Phạm Viết Đào.
Nghiên cứu NQTW 4 khóa 12, chủ blog rất chú ý
tới Khoản 2, Mục 3, Phần II- NHẬN DIỆN NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN
HÓA":
Xin trích:
“Mục 2: Phản
bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển
"xã hội dân sự" . Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. "
(Mục 3- Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ” …)
Mục 6: "Nói
và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo;
nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa
khi đương chức với lúc về nghỉ hưu..."
(Khoản 1- Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị phần II- )
Xem bài liên quan:
( Trích NQ TW4 khóa 12-VOV.VN);
Đối chiếu sự “nhận diện” này của NQTW 4 khóa 12 với
Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam ký ban hành tháng 11/1953 và Nghị quyết của Hội
nghị lần thứ tư ( khóa 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, từ ngày 25 đến
ngày 30 tháng 1 năm 1953 tại Hội nghị lần thứ tư
của Trung ương Đảng Lao động VN; Đây là hội nghị bổ sung và thông qua bản báo
cáo của Hồ Chủ tịch và bản báo cáo của đồng chí Trường Chinh về tình hình, nhiệm
vụ và công tác trong nǎm 1953;Hội nghị lại thông qua bản Cương lĩnh của Đảng
Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất, xác định quyền sở hữu ruộng đất của
nông dân…
Năm 1953 là năm bản lề
chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công năm 1954 tại chiến trường Điện Biên Phủ; Bản
Cương lĩnh và nghị quyết này nhằm động viên nông dân dốc toàn lực sức người,
sức của vào cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ…
Đối chiếu 3 văn kiện
này nhận thấy: đây là một một cuộc xoay đảo về đường lối, chính sách của Đảng
về vấn để quyền sở hữu đất đai của nông dân…
Xin trích
Cương lĩnh và Nghị quyết của hội nghị này phần nói về quyền sở hữu đất đai:
” Để cải
thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến, đánh đuổi đế
quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền, hoàn toàn giải
phóng dân tộc.
Để giải
phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, mở đường cho công thương
nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến
quốc.
Cần phải
xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc
ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện
khẩu hiệu người cày có ruộng…”
... Ruộng đất, trâu bò, nông cụ, v.v. tịch thu, trưng thu và trưng mua đều chia hẳn cho nông dân không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất; họ được quyền sở hữu vĩnh viễn những thứ được chia và không phải trả tiền.
(CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
11/1953)
“Cǎn cứ vào nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam, cǎn cứ vào yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến, Hội nghị
lần thứ tư của Trung ương quyết định:
Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng: tiêu diệt chế độ sở hữu
ruộng đất của thực dân Pháp và của bọn đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ
chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực
hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân…”( NQ hội nghị 4 BCHTWĐLĐVN
khóa 2)
Xin đưa lại toàn văn Bản Cương lĩnh và Nghi quyết TW 4 khóa 2:
Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam tháng 11 năm 1953 về vấn
đề ruộng đất
Cập nhật lúc 15h39 - Ngày
12/10/2016
CƯƠNG
LĨNH CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Tháng 11 năm 1953
Về
vấn đề ruộng đất
Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng
chiến, đánh đuổi đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ,
đánh đổ nguỵ quyền, hoàn toàn giải phóng dân
tộc.
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, mở đường cho công thương
nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến
quốc.
Cần phải xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc
ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế
độ sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện khẩu
hiệu người cày có ruộng.
Trong nhân dân ta, nông dân chiếm gần 90%. Đối với
kháng chiến, nông dân đóng góp nhiều nhất, hy
sinh nhiều nhất. Nhưng nông dân phần nhiều lại
không có, hoặc có rất ít ruộng đất. Nông dân
làm lụng vất vả quanh năm mà vẫn
không được no cơm, ấm áo. Tình hình ấy rất
không hợp lý, không công bằng. Vì vậy, nông
dân yêu cầu được ruộng đất là
một điều rất chính đáng, rất hợp với lợi ích
giải phóng dân tộc. Chỉ có thực hiện khẩu hiệu
người cày có ruộng, làm cho hàng chục triệu nông dân hăng hái tham gia kháng
chiến, thì kháng chiến mới hoàn toàn thắng
lợi, cách mạng chắc chắn thành
công.
Vì vậy, Đảng Lao động Việt Nam định ra cương lĩnh
ruộng đất như sau:
1. Tịch thu toàn bộ ruộng đất và tài sản của thực dân
Pháp và của đế quốc xâm lược khác.
2. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác
của bọn Việt gian phản quốc.
3. Tịch thu hoặc trưng thu (tuỳ tội nặng nhẹ), ruộng đất
trâu bò, nông cụ và tài sản khác của địa chủ
phản động và cường hào gian ác.
4. Trưng thu ruộng đất công và ruộng đất nửa công, nửa
tư bao gồm ruộng phe, ruộng giáp, ruộng tư
văn, tư võ, ruộng các đoàn thể, v.v..
5. Trưng thu hoặc trưng mua (tuỳ trường hợp) ruộng đất
của các tôn giáo.
6. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác
của ngoại kiều hợp tác với đế quốc xâm lược và
nguỵ quyền. Trưng mua ruộng đất, trâu bò, nông
cụ của những địa chủ ngoại kiều khác.
7. Trưng mua ruộng đất, trâu bò nông cụ của địa chủ
kháng chiến và địa chủ thường; địa chủ kháng
chiến, nhân sĩ dân chủ được chiếu cố một cách
thích đáng.
Giá tiền và cách giả tiền do Chính phủ quy định.
8. Xoá bỏ nợ mà nông dân lao động và những người thuộc
tầng lớp nghèo ở nông thôn vay của địa chủ.
9. Xoá bỏ độc quyền của đế quốc và phong kiến về mặt
biển và khúc sông.
10. Không đụng đến ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa
và tài sản khác của phú nông.
11. Kiên quyết bảo hộ ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà
cửa và tài sản khác của trung nông.
12. Bảo hộ công nghiệp và thương nghiệp. Không đụng đến công thương nghiệp
của địa chủ kháng chiến và địa chủ
thường và những đất đai trực tiếp dùng vào
công thương nghiệp của họ.
13. Không đụng đến ruộng đất của những người có ít
ruộng đất phải phát canh vì tham gia công tác
kháng chiến, vì thiếu sức lao động hoặc vì bận
làm nghề khác.
14. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ, v.v. tịch thu, trưng thu
và trưng mua đều chia hẳn cho nông dân không
có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất; họ được
quyền sở hữu vĩnh viễn những thứ được chia và
không phải trả tiền.
15. Lấy xã làm đơn vị chia ruộng đất và theo đầu người
mà chia một cách công bằng.
16. Liệt sĩ, quân
nhân cách mạng, thương binh, bệnh
binh, cán bộ, nhân viên phục vụ kháng chiến và
gia đình họ ở nông thôn không có ruộng đất
hoặc thiếu ruộng đất đều được chia ruộng đất. Liệt sĩ, quân
nhân cách mạng, thương binh, bệnh binh được ưu
đãi trong khi chia.
17. Khi tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất để lại
cho địa chủ (trừ những người bị tù từ trên 5
năm trở lên) và gia đình họ một phần ruộng đất
tương đương với phần ruộng đất được chia của
nông dân.
18. Gia đình nguỵ binh thuộc thành phần nông dân lao
động không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất
thì được chia ruộng đất. Nguỵ binh cũng được
một phần ruộng đất nhưng khi họ chưa bỏ hàng
ngũ nguỵ quân trở về với Tổ quốc thì
ruộng đất ấy do Uỷ ban kháng chiến hành chính
hay nông hội xã quản lý.
19. Những rừng nhỏ, ao hồ, đầm, đất hoang, vườn cây ăn
quả nếu có thể chia, đều chia cho nông dân.
20. Những đồn điền canh tác bằng máy, hoặc những đồn
điền trồng cà phê, cao su, v.v. theo kỹ thuật
tiến bộ, các trại thí nghiệm, những hầm mỏ,
những nơi có cổ tích lịch sử, v.v. thì không chia mà
do chính quyền quản lý.
21. Để thực hiện cải cách ruộng đất phải phát động quần
chúng theo đúng đường lối chung của Đảng ở
nông thôn: dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết
chặt chẽ với trung nông, liên
hiệp phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong
kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản
xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
22. Chính quyền sẽ thành lập Uỷ ban cải cách ruộng đất
từ cấp trung ương đến cấp tỉnh. Dưới sự lãnh
đạo của chính quyền, những Uỷ ban này có nhiệm
vụ lãnh đạo cụ thể phong trào quần chúng, thực
hiện cải cách ruộng đất.
Ở cấp xã, nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng đấu tranh thực
hiện cải cách ruộng đất thuộc về Hội nghị đại
biểu nông dân và Ban Chấp hành Nông hội.
23. Cương lĩnh này định cho toàn quốc, những vùng tự do
có đủ điều kiện thì thi hành trước, các vùng
khác chưa đủ điều kiện thì thi hành sau. Đối
với những vùng dân tộc thiểu số sẽ có quy định
riêng.
Các cấp uỷ chưa được thông tri thực hiện bản cương lĩnh
này thì nhất thiết không được tự tiện làm bừa.
Toàn thể đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải phấn
đấu một cách triệt để và trung thành đặng thực
hiện cương lĩnh của Đảng về vấn đề ruộng đất.
Những đảng viên nào chống lại hoặc có thái độ
giả dối trong khi thực hiện bản cương lĩnh này, những
đảng viên nào che chở cho địa chủ,
không kiên quyết giúp đỡ nông dân, đều không
xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam và sẽ bị Đảng thi hành
kỷ luật.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của Đảng, nhất
định nhân dân ta sẽ vượt mọi khó khăn, hoàn
thành nhiệm vụ lịch sử:
- Tiêu diệt đế quốc xâm lược,
- Xoá bỏ chế độ bóc lột phong kiến,
- Thực hiện một nước Việt Nam độc lập thống nhất, dân
chủ, phú cường.
Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn
kiện Đảng toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 499-503.
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 1 năm
1953
Cập nhật lúc 11h36 - Ngày
14/10/2015
Hội nghị lần thứ tư
của Trung ương đã bổ sung và thông qua bản báo cáo của Hồ Chủ tịch và bản báo
cáo của đồng chí Trường Chinh về tình hình, nhiệm vụ và công tác trong nǎm
1953.
Hội nghị lại thông qua
bản Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.
*
* *
Đối với chính sách của
Đảng về vấn đề ruộng đất từ kháng chiến đến nay, Hội nghị nhận thấy rằng:
1.
Chúng ta chưa nắm vững nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân Việt Nam làphản đế và phản phong kiến, chưa thấy rõ lực lượng cǎn
bản của cách mạng ta là nông dân. Cho nên chính sách ruộng đất của
Đảng chưa được thật đúng để tuỳ hoàn cảnh chung của toàn quốc, và hoàn cảnh
từng nơi, từng lúc mà thực hiện nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ, đặng đánh bại đế
quốc xâm lược câu kết với lực lượng phản động trong nước là phong kiến địa chủ.
2. Cuộc kháng chiến
của ta nhất định phải trường kỳ và gian khổ. Vì chưa nắm thật vững quan điểm
kháng chiến trường kỳ và gian khổ ấy cho nên chúng ta chưa kiên quyết dựa vào
lực lượng cách mạng của quần chúng nông dân, chưa triệt để phát huy lực lượng
to lớn ấy để kháng chiến ngày thêm mạnh, tiến đến giành thắng lợi cuối cùng.
Sai lệch cǎn bản này
đã ảnh hưởng đến công tác xây dựng đảng, quân đội, mặt trận, chính quyền về mặt
tư tưởng và tổ chức.
Nguyên nhân là chúng
ta còn thiếu sót về lập trường và quan điểm cách mạng của giai cấp vô sản.
*
* *
Cǎn cứ vào nhiệm vụ cơ
bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, cǎn cứ vào yêu cầu
cấp bách của cuộc kháng chiến, Hội nghị lần thứ tư của Trung ương quyết định:
Thực hiện chính sách
ruộng đất của Đảng: tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của
bọn đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất
của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông
dân.
Để
tiến tới thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong nǎm 1953, chúng ta phải
phóng tay phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện
giảm tức, chia lại công điền, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian
cho nông dân,chủ yếu là triệt để giảm tô,nhằm thoả mãn bước đầu yêu cầu
chính đáng về kinh tế của nông dân; chỉnh đốn đảng, chỉnh đốn nông hội,
chính quyền và mặt trận về mặt tư tưởng và tổ chức, đập tan uy thế
chính trị của địa chủ phong kiến, giành ưu thế chính trị cho nông dân
lao động ở nông thôn.
Công
tác phát động quần chúng nǎm nay là một bước cần thiết
để thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất.
Để
tiến hành công tác phát động quần chúng nǎm nay, để chuẩn bị công tác cải cách
ruộng đất, chúng ta phải đặc biệt chú trọng đánh thông tư tưởng cho
cán bộ và đảng viên trong Đảng, tuyên truyền giải thích sâu
rộng cho quần chúng đông đảo, trước nhất là quần chúng nông dân. Cho nên công
tác tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện và tổ chức rất là quan trọng.
*
* *
Mặc dầu thất bại nặng,
địch ngày càng tǎng cường lực lượng và công sự để chiếm giữ các đô thị lớn, các
vùng chiến lược quan trọng. Phương hướng chiến lược của ta là tạm thời
"tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" để phân tán lực lượng địch và tiêu
diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do. Như thế để tạo điều kiện hoàn toàn giải
phóng Bắc Bộ.
Do
phương hướng chiến lược này, quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở,
đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch. Bất kỳ ở miền núi hay đồng bằng,
quân đội taphải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ điểm ngày
càng mạnh của địch.
Để thực hiện nhiệm vụ
quân sự ấy, chúng ta phải ra sức tǎng cường quân đội ta về mọi mặt: về xây dựng
và tác chiến cũng như về công tác chính trị, tham mưu và cung cấp. Phải đặc
biệt chú trọng công tác chính trị, nâng cao giác ngộ chính trị cho cán bộ và
chiến sĩ về ý thức giai cấp, về nhiệm vụ cách mạng của quân đội nhân dân.
Để
đảm bảo cung cấp cho bộ đội, cần phải chỉnh đốn việc cung cấp và thành
lập Hội đồng cung cấp mặt trận. Đặc biệt phải chú trọng công tác
giao thông vận tải.
Về
tác chiến và chỉnh quân, phương châm tác chiến của chủ lực là: vận động
chiến là chính, công kiên chiến là phụ. Trên chiến trường sau lưng
địch ở Bắc Bộ và các chiến trường ở Trung và Nam thì du kích chiến là
chính. Việc chấn chỉnh quân đội cần tiến hành về các mặt, chỉnh huấn
chính trị, chỉnh huấn quân sự, chỉnh đốn tổ chức, xây dựng các đơn vị mới.
Trong nǎm 1953, chúng
ta phải làm nǎm công tác chính sau đây:
1.
Công tác chính thứ nhất là phát động quần chúng. Tất cả các
công tác khác đều phải kết hợp với công tác ấy, phục vụ công tác ấy, đảm bảo sự
thành công của công tác ấy.
2.
Tǎng cường sựchỉ đạo chiến tranh của Đảng, đẩy mạnh các công tác chỉnh
quân và tác chiến để tiêu diệt nhiều sinh lực của địch.
3.
Về kinh tế tài chính, phải tổ chức và lãnh đạo cuộc vận động
sản xuất kết hợp với việc phát động quần chúng. Phải chú ý cải thiện đời sống
nhân dân, giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân, tích cực đề phòng và chống nạn
đói. Phải tǎng cường công tác tài chính một cách nghiêm chỉnh để thực hiện
thǎng bằng thu chi. Phải tǎng cường công tác mậu dịch, ngân hàng, đấu
tranh kinh tế với địch. Phải tích cực chống quan liêu, tham ô, lãng
phí.
4.
Về công tác sau lưng địch, tiếp tục tǎng cường về mọi mặt;
phát triển chiến tranh du kích, chống và phá càn quét để củng cố và mở rộng
vùng du kích và cǎn cứ du kích; phá âm mưu của địch xây dựng nguỵ quyền và nguỵ
quân; chống địch phá hoại và cướp bóc kinh tế; chống sự tuyên truyền lừa bịp
của địch. Phải tǎng cường việc tuyên truyền, giáo dục và tổ chức nhân dân. Phải
thực hiện thống nhất lãnh đạo của Đảng và của Chính phủ ở sau lưng địch.
5.
Về chỉnh đảng, kết hợp với công tác phát động quần chúng để
chỉnh đốn chi bộ xã. Tiếp tục chỉnh huấn cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng.
Phải chấn
chỉnh tổ chức, tư tưởng, tác phong của Đảng để thực hiện đầy đủ những
nhiệm vụ và công tác quan trọng kể trên.
Lưu
tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.