
6 quả MĐH10, 1 ống bộc phá. Chia làm 6 tổ (1 tổ dự bị) đánh từ hướng Đông Nam
mục tiêu diệt ổ 4, 5, và phát triển diệt luôn ổ 6, 9 của ta (Trung Cộng) với
hỏa lực này, địch quân (Việt Nam) nhăm nhe toan đánh chiếm sườn Đông Bắc A6b,
chặn quân ta (Trung Cộng) phản kích từ phía đồi Cây Khô, và A5.
Địch quân tăng cường Trung đội 2, có 20 binh
sĩ, 2 công binh, 2 trinh sát, 2 hoá học, 2 thông tin (cộng 30 binh sĩ), trang
bị 2 B41, 1 B40, 2 M72, 4 quả mìn định hướng 10. Chia làm 2 tổ đánh từ Nam Tây
hầu để diệt ổ 1, 2, 3 của ta (Trung Quốc). Địch quân còn phối hợp với Trung đội
3, để diệt ổ 7, 8 của ta (Trung Quốc) họ hy vọng chiếm sườn Tây Nam A6b, chặn
quân phản kích từ A22 (400) của ta.
Từ đồi phòng thủ A6b quân Trung Quốc phục kích
Trung đoàn 567 cánh quân của Việt Nam. Ảnh: Hải Âu DF-1, F40, QD14.
Trong khi ấy Trung đội 3, khuyết tiểu đội 9,
chỉ còn lại 16 binh sĩ, được tăng cường 1 công binh, 1 trinh sát, 1 thông tin
(cộng 19 người), trang bị 1 B41, 9AK, 2 quả MĐH10. Chia làm 2 tổ, đánh từ Tây
Bắc ĐỂ diệt ổ 7, 8, chiếm sườn Bắc và Tây Bắc A6b, chặn quân phản kích từ A5,
A22, A23 của ta.
Tiểu đội 9 có 13 binh sĩ, tăng cường 1 thông
tin, trang bị 1 B41, 1 B40, 6 AK, bố trí dự bị yểm trợ ở phía Đông A6a.
Tiểu đoàn 4, 5, và 6 của địch quân (Việt Nam)
chọn điểm tựa núi với nhiệm vụ kiềm chế đồi Chuối, Cây Khô, A22, A23, trang bị
vũ khí 9 cối 60mm, 3 khẩu ĐKZ82, 17 khẩu B41, 4 khẩu 12,7mm, 3 khẩu MK19, 1 Đại
liên.
Hoả lực Trung đoàn 567 yểm trợ, gồm có 5 súng
cối 82mm, 3 khẩu pháo 76,2mm, 2 khẩu pháo 105mm, và 122mm. Đại đội 6, Tiểu đoàn
4 đảm nhiệm vận tải đạn, gạo, nước và thương binh tử sĩ. Đại đội 11, Tiểu đoàn
6 đảm nhiệm chuyển gỗ, bao cát làm công sự.
Tôi cố ý tìm hiểu sâu hơn, trong cuộn chiến
tranh ở đây, và cũng muốn tiếp cận trực tiếp với tù binh chiến tranh Việt Nam,
chỉ cần Hải Âu DF-1, F40, QD14, tiết lộ một phần nhỏ sẽ nắm được ít nhiều vấn
đề tại núi 255, hỏi:
– Anh có quan tâm nhiều đến những điểm này
không, ví dụ hỏa lực, vũ khí, trận chiến, tù binh, tình báo, quân báo, và ưu
khuyết điểm của những trận chiến?
Hải Âu DF-1, F40, QD14. Nói tiếp:
– Thưa anh, phải nói rằng những trận chiến ở
đây đều quan trọng cả. Điển hình trận chiến hôm qua, anh đã chứng kiến rồi đó,
nếu không có tình báo hay quân báo, ắt quân ta phải ăn một trận nhục nhã.
Anh biết đấy, quân
địch (Việt Nam) đưa các Sư đoàn chủ lực của Quân khu 2, vào chiến
trường, chia vị trí chiến đấu, ồ ạt tấn công toàn diện tại vùng núi Lão Sơn.
Một lần nữa địch đã thách thức sử dụng tất cả vũ khí nặng, như phóng lựu M-79,
ĐKZ, B41, pháo cối 81 ly, Pháo cối QLT-89 của Trung Quốc, Pháo cối tự hành 2S23
bắn đạn cối 120mm, cối 82mm, cối 160mm M1943, pháo cối 105 mm, 152
mm, pháo không giật DKZ, phóng hoả tiển 122mm, cối M1937, M1943 hay
Type-53-82mm, đạn pháo liên tục. À, anh đi theo tôi để gặp một tù binh
Việt Nam nhé ?
– Vâng.
Tù binh Việt Nam, thuộc những đơn vị C5, D5,
E567, F322, QĐ26, QK1. Tạm giữ trên núi 255, chờ ngày chuyển về trại giam. Ảnh:
Hải Âu DF-1, F40, QD14.
Chúng tôi xuống giao thông hào, đến địa điểm
tù binh Việt Nam, được biết nơi đây tạm giam để lấy thẩm vấn. Hải Âu DF-1, F40,
QD14 vào trước, chào tên cai ngục, quân hàm Trung Úy:
– Chào đồng chí, thưa, chúng tôi muốn thẩm vấn
một tên tù binh, có được không?
– Công việc này không phải của đồng chí.
– Thưa, tôi biết, tuy nhiên có một người đang
đứng trên mặt đất muốn vào đây tìm hiểu về tù binh Việt Nam.
– Là ai?
– Thưa, NF3.86 ạ.
– Mời đồng chí tự nhiên vào, tôi đi lấy hồ sơ
và đưa một tù binh đã gạn lọc đến, đồng chí chờ 10 phút, và làm thủ tục thăm tù
binh nhé?
– Vâng.
Chúng tôi xem qua hồ sơ của tù binh Nguyễn……
quân hàm Trung Úy phục vụ đơn vị D5, E567, F322, QĐ26, QK1, hy vọng
Nguyễn……tường thuật cuộc chiến 4 ngày trước. Chúng tôi hối hả, lấy máy ghi âm
Sony, và lấp Cassette Basf chromdioxid SM-120, nhờ Hải Âu DF-1, F40, QD14 tranh
thủ ghi lại.
Lần đầu tiên tiếp cận với Nam tù binh chiến
tranh Việt Nam, trong lòng tôi rất hồi họp, vì được gặp một đồng tộc ở trước
mặt. Có cái gì đó rất thân thương, khó tả không thể nào diễn cho hết ý.
Tôi biến thẩm vấn thành cuộc trò chuyện thân
mật, hy vọng nơi anh sĩ quan Nguyễn… nói lên tinh thần chiến đấu và kinh nghiệm
trên chiến trường. Riêng tôi dùng tiếng mẹ đẻ để trải lòng cảm thông với anh
Nguyễn, hỏi:
– Chào, bạn Nguyễn… có khoẻ không. Tôi tên
Viên Dung, tuy nhiên người ta thường gọi thân mật là NF3.86, nghe qua cứ tưởng
ngữ mật tình báo. Bạn hãy an tâm chúng ta chỉ trò chuyện thân mật với nhau,
không phải là một cuộc thẩm vấn. Bạn bị bắt khi nào, có bao nhiêu đồng đội cùng
hoàn cảnh, diễn biến cuộc chiến mấy ngày trước ra sao, có đồng đội nào bị
thương hay tử vong, và bạn có những cảm nhận thế nào trong cuộc chiến này, bạn
có hy vọng được sơm hồi hương không?
– Thưa anh, tôi rất ngạc nhiên, chưa bao giờ
nghe nói trên chiến trường của bọn bành trướng lại có một người nói giọng miền
Nam Việt Nam, không pha gợn lẫn tiếng Hoa. Cũng không hiểu lý cớ nào anh hiện
diện ở đây, cho nên tôi khó yên lòng để trả lời những câu hỏi của anh. Mặc dù
anh nói đây cuộc trò chuyện nhưng chính là thẩm vấn nhẹ để xác minh nhân chứng
tham chiến Lão Sơn. Thưa anh, cho phép tôi từ chối cuộc gặp mặt này.
– Bạn Nguyễn… từ chối cũng phải thôi, tôi
không làm áp lực nào đối với anh, tôi chỉ muốn tạo một cơ hội chúng ta quen
nhau, và ít nhất cũng còn đọng lại một kỷ niệm nho nhỏ nào đó trong tôi và anh.
Chúng ta gặp nhau nói tiếng Việt trên chiến trường quả thực khó, bởi hai chiến
tuyến kẻ địch và tù binh rất rõ. Nào ai hiểu nỗi tình sự chân thực của tôi đối
với quê hương đất Việt.
– Thưa anh, rất khó tin bởi chiến tranh và
chính trị muôn mặt, làm sao lường trước hậu quả của nó.
– Bạn Nguyễn… nói đúng nhưng cũng có ngoại lệ.
Một hạt bụi bé nhỏ cũng có thể chen vào giữa đường nứt của chiến tranh và chính
trị. Thế gian này không có chuyện nào hoàn hảo cả, và không ai biết trước diễn
biến lành hay dữ. Chính khi tôi gặp bạn cũng không biết trước cuộc tiếp xúc sẽ
bị từ chối. Nếu biết trước tôi không đến đây, xin chào bạn. Chúc bạn cùng đồng
đội lợi dụng thời gian này dưỡng sức, đừng lo âu nhiều, mọi sự sẽ được bình an,
và sớm hồi hương.
Tôi vừa đứng lên, Nguyễn… vội nói:
– Thưa anh,
tôi tạm tin anh, đem đến điều lành. Xin trình bày chân thực những câu hỏi của
anh. Hiện nay có cả thảy 34 tù binh, không biết những ngày tới sẽ ra sao, đại
khái chúng em khoẻ, có nghĩa là không bị chết do súng đạn nhưng trước khi bị
bắt xem như đã chết một phần thân thể, chúng em sa sút đã hơn 2 tháng vì bệnh
hoạn, thiếu ăn, thiếu mặc, và thiếu hậu phương bồi dưỡng tinh thần để chiến
đâu.
Lúc 5 giờ sáng, ngày 6
tháng 12 năm 1987. Cuộc chiến bắt đầu, Đại đội 5 triển khai tại điểm A6a, hang
Gió, Cây Si, A21, theo đúng kế hoạch. Trong quá trình trinh sát ta phát hiện
thêm 8 ổ phòng thủ của địch. Trong ngày hôm đó, tiểu đoàn 4 của ta dùng ĐKZ bắn
sang mỏm 400, triệt hạ 5 công sự, và 2 tổ cảnh giới của địch.
Đại đội 5 nhận lệnh
tập kết ở hang Làng Lò cách điểm núi A6b 1km. Đồng thời phía địch ở núi A6b bắn
súng cối sang A6a làm ta hy sinh 2, và bị thương 3 đồng chí. Chủ yếu ta hổ trợ,
mũi Trung đội 1 dồn hỏa lực thành 5 tổ tấn công A6b (C211), ta còn lại 1 tổ
phòng thủ.
Lúc 13 giờ 15 phút.
Đại đội trưởng kiểm tra lại các bộ phận chủ lực lần cuối, và tiếp nhận báo cáo
của các Tiểu đoàn.
Lúc 5 giờ chiều. Đại
đội 5 tấn công, chiếm lĩnh trận địa, tin vui tiếp theo 5 giờ 25. Ta hoàn tất
chiếm lĩnh trận địa lưng núi C211, tuy chậm 30 phút so với kế hoạch, do Trung
đội 3 vướng phải bãi mìn, đành chuyển quân đi một vòng xa mới đến mục tiêu.
Trung đội 1 cách bãi mìn định hướng của địch 10m, 2 tổ còn lại bám sát địch,
chờ ứng chiến nếu địch phản công, chỉ cách địch 40m. Trung đội 2 bố trí phòng ngự
theo hàng ngan cách địch 10m. Trung đội 3 bố trí phòng ngự hàng dọc cách địch
60m.
Lúc 14 giờ 20 phút,
ngày 7 tháng 12 năm 1987. Trung đoàn phát lệnh bằng Vô tuyến điện, hoả lực của
ta bắn xuống các điểm địch tựa lưng núi. Từ đồi A21, ĐKZ của ta bắn vào phòng
thủ 8 làm chuẩn pháo cho trung đội 3. Cối 60mm từ đồi Cây Gạo bắn xuống 400,
A6b, đồi Cây Khô, đồi Chuối. Cối 82mm hướng Tây 673 (trận Phong Lan) bắn vào
đồi Cây Khô 1 quả đạn sáng làm hiệu lệnh. Địch bị động, bất ngờ không phán đoán
được ý định của ta, nên khó biết chiến thuật để phản ứng. Trên các hướng đồi
núi quân ta nhanh tay sử dụng B40, B41, M72 bắn vào các mục tiêu để mở đường
tấn công.
Lúc 6 giờ sáng. Quân
ta xung phong lên hướng Trung đội 1, rà thấy bải mìn định hướng không tác dụng.
Quân ta dùng 5 ống bộc phá đánh thêm, mở rộng đường tấn công, khi xung phong có
3 đồng chí bị thương vong. Có 2 toán binh của địch cảnh giới vòng ngoài A6b bỏ
chạy. Tổ 1 của ta đi đầu, đánh ổ phòng thủ 4 của địch, vừa ném lựu đạn để làm
phòng ngự, và tuân thủ lệnh cho nã cối pháo vào đầu địch, sau 15 phút chiếm
được tầng trên vòng 1 của núi A6b, phát hiện có 3 tên địch nằm chết ngoài công
sự. Ta đánh tiếp xuống tầng dưới, diệt 3 tên và bắt sống 2 tên, thu 5 khẩu B41
và 2 máy VTĐ, 1 ống nhòm hồng ngoại.
Tổ 3 đánh ổ phòng thủ
5, B41 bắn sập kè đá của địch, Trung đội trưởng chỉ huy đánh lướt qua, dùng B41
yểm trợ cho tổ 2 theo hào đá, dùng thủ pháo đánh tiếp ổ phòng thủ 9 của địch.
Đồng chí đội trưởng chiếm được khẩu đại liên, bắn truy kích quân địch chạy về
phòng thủ số 6. Địch ở đồi Cây Khô bắn cối 60mm chặn ta. Lúc này ta chưa chiếm
được ổ phòng thủ 6, và 8, từ đó địch phản kích lên ổ phòng thủ 9 ta thất thủ,
tổ 2 của quân ta phải rút về ổ phòng thủ 5.
Sau khi địch chiếm lại
ổ phòng thủ 9, liền chia làm 2 hướng, mỗi hướng nửa Tiểu đội tập trung phản
kích 4 lần vào ổ phòng thủ 4, 5 đều bị ta dùng lựu đạn đẩy lui.
Hướng trung đội 2 của
ta, được lệnh cho mìn định hướng nổ phát lệnh tấn công, quân ta xung phong
không ai bị thương. Đồng chí phụ trách B41 bắn vào ổ phòng thủ 2 của địch,
không ngờ ở đồi 400 địch dùng ĐKZ bắn qua. Đồng chí B41 trúng đạn hy sinh, đồng
chí Tiểu đội trưởng lên thay bắn tiếp B41 cũng bị trúng đạn hy sinh.
Hướng Trung đội 3 ta
diệt toán quân cảnh giới của địch, đánh chiếm được ổ phòng thủ 3. Ta dùng B41,
B40 bắn tiếp vào ổ phòng thủ 1, 2 chi viện cho bộ binh đánh vào. Lạ thay khi
sục vào không còn địch.
Có một trở ngại khác,
quân ta dùng Vô Tuyến Điện liên lạc với Đại đội trưởng nhưng bị gián đoạn. Đồng
chí đại đội phó chính trị phán đoán, Trung đội 1 gặp khó khăn, liền lệnh cho
Trung đội 2 để một bộ phận giữ khu đã chiếm, còn lại phát triển lên bình độ
trên nhưng gặp vách đá và mìn không đi được. Lực lượng Trung đội 2 chuyển sang
hỗ trợ Trung đội 1 và 3.
Hướng Trung đội 3 phát
hiện, mìn định hướng của địch cày chưa nổ. Ta dùng B41 bắn vào bãi mìn để mở
đường. Khi xung phong, đồng chí Trung đội phó 3, đụng phải một trái mìn nổ làm
bị thương, sau đó 2 đồng chí hy sinh.
Xung phong vào điểm
phòng thủ của địch, quân ta chia làm 2 mũi cùng đánh ổ phòng thủ 8 và 10. Chiếm
được ổ phòng thủ 10, phía trước còn ổ phòng thủ 8 nơi này có vách đá cao không
lên được. Bị mất liên lạc với Đại đội trưởng, đồng chí Đại đội phó ra lệnh cho
Trung đội 3 để lại một tổ giữ ổ phòng thủ 10, số còn lại chuyển sang hướng ổ
phòng thủ 4 (trung đội 1 đã chiếm) để đánh tiếp sang ổ phòng thủ 8 của quân
địch.
Lúc 5 giờ 15. Đại đội
5 đã làm chủ ổ phòng thủ 1, 2, 3, 4, 5, 10, địch còn cố thủ chống cự tại ổ
phòng thủ 6, 7, 8, 9. Đại đội trưởng quay về ổ phòng thủ 4 báo cáo với Tiểu
đoàn và điều lực lượng vào đánh tiếp. Chiến sĩ truyền tin của ta báo cáo, trong
ổ phòng thủ 6 địch đang gọi điện.
Đại đội phó của tổ 4,
chỉ huy đánh ổ phòng thủ 6, còn tổ 5 đánh ổ phòng thủ 9 và 8 của địch, 10 phút
sau ta chiếm được. Ta bắn B41 như mưa địch quân nằm chết quanh các hốc đá. Ổ
phòng thủ 6 của địch để lại 2 xác chết, và nhiều vũng máu vừa mới đi lai sinh
công trùng, địch quân để lại 3 máy VTĐ vẫn có tiếng nói, một số bọn địch còn
sống chạy về A5.
Trong khi ta tấn công,
địch ở ổ phòng thủ 7 bỏ chạy ta không biết.
5 giờ 45 ta vào chiếm
nốt ổ phòng thủ 7. Trận đánh chiếm A6b kết thúc. Ta nhanh chóng triển khai
phòng ngự.
Lúc 7 giờ, ngày 8
tháng 12 năm 1987, địch quân tổ chức tấn công Cô Ích, đồi Đài, bắn pháo trùm
lên núi A6b.
Lúc 7 giờ 30 đến 21
giờ 15. Địch từ A5 và A23 theo 2 hướng, mở đến 5 lần tấn công lên núi A6b. Mỗi
hướng có 1 Đại đội của địch quân thay nhau tấn công liên tục 8 lần.
Các đợt xung phong đều
bị Đại đội 5, và Đại đội 7 đẩy lui. Hoả lực ta phát hiện sớm đánh nhiều lần vào
quân địch khi chúng đang tập kết hoặc cơ động. Các toán cảm tử quân của địch,
bám sát bị bộ binh ta đánh lui.
Lúc 13 giờ, ngày 8
tháng 12 năm 1987. Đại đội 5 bàn giao trận địa cho Đại đội 7, Tiểu đoàn 4.
– Trận tấn công A6b,
địch bỏ lại 25 xác. Đài quan sát của ta còn phát hiện ở hướng đồi Cây Khô địch
chia ra 9 cánh chạy thoát thân.
Đến 15 giờ nhận được
báo cáo quân ta hy sinh 5, bị thương 18 đồng chí. Ta bắt 1 tù binh, thu 1 Đại
liên, 2 Trung liên, 3 súng B41, 4 AK, 3000 lựu đạn, nhiều đạn AK, B41, 4 máy
VTĐ, 1 điện thoại, 1 ống nhòm hồng ngoại.
– Trận chống địch phản
kích ngày đầu Đại đội 5 hy sinh 13 đồng chí và bị thương 24 đồng chí, mất tích
26 đồng chí, cho đến nay, có 32 tử thương, 54 bị thương . Được biết quân số
thiệt hại của địch quân Trung Quốc có 184 tử thương, 341 bị thương.
– Ta tiêu hao đạn dược
gồm M72 có 32 quả. B40, B4 có 280 quả. Bộc phá ống có 8 ống. Mìn định hướng có
8 quả. Thủ pháo có 65 quả. lựu đạn không thống kê được. Cối 60mm có 5000 viên.
Cối 82mm có 5200 viên. ĐKZ có 70 viên. Đạn pháo 5920 viên. Cối 12,7mm có 4000
viên. K56 có 9000 viên. Đại liên có 9000 viên.
Lúc 17 giờ, ngày 8
tháng 12 năm 1987, em bị địch quân bắt, tại giao thông hào Làng Lò.
Cuộc trò chuyện chấm dứt, tôi trao cho tên cai
ngục một Cassette Basf chromdioxid SM-120, nói:
– Xin nhờ đồng chí giữ gìn hộ Cassette này,
khi nào chúng tôi cần sẽ liên hệ nhé.
Hải Âu DF-1, F40, và cai ngục vào phía trong
giao thông hào, làm thủ tục viếng thăm và nhận lãnh Cassette. Lúc này tôi mới
biết gã cai ngục tên Hà Ba Bôi (哈三钡).
Tôi nói riêng với bạn Nguyễn…. :
– Tôi hoan nghênh trận chiến của quý bạn. Cung
cách tấn công ấy đã làm cho địch quân khiếp viá, cối pháo bắn phá hiệu quả, hy
vọng một ngày quý bạn đẩy được quân CS Trung Cộng ra khỏi biên giới của quê
hương ta, và không quay đầu trở lại Việt Nam.
– Trong chiến thuật quân đội Việt Nam có những
phản công, cố ý lệch hướng, dồn địch vào thế bất lợi, nhưng địch đã phát hiện
kế hoạch của ta, cho nên ta có cách đánh riêng làm cho địch nghi ngờ những tay
phản gián của Hoa Nam hay Quân báo v.v…
Trước khi chia tay, tôi có đôi lời muốn nói:
– Quý bạn có biết hiện đang ngồi ở điểm nào
của Lão Sơn không?
– Dạ, không biết vì ở dưới hầm chỉ có ánh sáng
lờ mờ, và không thể nào biết được ở nơi này.
– Ở đây thuộc hướng Đông, giáp hang Làng Lò,
rất gần cứ điểm hang Gió, trên đầu bạn chỉ ngụy trang bằng phên tre, và một lớp
đất 0,2mm.
– Đa tạ anh, hy vọng ngày nào anh em mình gặp
nhau.
– Tôi không hy vọng, gặp ở đây đã quý lắm rồi.
Cho tôi gửi lời thăm và chào quý đồng đội của bạn, chúc như ý.
– Đa tạ….
Máu tại chiến trường đã đổ 4 năm nay, loang
khắp vùng núi Lão Sơn một màu đỏ. Yên lặng của rừng núi biến mất từ khi tiếng
súng ầm vang, vì họ Đặng đã từng tuyến bố vung vít:
– 残酷的战斗为“自卫”打 (Trận đấu quyết liệt
cho việc chơi “tự vệ” )
Đối với lịch sử Trung Quốc, họ Đặng quá tàn
nhẫn khi nói lên lời này, xem quân đội CS Trung Cộng một thứ binh đội của bàn
cờ tướng, tiêu khiển một cuộc chơi bằng người thực, và đảng tàn nhẫn đối với
người dân, để cai trị một đất nước xưa nay vẫn nô lệ họ “Khổng”.
Đảng CS Việt Nam cho đến nay không muốn nhớ
hay cố tình quên lãng những tướng lãnh đã từng tham chiến tại chiến trường Lão
Sơn. Những tướng lãnh ấy không được ghi tên tuổi trong lịch sử chiến tranh cận
đại của quân đội CS Việt Nam. Không nhắc đến tên họ là thiếu sót rất lớn đối
với lịch sử.
Phần đông những tướng lãnh này được đào tạo
tại Liên Xô cũ, cho nên họ có lối điều binh riêng. Nguyên do nào khiến cho tinh
thần họ xuống thấp, đưa đến tình huống tướng lãnh hoảng sợ, đâm ra bối rối
trong lúc điều binh khiển tướng, và thua trận! Ai là người chịu trách nhiệm để
mất lãnh thổ?
Đau đớn thay cho dòng máu người chiến binh đổ
xuống, chảy khắp rừng núi, rung chuyển chiến trường, đem thân chiến đấu, ngăn
trở đạn cối dồn dập đổ xuống lãnh thổ biên giới Lão Sơn Việt Nam.
Huỳnh Tâm
[1] Trung Cộng-CSVN tổ chức hệ thống quân đội
cùng ký hiệu. A (Tiểu đội), B (Trung đội), C (Đại đội), D (Tiểu đoàn), E (Trung
đoàn), F (Sư đoàn), QĐ (Quân đoàn 26), QK1 (Quân khu 1).
Những bài liên quan: