Là một đại danh y tài năng xuất chúng, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hết lòng thương yêu người bệnh, một nhân cách cao thượng và là một nhà tư tưởng, nhà văn nổi tiếng của dân tộc ở thế kỷ XVIII.
Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.
Tượng đài đại danh y Lê Hữu Trác ( Hải Thượng Lãn Ông)
“Hiệu Hải Thượng Lãn Ông: Hải Thượng là 2 chữ viết tắt của quê hương ( Hải là Hải Dương, Thượng là phủ Thượng Hồng. Lãn Ông nghĩa là ” ông lười ” là không màng đến danh lợi.”
Những gì ông để lại có giá trị xuyên suốt hơn 200 năm lịch cho đến tậm hôm nay. Thực hiện những điều khuyên răn của ông, đối với sức khỏe chúng ta mà nói muôn vàn lợi ích. Dưới đây là 10 lời khuyên của ông:Vệ sinh phép giữ thân mình
Tinh hoa dưỡng sinh của Đạo gia, Nho gia và Hoàng Đế Nội Kinh
Ngày nay rất nhiều người quan tâm đến chủ đề dưỡng sinh, nghiên cứu xem nên ăn gì uống gì, luyện tập ra sao… Nhưng thực ra tinh hoa dưỡng sinh đã được các bậc tiền bối đúc kết từ rất lâu rồi.
Thời Xuân thu – Chiến quốc, xã hội Trung Hoa có nhiều thay đổi, các tư tưởng học thuật xuất hiện rất nhiều, như trăm hoa nở rộ. Vậy tinh hoa dưỡng sinh mà các bậc tiền bối Đạo gia, Nho gia và Hoàng Đế Nội Kinh đúc kết được là gì? Sử sách gọi thời kỳ này là bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng (trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở).
Tương tự các tư tưởng học thuật khác, thuật dưỡng sinh cũng thuận theo đó mà phát triển, trong đó có chủ yếu nhất là 2 trường phái Đạo gia và Nho gia.
Đạo gia
Hai nhà tư tưởng đại biểu cho Đạo gia là Lão Tử và Trang Tử.
Lão Tử (Ảnh dẫn theo nguồn vothuat.vn)
Tư tưởng dưỡng sinh của Đạo gia là lấy tĩnh làm căn bản cho sức khỏe và tuổi thọ, đề xướng phản bổn quy chân (con đường tìm về cội nguồn của chân ngã), lấy thanh tĩnh vô vi làm phương pháp.
Lão tử, theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ VI TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỉ IV TCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc. Lão Tử được coi là người viết Đạo đức kinh (道德經) – cuốn sách của Đạo gia có ảnh hưởng lớn, và ông được công nhận là khai tổ của Đạo gia (Đạo tổ 道祖).
Theo đó ông cho rằng, con người nên thanh tỉnh, an nhàn, tương tự như trẻ thơ, sống thuận với tự nhiên, không nên quá nhiều dục vọng. Đó là cách bảo dưỡng tinh thần, tinh khí thủ ở bên trong, giúp tiêu trừ bệnh tật, kéo dài tuổi thọ. Ngược lại, ham muốn quá nhiều, dục vọng vô bờ, sẽ làm cho thân thể tổn thương, tổn thọ.
Đạo gia chủ trương, con người nên bỏ bớt tư tâm và tạp niệm; tiết chế dục vọng, không nên bon chen, giành giật lợi danh; ăn uống giản đơn, ăn mặc cốt sao thấy được cái đẹp của tinh thần, việc chăn gối cần tiết chế không phóng túng… Cốt yếu sao cho mọi sinh hoạt đều thuận với tự nhiên, đạt đến thanh tĩnh để sống lâu.
Thuật dưỡng sinh của Đạo gia mang ít nhiều màu sắc thần bí, nhưng gạn đục khơi trong (bỏ đi cái ô uế mà lấy cái tinh túy), Đạo gia đã để lại cho nhân loại nhiều di sản quý giá, không những các giá trị đạo đức cao đẹp, mà còn lưu lại cho hậu thế các phương pháp dưỡng sinh bậc nhất, điển hình là Thái cực quyền.
Nho gia
Đại biểu Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.
Khổng Tử. (Ảnh dẫn theo tinhhoa.net)
Khổng phu tử (孔夫子) hoặc Khổng tử (孔子) là danh hiệu tôn kính của hậu thế cho Khổng Khâu hay Khổng Khưu (孔丘; 27 tháng 8, 551 TCN – 11 tháng 4, 479 TCN) tự Trọng Ni (仲尼). Ông được suy tôn như một trong những nhà khai sáng Nho giáo, đồng thời là giảng sư và triết gia lỗi lạc bậc nhất cõi Á Đông.
Những câu nói nổi tiếng của Khổng tử là nhân ái là thọ, nhân giả thọ, tức là người có đức lớn tức được thọ (đại đức tất đắc kì thọ). Con người muốn sống thọ phải tu thân, có lòng nhân ái, có đạo đức lớn, có phẩm hạnh cao, có tấm lòng rộng rãi. Muốn tu thân nên thực hành ba điều cấm (tam giới) là không tham cầu nữ sắc, không tranh cường đấu đá, không tham của cải vật chất.
Nho gia quan niệm thuật dưỡng sinh quan hệ mật thiết với đạo tu thân xử thế; muốn sức khỏe, trường thọ, việc cốt yếu là phải tu thân, chú trọng nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Tư tưởng và thuật dưỡng sinh của Nho gia ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sau.
Quản tử
Quản Tử. (Ảnh dẫn theo wanhuajing.com)
Quản Trọng (管仲; 725 TCN – 645 TCN), họ Cơ, tộc Quản, tên thực Di Ngô (夷吾), tự là Trọng, thụy hiệu là Kính (敬), đương thời hay gọi Quản Tử (管子), là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu.
Theo quan niệm của ông, mọi vật trong thế giới do tinh cấu thành; con người cũng do tinh của trời đất hợp thành, tinh là nguồn gốc của sinh mệnh.
Cho nên, muốn sức khỏe và trường thọ phải bảo tinh. Tinh bị hao tổn là do dục vọng quá nhiều, ham nữ sắc, chạy theo của cải. Tiết chế dục vọng, không ham nữ sắc, tiền tài là cách bảo tinh và trường thọ.
Tuân tử
Tuân tử (荀子; 313 TCN – 238 TCN) là một nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung Hoa vào cuối thời Chiến Quốc thì cho rằng, tuổi thọ quan hệ mật thiết với hoàn cảnh sinh sống; cho nên sống phải chọn quê hương (tư tất trạch hương), tức là chọn hoàn cảnh sinh sống thích hợp để được trường thọ.
Lã Thị Xuân Thu
Lã Bất Vi (chữ Hán: 吕不韦; 292-235 TCN)
Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋) còn gọi là Lã Lãm (呂覽) là bộ sách do Lã Bất Vi – thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc sai các môn khách soạn ra những điều mình biết, hợp lại thành sách. Bộ sách này hoàn thành vào năm thứ 8 đời Tần vương Chính (239 TCN). Quan niệm rằng, khí huyết lưu thông thì thọ, tinh huyết ngưng trệ thì sinh mệnh bị thương tổn. Phương pháp dưỡng sinh đề xuất là làm cho khí huyết lưu thông; khí huyết lưu thông thì khỏe và thọ.
Hoàng Đế Nội Kinh
Ản dẫn theo Anle20’s Blog – WordPress.com
Hoàng Đế Nội Kinh, là cuốn sách y học nổi tiếng của Trung Quốc; sách không chỉ tổng kết những vấn đề lớn trong y học, mà còn tổng kết thuật dưỡng sinh của thời kỳ này.
Hoàng Đế Nội Kinh quan niệm, con người với thế giới tự nhiên là một thể tuần hoàn, sự thay đổi biến hóa của tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, sức khỏe, tuổi thọ.
Sự thay đổi biến hóa của tự nhiên đuề tuân theo quy luật Xuân, Hạ, Thu, Đông; chúng ta ai cũng phải trải qua 3 quá trình sinh trưởng, phát dục và suy lão. Vì vậy, cần phải dựa vào những quy luật của tự nhiên để dưỡng sinh. Chẳng hạn, mùa xuân mùa hạ thì dưỡng dương, mùa thu mùa đông thì dưỡng âm; sách Nội Kinh còn nêu phương pháp kết hợp động – tĩnh để điều nhiếp tinh thần.
Đúc rút kinh nghiệm từ các bậc vĩ nhân, người ta đều thấy một điểm chung là sống cần theo lẽ tự nhiên, thuận theo đạo mà hành vì bản chất của vạn sự vạn vật là thiện lương, đó cũng là quy luật vận hành của vũ trụ. Lệch ra khỏi quy luật này, cơ thể sẽ không hòa nhịp được với trời đất, từ đó mà sinh bệnh, mà tổn thọ vậy.
Điều này cũng đã được Lão Tử đúc rút lại trong câu: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo đạo, đạo thuận theo tự nhiên”.
Lương Y Cao Sơn (T/h)
Chuyên mục Sức khỏe, thời báo Đại Kỷ Nguyên nỗ lực mang đến cho bạn đọc những thông tin chính xác và bổ ích nhất. Tuy nhiên khoa học về thân thể người thật rộng lớn và còn nhiều điều y học chưa nhận thức đến được, do đó, các bài viết tại đây chỉ mang tính chất tham khảo. Mọi việc chẩn đoán, điều trị bệnh hay các tình trạng sức khỏe và làm đẹp cần phải có ý kiến các chuyên gia y tế được cấp phép.
Chuyên mục Sức khỏe, thời báo Đại Kỷ Nguyên nỗ lực mang đến cho bạn đọc những thông tin chính xác và bổ ích nhất. Tuy nhiên khoa học về thân thể người thật rộng lớn và còn nhiều điều y học chưa nhận thức đến được, do đó, các bài viết tại đây chỉ mang tính chất tham khảo. Mọi việc chẩn đoán, điều trị bệnh hay các tình trạng sức khỏe và làm đẹp cần phải có ý kiến các chuyên gia y tế được cấp phép.
-Nén
tâm nhang nhân dịp “giỗ”của Đại tướng Võ Nguyên Giáp!
Năm 1984 là thời điểm xảy ra “cuộc chiến” âm thầm nhưng
quyết liệt tại Bộ Quốc phòng giữa các tướng lĩnh chịu ảnh hưởng của Tướng Võ
Nguyên Giáp và nhóm các tướng lĩnh bị chi phối bởi Lê Duẩn-Lê Đức Thọ-Văn Tiến
Dũng, Lê Đức Anh…
Sau Đại hội Đảng lần thứ 4 diễn ra năm 1976, mặc dù Đại
tướng Võ Nguyên Giáp vẫn là Ủy viên Bộ Chính trị, xếp thứ 6 trong bản tổng sắp
14 ủy viên BCT; Tướng Võ Nguyên Giáp vẫn còn chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm
Bí thư Quân ủy TW; nhưng Võ Nguyên Giáp không có chân trong Ban Bí thư ?
Từ 1978, Võ Nguyên Giáp thôi chức Bí thư Quân ủy Trung
ương; TBT Lê Duẩn kiêm Bí thư Quân ủy TW và Đại tướng Văn Tiến Dũng Tổng tham
mưu trưởng kiêm Phó Bí thư Quân ủy TW…
Đến thời điểm 1978, Võ Nguyên Giáp chỉ còn đóng vai trò Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng trên danh nghĩa; Quyền điều binh khiển tướng nằm trong tay
Lê Duẩn-Lê Đức Thọ-Văn Tiến Dũng…Mao từng đúc kết: súng đẻ ra chính quyền !
Đến năm 1980, Võ Nguyên Giáp chính thức bàn giao chiếc ghế
BT Bộ Quốc phòng cho Đại tướng Văn Tiến Dũng. Năm 1984, Võ Nguyên Giáp với cương
vị Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật được
phân công kiêm chức Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch hóa gia đình…lánh xa lĩnh vực
quốc phòng.
Một sự kiện đáng lưu ý: năm 1984, Việt Nam tổ chức trọng
thể Lễ kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7-5-1954-7-5-1984; Đại
tướng Võ Nguyên Giáp không được nhắc tới hay được xuất hiện trong bất kỳ một hoạt
động kỷ niệm trọng thể này…
Người viết bài này còn nhớ, ngay tại Thư viện quốc gia Việt
Nam số 8 Tràng Thi, Hà Nội, dịp này có tổ chức triển lãm những sách, tư liệu viết
về chiến dịch Điện Biên Phủ; Không một cuốn sách nào của Võ Nguyên Giáp được
trưng bày, chỉ thấy sách của Văn Tiến Dũng…
Dịp 5/1984 phía Pháp chủ động cử một đoàn cựu chiến binh
cao cấp từng tham gia trận Điện Biên Phủ trong đó có Tướng De Castries, viên tướng
chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã nghỉ hưu chuyển ngành; thời điểm đó
De Castries đang còn sống, sang thăm lại Việt Nam và chiến trường xưa.
Phía Việt Nam đã không bố trí De Castries gặp lại Đại tướng
Võ Nguyên Giáp…Do vậy De Castries đã hủy không quay lại Việt Nam. Đoàn cựu chiến
binh Pháp do viên tướng 4 sao Michel Bigeard đã quay lại chiến trường Điện Biên
Phủ với sự tháp tùng của Đại tá Phạm Xuân Phương, từng đấu súng với Begeard tại
cứ điểm Nậm Rốm. Năm 1954, Bigeard mới đeo lon trung tá đã đưa một tiểu đoàn nhảy
dù xuống Nậm Rốm để cứu nguy cho Điện Biên Phủ. Lúc đó Đại tá Phạm Xuân Phương,
là lính đã tham gia tấn công cuộc nhảy dù này của Begeard.
Tướng Pháp 4 sao Bigeard và Đại tá Phạm Xuân Phương thăm lại Điện Biên phủ 5/1984
Begeard có tâm nguyện muốn được rải tro của mình xuống
chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa sau khi chết…
Do sự ứng xử cách bức đó đã gây nên những phản ứng ngấm
ngấm trong nội bộ các tướng lĩnh của Bộ Quốc phòng từng chịu ảnh hưởng của Tướng
Giáp. Nhiều vị tướng nắm các cương vị chủ chốt ở Bộ vẫn còn chịu ảnh hưởng của
Tướng Giáp, không phục Văn Tiến Dũng, Lê Đức Anh... Đó là các tướng: Hoàng Văn
Thái, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo, Trần Văn Trà, Vũ Lập, tư lệnh
Quân khu 2 ( tên thật Nông Văn Phách, đổi thành họ Vũ, cùng họ với Võ Nguyên
Giáp), Nguyễn An, Lê Duy Mật…
Một cuộc chiến âm thầm tranh giành quyền lực, tìm cách
khôi phục lại vị thế Tướng Giáp, đưa Tướng Giáp trở lại chính trường đang đẩy mạnh,
tăng tốc trước thềm Đại hội Đảng lần thứ 6- 1986…
Võ Nguyên Giáp bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị tại Đại hội V -1982
và Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Bộ Chính trị tại Đại hội này.
Tháng 12 năm 1986, Lê Đức
Anh được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ
ngày 16 tháng 2 năm 1987
giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng…
Trung Quốc dồn dập mở các
trận đánh lớn tại khu vực Thanh Thủy, Vị Xuyên, Hà Giang từ tháng 2/1984, là dịp
Việt Nam chuẩn bị kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ là một dụng ý quân sự
lẫn chính trị…
Giai đoạn 1979-1984 trở về
trước, Trung Quốc chỉ tổ chức nhưng trận đánh quy mô cấp tiểu đoàn tại khu vực
Lao Chải, Vị Xuyên, Hà Giang, lấn chiếm các Cao điểm 1800 A-B…
Trung Quốc đã tập kích
đánh chiếm cao điểm 1509 tại khu vực cửa khẩu Thanh Thủy Vị Xuyên vào 28/4/1984
trước kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ đúng 1 tuần.
Trận 12/7/1984, Trung Quốc
đã đánh trả quyết liệt cuộc phản công của 5 trung đoàn quân đội chính quy Việt
Nam nhằm dành lại một số cao điểm tại khu vực Thanh Thủy, Vị Xuyên, Hà Giang bị
Trung Quốc lấn chiếm đầu năm 1984; Các Sư đoàn của Việt Nam đã phải chịu tổn thất
nặng nề đó là các Sư đoàn 356, 316, 312, 314 và 313 …
Tổn thất trận 12/7/1984,
theo thông tin của các các cựu chiến binh phía Việt Nam: hy sinh khoảng 2000 bộ
đội; Riêng Trung đoàn 876 của Sư 356 hy sinh trên 600 bộ đội…
Các sư đoàn của Việt Nam
tham gia đánh trận 12/7/1984 tại Vị Xuyên Hà Giang là những sư đoàn danh tiếng
từng tham gia chiến địch Điện Biên Phủ và chiến dịch giải phóng Tây Nguyên mùa
xuân 1975: Sư đoàn 312 tiền thân là Đại đoàn 312 với vị Đại đoàn trưởng đầu
tiên là Lê Trọng Tấn; Sư đoàn 356 được tách ra từ Sư 316 với vị Chính ủy đầu
tiên là Đại tướng Chu Huy Mân, Thượng tướng Vũ Lập là Đại đoàn trưởng…
Thời điểm đó Vũ Lập, một
viên tướng từng có tên trong 34 chiến sĩ trong Đội quân tuyền truyền giải phóng
quân được thành lập 22/12/1944 đảm nhận Tư lệnh Quân khu 2.
Tham gia trận 12/7/1984
còn có Tướng Hoàng Đan, Đặng Quân Thụy đặc phái viên của Bộ Quốc phòng, người đầu
tiên dẫn quân vào Dinh Độc lập Sài Gòn sáng 30/4/1975 được phái xuống đốc chiến…
Tướng Lê Ngọc Hiền,( đeo kính), Tướng Lê Duy Mật ( ngồi quay lưng) đang truyền đạt Kế hoạch tác chiến trận 12/7/1984 ( MB 84) tại Sở chỉ huy mặt trận tại Làng Ping, Phương Thiện,Vị Xuyên, Hà Giang...Ảnh: Do Tướng Lê Duy Mật cung cấp...
Theo tướng Lê Duy Mật, Chỉ
huy trưởng Mặt trận Hà Giang thời điểm 1984 cho biết: toàn bộ kế hoạch tác chiến,
phương án tác chiến đều do Bộ Tổng tham mưu vạch ra và Tướng Lê Ngọc Hiền, Phó
Tổng tham mưu trưởng, em vợ của Tướng Lê Trọng Tấn, thời điểm 1984 là Tổng tham
mưu trưởng trực tiếp mang xuống truyền đạt tại Sở chỉ huy tiền phương đặt ở
làng Ping, xã Phương Thiện, Vị Xuyên, Hà Giang…
Có thể nói: Trận 12/7/1984
là trận mà phía Việt Nam đã dốc những “quả đấm thép” danh tiếng nhất cả quân sự
lần uy danh chính trị nhằm lấy lại một số cao điểm tại khu vực Thanh Thủy, Vị Xuyên,
khôi phục lại uy danh của quân đội Việt Nam.
Những trận đánh tại Vị
Xuyên Hà Giang còn nhằm giúp Tướng Giáp khôi phục, giành lại thế chủ động tại
chính trường Hà Nội, lấy lại vị thế “cầm súng” của ông trước thêm Đại hội 6…
Thế nhưng trận 12/7/1984 đã
bị thất bại, mục tiêu dành lại một số cao điểm như 772, 233, 1030 đã không thành.
Tổng tham mưu trưởng Tướng Lê Trọng Tấn, viên tướng được coi là Jukov ( Liên
Xô) của Việt Nam, là Hàn Tín ( giai đoạn Hán-Sở tranh hùng, người bày kế cho
Lưu Bang đưa quân vào Hàm Dương, kinh đô nước Tần trước cả Hạng Võ)…đã phải cúi
đầu nhận trách nhiệm trước Thủ tướng Phạm Văn Đồng về tổn thất đau đớn của trận 12/7/1984 này…
Kể cả trong chiến tranh chống
Mỹ, trừ trận Mậu Thân 1968, ít khi quân đội Việt Nam chỉ trong 1 ngày đêm hy
sinh mất 2000 chiến sĩ của những sư đoàn danh tiếng từng tham gia đánh Điện
Biên Phủ, mở màn thành công trận Buôn Ma Thuột 3/1975 và đánh thần tốc vào Sài
Gòn 5/1975…
Nếu cuộc chiến tháng
2/1979 Trung Quốc đã chịu tổn thất nặng nề mặc dù mới đụng đầu với bộ đội địa
phương thì: những trận đánh trong năm 1984 tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang,
phía Trung Quốc đã đẩy lùi và gây tổn thất nặng nề đối với những sư đoàn danh
tiếng nhất, nổi tiếng nhất của quân đội Việt Nam, một đội quân từng được thế giới
khâm phục là thắng Pháp và thắng Mỹ…
Những trận đánh trong năm
1984 tại Vị Xuyên Hà Giang vừa giúp Trung Quốc rửa nhục về các tổn thất trong
các trận đánh tháng 2/1979; quan trọng hơn để hạ uy danh của quân đội Việt Nam,
xóa uy danh của Tướng Giáp cùng với những tướng lĩnh được coi là chịu ảnh hưởng
của đường lối chiến trận của Tướng Giáp ngay trong năm kỷ niệm chiến thắng Điện
Biên Phủ và trước thềm Đại hội Đảng 6…
Những trận đánh khu vực Vị
Xuyên Hà Giang nhằm mục đích không cho Tướng Giáp ngóc cổ lên được tại chính
trường Hà Nội…
Quân Tướng Giáp bị thất trận
do yếu kém, chủ quan khinh địch hay bị “bán độ”, do ai bán độ và bị bán độ như
thế nào trong các trận đánh 1984 ở Vị Xuyên, Hà Giang sẽ phân tích tiếp kỳ sau…
Sử dụng Hiến pháp để củng cố địa vị hợp pháp của chính đảng cầm quyền luôn luôn là “phong vũ biểu” của nền chính trị chính đảng ở Trung Quốc kể từ sau Cách mạng Tân Hợi (1911), dù là Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch hay Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) của Mao Trạch Đông.
Sau khi đánh đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh, QDĐ lên cầm quyền, đưa ra lý luận “Nhà nước của Đảng” (Đảng Quốc), dùng Hiến pháp xác lập mô hình “Đảng trị”, tức “Dùng Đảng để cai trị đất nước”. ĐCSTQ, lúc đó đang hoạt động bí mật, đã kịch liệt phản đối mô hình này. Mãi đến năm 1936 và 1946, QDĐ mới tuyên bố “Trả lại chính quyền cho dân”, và Hiến pháp mới không trực tiếp đề cập địa vị pháp lý của đảng cầm quyền nữa.
Tuy vậy trong thực tế QDĐ vẫn thực hành “Đảng trị”, tiếp tục tạo ra đặc quyền đặc lợi cho đảng mình, khiến cho hầu hết đảng viên QDĐ đều tham nhũng vinh thân phì gia, bị nhân dân căm ghét, họ ủng hộ ĐCSTQ lật đổ chính quyền QDĐ. Sau khi chạy ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch mới tỉnh ngộ: QDĐ thua chỉ vì đảng này tham nhũng suy thoái quá nặng, và ông quyết tâm “Thanh đảng” (làm trong sạch đảng).
Nước CHND Trung Hoa từ ngày lập quốc tới nay đều do ĐCSTQ lãnh đạo, ngoài ra còn 8 chính đảng dân chủ khác hợp tác với ĐCSTQ và chịu sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Trong Chính phủ Trung Quốc hiện có một bộ trưởng thuộc đảng Trí Công, không phải ĐCSTQ. Từ một đảng cách mạng, ĐCSTQ đã trở thành đảng cầm quyền duy nhất, hiện có hơn 80 triệu đảng viên, chiếm tỷ lệ lớn trong các cơ quan chính quyền, xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp và đoàn thể xã hội và đảm nhiệm các chức vụ quan trọng.
Cho tới nay Trung Quốc đã sử dụng 4 bản Hiến pháp: 1954, 1975, 1978 và 1982. Trong đó hai bản Hiến pháp 1975 và 1978 chỉ có tính chuyển tiếp vì thời gian thực thi cực ngắn (3-4 năm). Tiến trình soạn thảo Hiến pháp Trung Quốc là một quá trình không ngừng pháp chế hóa và, về mặt pháp lý, làm suy yếu dần sự lãnh đạo của đảng, đưa vai trò đảng lui vào phía sau sân khấu chính trị.
1) Hiến pháp 1954
Hiến pháp này được soạn thảo dưới sự chủ trì trực tiếp của Mao Trạch Đông, dựa trên cơ sở bản Cương lĩnh chung mang tính chất Hiến pháp tạm thời do Hội nghị Hiệp thương chính trị toàn quốc (viết tắt Chính Hiệp) làm ra năm 1949, trước ngày lập quốc. Sau hơn 3 tháng soạn thảo, ngày 23/03/1954 Dự thảo Hiến pháp được đưa ra toàn dân thảo luận, hình thành bản Hiến pháp chính thức, được Quốc hội thông qua ngày 20-9-1954.
Bản Hiến pháp này tồn tại trong thời gian 20 năm (1954-1975). Nội dung Hiến pháp ngoài Lời Nói Đầu (không thuộc phần chính văn của Hiến pháp nên không phải là quy định pháp luật) ra còn có 4 chương, cộng 106 điều. Hiến pháp tuyên bố Trung Quốc theo chế độ dân chủ nhân dân.
Lời Nói Đầu có xác nhận địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ trong Mặt trận Thống nhất nhưng chỉ khẳng định “tính hợp hiến” của đảng cầm quyền chứ không xác nhận địa vị lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, cũng không có quy định chức quyền của Đảng trong đời sống nhà nước. Tất cả các điều văn trong Hiến pháp này hoàn toàn không nói gì tới ĐCSTQ.
2) Hiến pháp 1975
Được soạn thảo và ban hành trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, khi đường lối tả khuynh đang điên cuồng tác yêu tác quái, Hiến pháp này đề cao lý luận “Tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản” của Mao Trạch Đông, phủ định “công dân nhất luật bình đẳng trước pháp luật”, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và khẳng định thể chế coi sự lãnh đạo ấy cao hơn chính quyền nhà nước. Tóm lại là không tách rời đảng với chính quyền, lấy đảng thay chính quyền, dùng đảng trị nước.
Hiến pháp chỉ có 30 điều thì 10 chỗ đề cập vấn đề liên quan tới ĐCSTQ. Ngoài Lời Nói Đầu ra, các Điều 2, 13, 15 và 16 đều quy định “ĐCSTQ lãnh đạo”. Điều 17 khẳng định Đảng có “quyền đề nghị về nhân sự” người lãnh đạo cơ quan nhà nước. Điều 26 còn viết: “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trước hết là “ủng hộ sự lãnh đạo của ĐCSTQ”. Hiến pháp xác nhận địa vị lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ đời sống nhà nước và có quy định cụ thể về chức quyền của Đảng, như quyền lãnh đạo và quyền thống soái về quân sự, quyền lãnh đạo Quốc hội, quyền đề cử Thủ tướng. Nhưng không có quy định trình tự Đảng phải tuân theo khi hành xử các chức quyền đó, vì thế đã để lại một không gian lớn có tính tùy ý, tạo điều kiện Đảng có thể hành xử quyền lực một cách phi luật pháp.
Do ảnh hưởng của tư tưởng cực tả nên công tác làm Hiến pháp 1975 có xảy ra một chuyện: Ngày 06/09/1970, hội nghị lần hai Trung ương Đảng khóa IX thông qua Dự thảo Hiến pháp này, trong đó có câu “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân là ủng hộ Chủ tịch Mao Trạch Đông và bạn chiến đấu thân thiết của Người là Phó Chủ tịch Lâm Bưu, ủng hộ ĐCSTQ”. Sau đó ít lâu, Lâm Bưu thất bại trong âm mưu ám sát Mao Trạch Đông, ngày 13/09/1971 trốn sang Liên Xô rồi chết do máy bay rơi khi bay qua Mông Cổ. Vì thế cách đặt vấn đề như trên của Dự thảo Hiến pháp trở thành trò cười lịch sử. Rốt cuộc bản Hiến pháp chính thức phải bỏ đi nửa câu “ủng hộ” Chủ tịch Mao và Lâm Bưu và mãi đến năm 1975 mới ban hành. Sự cố này cho thấy việc đưa vào Hiến pháp những yếu tố bất định và không vĩnh cửu, như vai trò của chính đảng và lãnh tụ có thể mang lại hậu quả bi thảm như thế nào.
3) Hiến pháp 1978
Hiến pháp này được soạn thảo sau khi Cách mạng Văn hóa chấm dứt nhưng người chủ trì soạn thảo là Chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong cố nhấn mạnh tư tưởng “Hai Phàm Là” của mình [“Phàm là lời Mao Trạch Đông nói đều đúng; phàm là chỉ thị của Mao Trạch Đông thì chúng ta phải kiên quyết chấp hành”]. Do đó Hiến pháp 1978 cơ bản giữ lại các quy định về địa vị pháp lý của ĐCSTQ như Hiến pháp 1975, chỉ bỏ đi quy định về quyền lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với Quốc hội, và vẫn không có quy định trình tự Đảng phải tuân theo khi hành xử các chức quyền.
4) Hiến pháp 1982
Được soạn thảo rất công phu từ năm 1980, sau khi ĐCSTQ quyết định tiến hành Cải cách mở cửa, Hiến pháp này đã sửa đổi lớn Hiến pháp 1978, đã kế thừa và khôi phục truyền thống tốt đẹp của Hiến pháp 1954. Dự thảo Hiến pháp được đưa ra toàn dân thảo luận, Quốc hội thông qua và ban hành ngày 04/12/1982. Giới lý luận Trung Quốc đánh giá đây là bản Hiến pháp tốt nhất ở nước này từ trước tới nay.
Hiến pháp hiện hành ở Trung Quốc là Hiến pháp 1982 có bổ sung 4 Tu chính án do Quốc hội đưa ra vào các năm 1988, 1993, 1999 và 2004. Lời Nói Đầu (không có tính pháp luật) có thuật lại vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ trong cách mạng và trong xây dựng CNXH.
Tất cả các điều văn (138 điều) trong chính văn Hiến pháp hoàn toàn không có từ “Đảng Cộng sản” và “cộng sản”, nghĩa là không có quy định về địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ, và cũng không có tên bất cứ lãnh tụ cộng sản nào.
Phần nói về quân đội có Điều 29: “Lực lượng vũ trang nước CHNDTH thuộc về nhân dân. Nhiệm vụ của lực lượng này là củng cố quốc phòng, chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân, tham gia sự nghiệp xây dựng quốc gia, nỗ lực phục vụ nhân dân.” Điều 93 Chương “Cơ cấu nhà nước” viết: Ủy ban Quân sự Trung ương nước CHND Trung Hoa lãnh đạo lực lượng vũ trang toàn quốc… Nhiệm kỳ của UBQSTW như nhiệm kỳ của Quốc hội.”
Nhưng Hiến pháp vẫn có quy định: “Tất cả các cơ quan nhà nước và lực lượng vũ trang, các chính đảng và các đoàn thể xã hội, các xí nghiệp, tổ chức sự nghiệp đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật…”, “Bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào đều không được có đặc quyền vượt qua Hiến pháp và pháp luật”. Hai quy định này thể hiện tiến bộ rất lớn vì ở đây từ “các chính đảng” dĩ nhiên đã gồm cả ĐCSTQ, từ “tổ chức hoặc cá nhân” dĩ nhiên gồm cả tổ chức các cấp của ĐCSTQ và người lãnh đạo đảng.
Một số học giả Trung Quốc cho rằng Hiến pháp 1982 vẫn còn một sơ hở là không nói rõ khi trên thực tế có tình trạng tổ chức hoặc cá nhân nào đó nắm giữ và hành xử “đặc quyền vượt Hiến pháp và pháp luật” thì phải xử lý thế nào.
Vì sao Hiến pháp 1982 không có quy định về địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ, tức không giao bất cứ quyền lực nhà nước nào cho ĐCSTQ ?
Theo giải thích đó là vì Báo cáo chính trị tại Đại hội XII ĐCSTQ (09/1982) đã chỉ rõ: “Đảng không phải là tổ chức quyền lực ra lệnh chỉ huy quần chúng”. Điều lệ mới của Đảng đưa ra quyết định lịch sử: “Đảng phải hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật”. Từ năm 1941 Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố phản đối chủ trương “Dĩ đảng trị quốc” [dùng đảng để cai trị đất nước] của Quốc Dân Đảng, nay ĐCSTQ cũng không thể lặp lại chủ trương ấy.
Xét về lý luận, quyền lãnh đạo của Đảng thuộc vào phạm trù chính trị; thực chất nó là một loại uy tín chính trị, tài nguyên chính trị và quyền uy chính trị, chứ không phải là nói việc nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước. Đảng được nhân dân yêu quý, ủng hộ và phục tùng – đây là một loại uy tín chính trị, tài nguyên chính trị và quyền uy chính trị; nó khác với lực cưỡng chế và lực ràng buộc của quyền lực nhà nước. Biểu hiện chủ yếu của nó là sức thu hút chính trị, sức thuyết phục chính trị và ảnh hưởng chính trị đối với quần chúng nhân dân. Đảng lãnh đạo không phải là Đảng trực tiếp nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước để tiến hành cưỡng chế và chi phối quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước và đời sống chính trị của đất nước.
Hiến pháp 1982 viết “Tất cả mọi quyền lực của nước CHND Trung Hoa thuộc về nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan mà nhân dân dùng để hành xử quyền lực nhà nước”. Vì vậy quyền lãnh đạo chính trị của ĐCSTQ nhất thiết không phải là quyền lực đặc biệt, siêu quyền lực, quyền lực vô hạn được đặt ngang hàng thậm chí lên trên quyền làm chủ của nhân dân và quyền lực của chính quyền nhà nước. Đặng Tiểu Bình nói: có một số đồng chí “hiểu nhầm ưu thế của Đảng, cho rằng đảng viên bao biện là ưu thế tuyệt đối của Đảng mà không hiểu rằng ưu thế tuyệt đối đích thực là ở sự ủng hộ của quần chúng. Ưu thế được xây dựng trên cơ sở quyền lực là ưu thế không bền vững”, ông kêu gọi quét sạch mọi di độc của Quốc Dân Đảng “quyền lực của đảng cao hơn tất cả”, “dùng đảng để cai trị đất nước”.
ĐCSTQ giải thích: Chủ nghĩa Mác cho rằng một chính đảng có địa vị cầm quyền không có nghĩa là tổ chức các cấp của đảng có thể lấn át lên trên các cơ quan chính quyền nhà nước, không có nghĩa là nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước một cách trực tiếp, cụ thể. Cách làm sai lầm không tách rời đảng với chính quyền, lấy đảng thay cho chính quyền, trên thực tế chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho địa vị lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Tuy Hiến pháp không giao quyền lực nhà nước cho ĐCSTQ, nhưng trên thực tế việc ĐCSTQ là đảng cầm quyền đã được xác định ở chỗ: Đường lối của Đảng đã thể hiện trong toàn bộ Hiến pháp và các luật pháp khác; và những người do Đảng giới thiệu theo trình tự pháp lý đều đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo chủ chốt trong Chính phủ.
Vì sao việc Hiến pháp 1982 hủy bỏ Điều nói về vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ lại không gây ra sự phản đối trong ĐCSTQ?
Theo giải thích đó là do mấy nguyên nhân sau đây:
1) Cái gọi là hủy bỏ ấy chẳng qua chỉ là khôi phục lại bộ mặt vốn có của Hiến pháp 1954 từng được xây dựng trong thời kỳ Chính phủ Trung Quốc còn là Chính phủ liên hợp, có nhiều chính đảng và nhân sĩ ngoài ĐCSTQ tham gia (tương tự Chính phủ Việt Nam năm 1946). Hiến pháp 1982 được soạn thảo khi cả nước đang đau khổ suy ngẫm lại tác hại của tư tưởng cực tả trong ĐCSTQ thời kỳ “Cách mạng Văn hóa” vừa trải qua.
2) Trong Lời nói đầu Hiến pháp 1982 vẫn giữ lại những chỗ trình bày về vai trò của ĐCSTQ, chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình … (nhưng Hiến pháp không nói gì về việc Đảng lãnh đạo như thế nào).
Các nhà soạn thảo Hiến pháp 1982 cho biết: Hiện nay trong Hiến pháp của 110 quốc gia trên thế giới chỉ có 29 bản Hiến pháp có Lời Nói Đầu, trong đó 5 quốc gia có trình bày về ý thức hệ. Lời Nói Đầu chỉ thuật lại các sự thực lịch sử, vì thế sau này khi sửa đổi Hiến pháp thì các sự thực đó cũng không bị phủ nhận.
3) Điều 1 Hiến pháp đã nói Trung Quốc là quốc gia XHCN chuyên chính vô sản dựa trên cơ sở liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nói chuyên chính vô sản thì mọi người đã hiểu là chuyên chính do ĐCS lãnh đạo. Tư tưởng chỉ đạo ĐCSTQ hiện nay là lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Ba đại diện” (ĐCSTQ trước sau đại diện cho yêu cầu phát triển sức sản xuất tiên tiến của Trung Quốc, cho phương hướng tiến lên của văn hóa tiên tiến Trung Quốc, cho lợi ích căn bản của nhân dân rộng rãi nhất của Trung Quốc).
Tập Cận Bình sẽ bắt đầu ĐH Đảng lần thứ 19 ở vị thế lãnh đạo quyền lực nhất của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ. Khi ĐH Đảng kết thúc, ông Tập có thể trở thành Mao Trạch Đông của thế kỷ 21.
Nhiệm kỳ 5 năm đầu đã qua, ông Tập lần lượt củng cố quyền lực tuyệt đối vào tay. Chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi” của ông tóm hàng loạt tỷ phú, những đối thủ chính trị và một loạt quan chức cấp tỉnh. Gần đây, báo chí TQ bắt đầu gọi ông bằng cái tên “Thống soái Tối cao”, chức danh tương tự Mao Trạch Đông trước kia. Về kinh tế, ông loại ảnh hưởng của Lý Khắc Cường, nắm đầu ngọn cờ cải cách. Trên lĩnh vực thông tin, chính quyền TQ cũng đẩy mạnh nắm chặt.
Giờ, khi ĐH Đảng đến gần, ông Tập tiếp tục hành trình mở rộng quyền lực. Ý đồ tiếp tục nắm quyền nhiệm kỳ 3 ngày càng hiện rõ. Willy Lam, chuyên gia Trung Quốc ở Hong Kong, bình luận: “Tập không vội vã lựa người kế nhiệm”.
Nếu thành công, Tập có thể sẽ lèo lái Trung Quốc tiếp trong kỷ nguyên mới. Ngay khi nắm quyền, ông Tập đã vạch ra “Giấc mơ Trung Hoa” với sứ mệnh “Đại hồi sinh nước Trung Hoa”, phục hồi vị trí siêu cường của xứ Thần Châu trên thế giới. Nhiệm kỳ đầu, ông xây dựng vị thế đối trọng TQ với Mỹ (thành công tương đối): xây dựng ngân hàng AIIB đối trọng với World Bank và ADB cùng “Vành đai, Con đường” 1.000 tỷ USD đang đẩy mạnh xuống phía Nam và Trung Á. Khi Trump đắm đuối “America First” thì Tập lặng lẽ, nhanh chóng lấp đầy vào những “khoảng trống” mà Washington rút lui.
THANH TRỪNG “CLB QUÝ BÀ”
Tôn Chính Tài được coi là ngôi sao đang lên. Vươn lên nhanh chóng, ông trở thành Bộ trưởng Nông nghiệp năm 43 tuổi. Năm 2012, ông trở thành Uỷ viên BCT năm 49 tuổi. Giờ ở tuổi 54, Tôn từng được kỳ vọng sẽ vươn lên tiếp để vào “CLB tối cao” Thường vụ Bộ Chính trị, chính thức một vị trí ứng viên để kế nhiệm ông Tập một ngày nào đó.
Nhưng mọi việc không suôn sẻ vậy. Sáng 14/7, Tôn thức dậy vẫn là Bí thư Trùng Khánh, một trong 4 thành phố trực thuộc trung ương với 30 triệu dân và nền kinh tế mạnh. Tới buổi tối, ông từ ngôi sao nền chính trị trở thành nghi phạm cuộc điều tra tham nhũng. Cơ quan chức năng tóm và di lý ông ra Bắc Kinh vì “vi phạm kỷ luật” – quan chức tiếp theo bị dính trong chiến dịch “ruồi hổ” của ông Tập. Danh sách điều tra lúc này của “ruồi hổ” đã là xấp xỉ 1 triệu người.
Cùng chiều đó, ở thành phố Thanh Đảo, cách đó khoảng 700 km, tương lai chính trị của Tôn bị giáng thêm cú nữa khi Viện kiểm sát Tối cao lục soát một dinh thự cách không xa quê nhà ông. Trong dinh thự đó có bà Hồ Dĩnh, vợ ông. Khi các quan chức trình lệnh bắt bà, bà hỏi: “Các vị đùa àh?”
Cú kẹp gọng kìm loại ngay ngôi sao chính trị đang lên chỉ vài tháng trước ĐH Đảng. Thông điệp ngầm của ông Tập: Đừng vội chọn người kế vị tôi!!!
Hầu hết trong số 7 thành viên Thường vụ BCT sẽ nghỉ kỳ này vì quy định tuổi – trừ ông Tập và ông Lý Khắc Cường – cùng 64.
Giới quan sát đang theo dõi ai sẽ gia nhập “CLB tối cao” này khi những ứng viên mới đều có khả năng kế nhiệm Tập một ngày nào đó. Nhưng lúc này, cuộc chạy đua kế nhiệm Tập có thể sẽ không rõ ràng – như cách Hồ Cẩm Đào hay Tập từng được chọn từ rất sớm trước kia.
Ông Tập sẽ 69t khi hết nhiệm kỳ hai vào 2022, nhưng giới quan sát đều cho rằng ông đang ngắm tới nhiệm kỳ 3, bỏ qua quy định bất thành văn về nghỉ hưu ở tuổi 68.
Đồng minh của ông Tập hiện đang cạnh tranh quyết liệt với những đệ của hai lãnh đạo tiền nhiệm – Giang Trạch Dân (91t) và Hồ Cẩm Đào (74t).
Tôn Chính Tài được coi là người của ông Giang và đã bị loại. Việc bị loại của ông dường như bắt nguồn từ chiến dịch “hổ ruồi” suốt mấy năm nay.
Tháng 1/2015, Mao Hiểu Phong, Chủ tịch ngân hàng Dân Sinh, bất ngờ từ chức sau khi bị điều tra tham nhũng. Ông Mao bị cáo buộc thành lập “CLB quý bà” trong ngân hàng – để cung cấp những dịch vụ có lợi cho vợ của các quan chức cấp cao. Trong số này có bà Cốc Lệ Bình, vợ của Lệnh Kế Hoạch, cánh tay phải của Hồ Cẩm Đào và đã ngã ngựa ngay sau khi ông Tập nhậm chức.
Hồ Dĩnh, vợ Tôn Chính Tài, từng làm tại ngân hàng này và đồng thời là thành viên của “CLB quý bà”. Trong khi một số nói thành viên CLB chỉ “tập luyện yoga” thì nguồn tin khác nói “Vợ ông Tôn là nhân vật trung tâm của CLB và mọi người đều rất ngại, sợ rằng làm gì đó trái ý bà”.
“CLB quý bà là nguồn cơn để loại ông Tôn”, một nguồn tin nói. Nhưng có lẽ ngoài việc chuyện CLB này, việc ông Tôn là nhân vật thân cận ông Giang là nguyên nhân quan trọng khác. Ông Tôn cũng thân cận Giả Khánh Lâm, đồng minh thận cận của cựu chủ tịch Giang Trạch Dân.
Giống ông Tôn, Hồ Xuân Hoa, bí thư tỉnh Quảng Đông, cũng được coi là ứng viên để kế tập ông Tập. Nhưng ông có vẻ thoát được số phận tương tự ông Tôn dù có quan hệ gần gũi với ông Hồ Cẩm Đào – có lẽ là nhờ việc biết im lặng hơn trong các hoạt động chính thức.
Cuối tháng 1, ông Hồ Cẩm Đào bất ngờ xuất hiện ở một phiên chợ hoa Quảng Châu cùng ông Hồ Xuân Hoa. Cả hai cùng xuất thân từ Đoàn Thanh niên, tổ chức với 90 triệu thành viên.
Nhiều người cho rằng vị cựu chủ tịch TQ muốn nhân sự kiện để công khai ủng hộ nhân vật thân cận mình trở thành người lãnh đạo kế tiếp. Nhưng một số nguồn trong đảng đánh giá khác: “Ông Hồ Cẩm Đào xuất hiện để nhắc nhở ông Hồ Xuân Hoa: Đừng có phô trương quá”.
Nguồn khác cũng nói thông điệp của vị cựu lãnh đạo là: ông Tập đã có kế hoạch, đừng có lộ tham vọng sớm quá – điều đó là nguy hiểm. Cũng có nguồn nói vị cựu lãnh đạo đã cam đoan với ông Tập rằng ông Hồ Xuân Hoa sẽ “không bao giờ phản bội”. Tháng 4, ông Tập khen ngợi vị lãnh đạo Quảng Đông: “Tôi đánh giá cao khả năng điều hành của đồng chí ở Quảng Đông”.
Cùng lúc này, ông Tập giới thiệu Trần Mẫn Nhĩ, một quan chức kín tiếng thân cận ông trở thành Bí thư Trùng Khánh, thay thế ông Tôn.
…
THỐNG SOÁI TỐI CAO
Cuối tháng 8, một chiếc xe đặc biệt ập tới một đơn vị quốc phòng ở Bắc Kinh và chở đi tướng Phòng Phong Huy, một trong những thành viên cấp cao của Quân Uỷ trung ương TQ, vì “vi phạm nghiêm trọng kỷ luật” – từ thường dùng cho các vụ tham nhũng.
Thời điểm hạ bệ ông Phòng được coi là bất ngờ khi chỉ một tuần trước ông mới hội đàm với tướng Joseph Dunford, chủ tịch Hội đồng liên quân Mỹ. Ông Dunford dẫn theo vợ với hy vọng sẽ xây dựng mối quan hệ cá nhân tốt với tướng Phòng, người được Washington dự đoán sẽ nắm chức vụ Phó chủ tịch quân uỷ Trung ương quyền lực. Ứng viên số 1 thay thế ông Phòng lúc này là tướng Lý Tác Thành, Tư lệnh mới của lực lượng lục quân – người hoàn toàn không có tên trong Quân uỷ Trung ương hiện tại.
Giống như Mao, ông Tập rất hiểu triết lý “họng súng đẻ ra chính quyền” và rất quyết liệt trong việc nắm quân đội.
Kể từ tháng 7, Xinhua bắt đầu gọi ông Tập là “Zui gao tong shuai” (Thống soái Tối cao), chức vị trước đó chỉ dành cho Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình – những người nắm tuyệt đối quân đội trong giai đoạn nắm quyền.
Cuối tháng 7, ông Tập xuất hiện tại lễ duyệt binh lớn ở vùng tự trị Nội Mông để kỷ niệm 90 năm thành lập quân đội Trung Quốc. Ông duyệt binh khi mặc bộ đồ rằn ri quân phục thay vì bộ đồ đại cán thông thường. Thông điệp rất rõ ràng: ông Tập nắm quyền tuyệt đối quân đội.
Ông Tập có vẻ đã học được bài học từ ông Hồ Cẩm Đào khi chính quyền của người tiền nhiệm luôn ở thế chông chênh về chính trị khi những quan chức thân cận ông Giang vẫn còn nắm chặt PLA.
Với Trung Quốc, để hiện thực “giấc mơ Trung Hoa”, họ cần giành lại vị thế siêu cường như nhà Thanh từng có trước giai đoạn Chiến tranh Nha phiến 1840-42 – giai đoạn bắt đầu thế kỷ bán thuộc địa sau đó mà người TQ vẫn coi là “nhục nhã”.
Nhưng giấc mơ sẽ không thể thành hiện thực nếu Trung Quốc thiếu một quân đội mạnh. Thông điệp ông Tập nêu ra hồi tháng 8 là một câu cũ của Mao nói về sự phục tùng của quân đội: “Nguyên tắc của chúng ta là Đảng kiểm soát họng súng chứ họng súng không bao giờ được kiểm soát đảng”.
ĐI HAY Ở VƯƠNG KỲ SƠN?
Viết thêm chút về Vương Soái ca, người đến giờ chưa ai rõ tình hình đi ở thế nào, đặc biệt sau khi ông bất ngờ tiếp cả Lý Hiển Long lẫn Steve Bannon – ông trùm hắc ám, cựu chiến lược gia trưởng của Trump – cách đây vài tuần. Với nhiều quan chức TQ, gặp Vương Kỳ Sơn, người điều hành chiến dịch “ruồi hổ” còn đáng sợ hơn cả trình diện Diêm Vương.
Lý do Vương ở lại thì rất đơn giản: cánh tay phải của Tâp trong chiến dịch “ruồi hổ”, rất rành kinh tế (Lý Quang Diệu thời còn sống hay ca ngợi vị cựu phó thủ tướng và cựu thị trưởng Bắc Kinh này là “kỳ tài chính trị”) và Vương ở lại thì sẽ có tiền lệ quan chức ở lại khi đã quá 68 tuổi (Vương đã 69).
Một loạt nguồn tin của Nikkei nói ông Vương bày tỏ ý muốn nghỉ. “Vương có vấn đề sức khoẻ và muốn kết thúc sự nghiệp khi ở đỉnh cao với thành công trong chiến dịch chống tham nhũng”, một nguồn nói.
Ông Vương, ông Tập có quan hệ thâm sâu từ thời phong trào “Thượng Sơn, Hạ Hương” (Lên núi, về vùng nông thôn) của Mao Trạch Đông trong Cách mạng Văn hoá. Trí thức trẻ thành thị khi đó được đưa về nông thôn sống và cả Tập và Vương đều được gửi về các gia đình nông thôn ở tỉnh Sơn Tây trong giai đoạn cuối 1960 để sống đời “Hạ Hương”. Giai đoạn vất vả này là nền tảng cho mối thâm tình đôi bên.
Sự “biến mất” của ông Vương trong giai đoạn mùa hè khiến có một loạt tin đồn đoán. Đơn giản vì mỗi lần có trận “đả hổ” lớn, ông thường biến mất – vì vậy mùa hè này là quãng lo sợ với nhiều quan chức. Sự biến mất của ông có lẽ trùng với cuộc đả tướng Phòng Phong Huy (???). Nhiều quan chức cấp tỉnh thường ví những lần ông biến mất này là “Shen yin” – Shen là “Thần” còn Yin là “ẩn”.
Việc Vương Kỳ Sơn tái xuất hiện sau gần một tháng “shen yin” là chi tiết đáng kể – Lý Hiển Long không giấu ý muốn tìm hiểu về việc chuyển giao quyền lực ở ĐH tới trong cuộc gặp với ông Vương. Việc ông Vương xuất hiện cùng vợ cũng đáng kể khi ông dường như trong tình trạng sức khoẻ tốt, rất khác với lời đồn ông bị ung thư gan trước đó.
Chuyện ông Vương đi/ở chưa rõ nhưng chắc chắn một nhân sự chất lượng và hiểu sâu về kinh tế như vậy ở lại sẽ định hình rất nhiều chính trường Trung Nam Hải giai đoạn sắp tới.