Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

TRẬN 12/7/1984 THANH THỦY-VỊ XUYÊN-HÀ GIANG “PHE TƯỚNG GIÁP” BỊ “BÁN ĐỘ” CHO TRUNG QUỐC NHƯ THẾ NÀO ? ( Phần 2)

Phạm Viết Đào.

bài liên quan:

>

Kết quả hình ảnh cho tướng lê duy mậtTướng Lê Duy Mật, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Giang đứng cạnh Tướng Đoàn Khuê tại chỉ huy sở mặt trận đặt ở Làng Ping, Vị Xuyên ( Ảnh Tướng Lê Duy Mật cung cấp cho P.V.Đ )

Ngày 12/7 hàng năm, các cựu chiến binh từng tham chiến tại mặt trận Vị Xuyên Hà Giang chọn làm "Ngày giỗ trận"...Nhiều hoạt động thăm viếng, dâng hương tưởng niệm, thăm lại chiến trường xưa thường được nhiều gia đình và nhiều CCB tự động tổ chức...
Ngày 12/7/1984 là ngày nổ ra một trận đánh lớn, Bộ Tổng tham mưu và Quân khu 2 đã tập trung 5 trung đoàn của 5 sư đoàn thuộc diện sừng sỏ, danh tiếng nhất của Quân đội nhân dân VN tố chức phản công, đánh chiếm lại một số ngọn đồi thuộc khu vực cửa khẩu Thanh Thủy, Vị Xuyên, Hà Giang bị quân Trung Quốc lấn chiếm từ 1980 đến 1984.
Trận 12/7/1984 mang mật danh MB 84...
Các sư đoàn tham chiến trận đánh này:
-Sư đoàn 312, tiền thân là Đại đoàn 312 từng chiến đấu tại chiến trường Điện Biên Phủ 1954; sư đoàn này gắn với tên tuổi của Đại tướng Lê Trọng Tấn; 
-Sư đoàn 316 từng tham gia đánh Điện Biên Phủ, tham gia đánh trận mở màn Buôn Ma Thuột 3/1975; Sư đoàn này gắn với tên tuổi của Đại tướng Chu Huy Mân, Thượng tướng Vũ Lập...
-Sư đoàn 356 được thành lập mùa xuân 1975 mà nòng cốt được nhân bản từ Sư đoàn 316; Sư đoàn này được thành lập trên đất Nghệ An để tung vào trận quyết chiến mùa xuân 1975 tại chiến trường Tây Nguyên;
-Sư đoàn 314 được huy động để đảm nhận một mũi tấn công;
-Trung đoàn pháo binh 457 của Sư đoàn 313, một đơn vị pháo binh thông thuộc địa hình Hà Giang tham gia trợ chiến...
Đốc chiến trận 12/7/1984 về phía Bộ chỉ huy Quân khu 2 có:
- Thượng tướng Vũ Lập- Tư lệnh Quân khu 2, tên thật là Nông Văn Phách, một trong số 34 chiến sĩ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập 22/12/1944 do Tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy;
-Tướng Lê Duy Mật, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên Hà Giang, một viên tướng nổi tiếng trong các trận đánh ở chiến khu Đông Triều trước 8/1945 dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Bình. 
Lê Duy Mật được coi là vị tướng trải ngàn trận nam chinh bắc chiến; là một trong những sĩ quan cao cấp được cử vào chiến trường Nam Bộ 1963 đảm nhận Phó Tư lệnh quân khu 8-9 kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 8-9 trong suốt chiến tranh chống Mỹ...
Kết quả hình ảnh cho tướng lê duy mật
Tướng Lê Ngọc Hiền ( đeo kính), Phó Tổng tham mưu trưởng phố biến kế hoạch MB 84, Tướng Lê Duy Mật ngồi quay lưng...( Ảnh do Tướng Lê Duy Mật cung cấp cho PVĐ)
-Tướng Lê Ngọc Hiền-Phó Tổng tham mưu trưởng-Bộ Tổng tham mưu;
-Tướng Hoàng Đan, sĩ quan đầu tiên đưa quân vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975...
Mặc dù Bộ Tổng tham mưu và Quân khu 2 đã hạ quyết tâm lớn, đưa một lực lượng hùng hậu vào để đẩy lùi quân Trung Quốc xâm lược nhưng không đạt kết quả. Không những thế còn chịu tổn thất nặng nề...
Qua nhiều năm tìm hiểu, truy tầm, đối chứng nhiều nguồn tin, blog Phạm Viết Đào tạm đưa ra 1 thông tin được 2 nguồn tin đáng tin cậy cung cấp:
-Nguồn tin thứ nhất từ một người nặc danh nhận là người nhà của Tướng Đỗ Bá Tỵ, thời điểm 1984 ông ở cương vị Tiểu đoàn trưởng của Sư 313 cho biết: Trận 12/7/1984 quân ta tổn thất mất quãng 2000 chiến sĩ;
-Nguồn tin thứ 2 từ nhà thơ Ngọc Bái, năm 1984 ông là cán bộ tuyên huấn của Quân khu 2; Sau chiến tranh ông GĐ Sở Văn hóa-thông tin Yên Bái . Một lần gặp nhau ở Hội Nhà văn Việt Nam, ông cho biết: Trận đó ta hy sinh mất 2000 sĩ quan và chiến sĩ...
Trong chiến tranh được thua là chuyện thường tình, sự hy sinh mất mát là điều khó tránh...
Trận 12/7/1984 có liên quan gì tới thất sủng, cái chết đột ngột của 2 đại tướng và 1 thượng tướng được cho là thuộc " phe" tướng Giáp? Trong số này có 2 vị liên đới chịu trách nhiệm về trận 12/7/1984...
Có nguồn tin cho rằng: Trận 12/7/1984 quân Tướng Giáp đã bị " bán độ" cho Trung Quốc nên phải chịu thất trận ?
Loạt bài điều tra này nhằm góp phần bạch hóa một số thông tin bấy lâu nay bị bưng bít liên quan tới cuộc chiến ở Vị Xuyên,Hà Giang cách đây hơn 30 năm ...

-MỘT VÀI DẤU HỎI ĐẶT RA VỀ VIỆC SỬ DỤNG PHÁO BINH TRONG TRẬN ĐÁNH CAO ĐIỂM 772 THANH THỦY, HÀ GIANG NGÀY 12/7/1984 ?
Posted by ttxcc2 trên 29/07/2012
Điều tra của Phạm Viết Đào.
Chiến dịch mang mật danh MB 84 mở màn 12/7/1984 có 2 vấn đề tồn nghi cần được làm sáng tỏ: 

1. Kế hoạch tác chiến của MB 84 có bị bại lộ ?

2.Pháo binh ta không hợp đồng tác chiến tốt, có những thời điểm, mũi tấn công pháo ta bắn nhầm vào quân ta ???
3.Trong bài viết này do là người ngoại đạo nên khi viết, phân tích về các vấn đề chiến tranh người viết có thể sử dụng những thuật ngữ quân sự không chuẩn xác, sự phân tích đánh giá có chỗ nào chưa đúng, chưa thỏa đáng, chưa chính xác mong các CCB chỉnh giúp cho…
Trong chiến tranh hiện đại, binh chủng pháo binh là một binh chủng hợp thành hỏa lực với bộ binh, theo các nguồn tin mà chủ blog thu thập được thì tại chiến trường Vị Xuyên Hà Giang, mỗi sư đoàn tham chiến ở đây đều được biên chế 1 trung đoàn pháo binh…
Chủ blog đã điện thoại cho CCB Nguyễn Đình Hát, ông nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo binh 457 của F 313, hiện gia đình ông đang ở Thường Tín, Hà Nội, ông cho biết: “Trong chiến dịch MB 84 mở màn đêm 11 rạng ngày 12/7/1984 có 3 đơn vị pháo binh tham gia chiến dịch này; Đó là các đơn vị: Trung đoàn pháo binh 456- F 356; Trung đoàn 457-F 313 và Lữ đoàn pháo 168”…
Theo CCB Nguyễn Đình Hát thì mỗi trung đoàn pháo binh được trang bị 36 khẩu các loại D 130, 1 tiểu đoàn pháo 85 và 1 tiểu đoàn lựu pháo 105…
Trong trận 12/7/1984 Trung đoàn 457 của ông đã nổ súng hiệp đồng bắn vào các mũi thuộc phía đông 1509 ( các điểm cao 772, 685, 233 ); mỗi đại đội được phân công một khu vực…Như vậy thông tin của CCB Nguyễn Đình Hát xác nhận ý kiến của CCB Trần Ngọc Viên trong bài “CCB TRẦN NGỌC VIÊN LÍNH PHÁO CỦA F 313 KỂ VIỆC THAM GIA CHIẾN DỊCH MB 84 NGÀY 12/7/1984” là xác thực…
Xin trở lại trận đánh Cao điểm 772 qua những dòng nhật ký của một số CCB F 356 nói về sự hiệp đồng tác chiến của pháo binh trong trận đánh này như sau:
Trong Nhật ký chiến dịch MB84 ” do hội sỹ quan biên chế sư đoàn 356 huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An gửi tặng Quân Sử Việt Nam. Nhật ký này do CCB Văn Thông là sỹ quan tuyên huấn của sư đoàn ghi chép lại từ lúc chuẩn bị chiến dịch cho đến khi tổng kết chiến dịch vào ngày 23-7-84 đã viết về lực lượng pháo binh của Sư đoàn 356 như sau “-Trung đoàn pháo binh 150 với phiên hiệu mới là SM50.  Trung đoàn này đã tham gia chiến đấu ngay từ những ngày đầu sang Hà Tuyên. E150 gồm 1 tiểu đoàn lựu pháo 105 là D10, một tiểu đoàn cối 160 là  D11 và một tiểu đoàn pháo 76,2 ly là D12.Tiểu đoàn 12 là tiểu đoàn pháo bắn thẳng hiệu quả nhất là đánh xe tăng địch do Liên Xô chế tạo. Do địa hình của chiến trường Hà Tuyên và quy mô hạn chế của chiến dịch nên sư đoàn chưa cần thiết sử dụng đến tiểu đoàn này vì vậy kế hoạch ban đầu là tiểu đoàn 12 nằm lại Hoàng Liên Sơn cùng với tiểu đoàn xe tăng và một vài đơn vị xây dựng khác.
Tiểu đoàn 11 sau khi sang Hà Tuyên được đưa lên ngay sát đất địch cách điểm cao 772 gần 4 km và tham gia chiến đấu ngay cùng lực lượng pháo binh mặt trận.
Nhiệm vụ của tiểu đoàn 10 là bắn vào sâu trong đất địch phá hoại các trận địa pháo cối, kho tàng quân sự của chúng. Khi chiến dịch mở màn thì chi viện cho bộ binh đánh chiếm 772, 685 và bình độ 1200, 1300.
E150 do thiếu tá Vỹ trung đoàn trưởng và đại úy Hồng tham mưu trưởng chỉ huy. Thiếu tá Thật làm công tác chính trị.”
Kế hoạc tác chiến được vạch ra:
– Pháo hỏa chuẩn bị 125 phút bắn phá hoại và sát thương vào Đ1, Đ2 và Đ4 chia làm 4 đợt mỗi đợt bắn liên tục 30 phút. Riêng Đ3 dùng đặc công đánh lướt tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch, tiếp đó cho đặc nhiệm lên tước vũ khí, gọi hàng số còn lại, bắt tù binh và sau cùng là bàn giao cho tiểu đoàn 3 chốt giữ đánh địch phản kích.”
Còn Nhật ký Đặng Việt Châu-(Quân sử Việt Nam) thì viết về pháo binh như sau:
Theo chỉ lệnh chiến đấu, giờ G là 4h10, pháo binh ta sẽ đánh phá trận địa địch 120 phút. Cụ thể là D1 và D2. Sau đó bộ binh mở cửa mở xung phong đánh chiếm mục tiêu. Nhưng thực tế không có pháo cấp trên bắn phá mà chỉ có một số pháo nhỏ của Trung đoàn bắn vào những mục tiêu đã được chỉ định. Sau loạt bắn đầu tiên thì một số trận địa của ta bị địch phản pháo. Tiểu đoàn 1 và 2 bị pháo địch bắn ngay vào vị trí xuất phát tiến công. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Trung Chỉ, tiểu đoàn phó Bạch Văn Kết, trợ lí tác chiến Nguyễn Văn Thêm cùng số đông cán bộ chiến sĩ hi sinh. Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn phó Phạm Minh Kí, trợ lí chính trị E Nguyễn Văn Ngọ cùng số đông cán bộ chiến sĩ hi sinh. Như vậy tiểu đoàn 1 và 2 ngay từ đầu đã mất sức chiến đấu…
Trước khi viết những dòng này, tôi điện hỏi anh Tứ vì sao pháo cấp trên hôm ấy không bắn như chỉ lệnh chiến đấu. Anh Tứ bảo:”Tôi đã điện cho ông Điếm, thì ông bảo sương mù quá không hiệu chỉnh được”. Tôi bảo:”tôi sẽ hiệu chỉnh cho”. Nhưng vẫn không bắn…”
 Còn thực tế do sương mù dầy đặc nên như thế nàyNhật ký chiến dịch MB 84 viết:
Vậy là pháo cấp trên không thấy bắn như hợp đồng. Đến 3 giờ 30 trung đoàn ra lệnh cho pháo cối đi cùng nổ súng bắn phá hoại vào các mục tiêu đã định trước. Sư đoàn trưởng Bùi Thanh Điếm điện cho trung đoàn trưởng Tứ giờ G là 3 giờ 40 phút hoặc có thể chậm hơn.
Và:6giờ 45 phút: Sương mù vẫn dầy đặc che chắn hết mọi tầm nhìn. Đồng chí Hùng báo cáo về sở chỉ huy E là địch ở Đ3 phản kích mạnh, quân ta một số thương vong, có thể đồng chí Thanh đã hy sinh trước cửa mở, đề nghị pháo bắn vào Đ3 để chúng tôi xung phong.
Trời biên giới buổi sáng sương mù đặc quánh không nhìn rõ mục tiêu. Phương tiện liên lạc với cấp trên bằng vô tuyến nhiều lúc không thu phát được, hữu tuyến hầu như mất liên lạc hoàn toàn. Do vậy sư đoàn không nắm chắc tình hình hiện nay ở Đ3 như thế nào để dùng pháo binh chế áp hỏa lực địch và chi viện cho bộ binh D3 đánh chiếm điểm cao.”

Nhật ký chiến dịch MB 84 viết tiếp:- “Ở hướng tiểu đoàn 2 lúc 6 giờ 30 phút đồng chí Đệ D trưởng báo cáo: Đề nghị trung đoàn cho mở cửa Đ1 lên phối hợp cùng các hướng, và được E chấp nhận. Lệnh mở cửa vào Đ1 thì E trưởng lại nhận được báo cáo:
– Bộc phá mở cửa không có kíp.
– Dùng bộc phá dự bị.
– Bộc phá dự bị cũng hết.
– Dùng B40-B41 để mở cửa.
( Đây là đoạn đối thoại giữa E trưởng Tứ và D trưởng Đệ trong giây phút hiểm nghèo )
Tại hướng mở cửa của Đ1 nhiệm vụ mở cửa được giao cho một phân đội công binh phối thuộc của D17 gồm 6 người trong đó có một trung úy chính trị viên C3 D17 chỉ huy. Khi lên đến vị trí mở cửa thì còn lại 3 người. Nhận lệnh mở cửa thì tình huống ” kỳ lạ ” là bộc phá không có kíp. D trưởng Đệ lệnh cho trung úy xuống lấy kíp và đưa 3 người còn lại lên, trung úy ra đi và không thấy trở lại nữa.
Hướng mở cửa của Đ1 do D2 đảm nhiệm phải dùng B40-B41 và DKZ, cửa mở chưa thông thì lệnh xung phong. Lệnh xung phong trong hoàn cảnh hết sức khó khăn ngoài dự kiến. Trong điều kiện pháo ta chưa phá hoại được gì trên trận địa của địch, hỏa lực của địch lúc đó từ 2 hướng Đ1 xuống và 685 sang. Riêng hướng 685 hỏa lực 12,7 ly và DKZ  của địch đặt giữa hẻm núi trong các hang hốc của vách lèn đá hết sức hiểm hóc và lợi hại. Địch bắn lướt vào sườn của đội hình tiến công của D2 rất hiệu quả, thật độc ác và thật nguy hiểm. Hỏa lực đi cùng của ta rất khó khăn trong việc tìm cách tiêu diệt địch, những luồng đạn bắn thẳng căng ghê rợn, tiếng nổ của DKZ đanh khủng khiếp dội vào lưng quân ta rất chính xác.
Trước tình hình không thuận lợi, đợt xung phong đầu tiên không thành tuy vậy tinh thần và ý chí của bộ đội ta quyết không hề lùi bước. Nhiều phân đội, nhiều đồng chí trong đó có nhiều cán bộ vẫn dũng cảm xông lên không một phút chần chừ. Như vậy đã chiếm được chiến hào 1 nhiều phân đội lên gần hết cửa mở….và nằm lại đấy….
Đợt xung phong đầu tiên của ta đã thương vong tương đối lớn trong đó C6 nặng hơn. Đồng chí Ký D phó hy sinh cùng với một số đồng chí cán bộ khác.”
 
( Nhật ký chiến dịch MB 84 của Văn Thông-Quân sử Việt Nam )
Như vậy, qua 2 cuốn Nhật ký của Văn Thông và của Đặng Việt Châu CCB F 356 thì từ đầu F 356 đã bố trí 1 trung đoàn pháo binh tham gia trận đánh này, trùng với thông tin do CCB Nguyễn Đình Hát cung cấp.
Một dấu hỏi đặt ra ở đây là: phía Trung đoàn 457 của F 313 cho biết đơn vị này đã nổ súng hợp đồng với bộ binh, thế nhưng phía F 356 lại cho biết do sương mù nên 356 không hiệu chính được mục tiêu nên không bắn được…
Chủ blog có hỏi CCB Nguyễn Đình Hát thì ông cho biết: Đối với pháo binh không phải như bộ binh, muốn khai hỏa phải đo đạc phần tử bắn trước đó mấy ngày trời, do đó dù sương mù nhưng đơn vị ông vẫn khai hỏa được…Có thể pháo binh của F 356 chưa thông thuộc địa hình nên không nổ súng được ?
Đây là một dấu hỏi: một chiến dịch lớn, huy động 3 trung đoàn bộ binh của 3 sư đoàn thế mà vì sương mù nên pháo binh 356 không nổ súng được ? Có gì uẩn khúc bên trong khi pháo binh của 356 không nổ súng? Người viết chưa liên hệ được với CCB của Lữ đoàn 168, không biết đơn vị pháo binh này có nổ súng hiệp đồng không? Nếu đánh chốt, đánh cao điểm mà pháo binh không hiệp đồng, không yểm trợ, trong khi đó thì pháo binh Trung Quốc đánh ta hơn cả Quảng trị 1972 theo CCB Nguyễn Đình Hát; Nếu pháo binh không tham chiến thì khác gì đem con bỏ chợ, lấy thịt ta đè pháo Tàu ? Lý do mà một số CCB 356 lấy lý do do sương mù không bắn được đối với một người “ ngoại đạo” về chiến trận như chủ blog thấy không thuyết phục lắm ???

Thế nhưng trong phản hồi của bài CCB ĐẶNG VIỆT CHÂU VIẾT TIẾP VỀ TRẬN ĐÁNH CAO ĐIỂM 772 ĐÊM 11 RẠNG NGÀY 12/7/1984 trên phamvietdao.net, một cựu chiến binh đã phản hồi như sau về hướng tấn công này của quân ta:“Nặc danh 08:30 Ngày 27 tháng 7 năm 2012trong lúc đánh thì khó phát hiện pháo ta hay pháo địch vì tai thì ù ,đầu cúi gầm để tránh đạn pháo. đó là khoảng thời gian từ 4h10 đến gần 6h sáng ngày 12/7/ 1984 tại Đ1 cao điêm 772 mà những người lính của c5 ,c6 d2 e876 chứng kiến và chịu đựng.thời gian khoảng ( vì chúng tôi không có đồng hồ) 6h đến gần 8h thì tại vị trí đoạn hào thẳng theo hướng lên đỉnh đồi nơi quân hoả lưc côi 60 và đại liên của c6 d2 e876 phải hứng chịu đkz ,14ly5,12ly7,và đặc biệt đạn 37ly bắn thẳng trực diện .tôi khẳng địmh 37ly bắn từ đỉnh cócngè sang.ngày13/7 tôi gặp anh em c8 d2 cối 82 họ nói lúc bắn cắp tập thì họ ko biết nhưng sau họ nhận lệnh là dừng vì đã bắn vào bộ binh của mình.”
Đọc những dòng hồi âm này vài chỗ viết sai chính tả nhưng chủ blog cũng đoán ra ý tứ của CCB này muốn đưa 1 thông tin lên mạng: Đơn vị của CCB này bị chính pháo của ta bắn trúng đội hình…
May mắn người viết bài này đã gặp được một nhân chứng còn sống sót của đơn vị cửa mở thuộc D 2, E 876, F 356, CCB này trực tiếp đánh mũi chính yếu lên Cao điểm 772…Vì lý do tế nhị, CCB này đề nghị dấu tên và hẹn sắp tới sẽ cùng người viết lên tận ví trí này để quan sát xác định vị trí của loạt pháo bắn vào đơn vị mình xem là của Trung Quốc hay của ta…
Theo nhiều CCB thì Cao điểm 772 Trung Quốc đã trả lại cho ta…Đưa lại vấn đề này không nhằm mục đích phê phán hay tìm cách kỷ luật ai mà để lưu ý một điều: Trong hòa bình sự tác trách, quan liệu có thể dẫn tới sự thiệt hại, mất mát hàng ngàn tỷ đồng; trong chiến tranh đó là hàng ngàn mạng sống phải hy sinh oan uổng vì một cái lệnh, một sự ú ớ của một cấp chỉ huy nào đó ?!
CCB đã kể với người viết như sau: "CCB dẫn đầu một tốp gồm 9 chiến sĩ có nhiệm vụ mở đột phá khẩu…Theo kế hoạch hợp đồng từ trước thì đêm 11/7/1984 tiểu đội anh có nhiệm vụ áp sát “vành khăn” đầu, tuyến phòng thủ thứ nhất cách khoảng 50 m để chờ cho pháo binh dọn đường…Nếu pháo binh bắn trúng tiền duyên của địch thì cũng sẽ cách quân ta nếu sai số cũng từ 30-40 m trở lên. Sau khi pháo bắn dọn đường 30 phút ngưng, đơn vị này sẽ ôm bộc phá xông lên mở đột phá khẩu…
Thế nhưng loạt pháo đầu tiên nổ lại chỉ cách nơi ẩn nấp của anh khoảng 5-7 m làm cho 2 chiến sĩ của anh chết tại chỗ…Thấy có dấu hiệu pháo binh bắn sai, CCB này lập tức cho mở máy thông tin để báo về sở chỉ huy điều chỉnh pháo thì trong máy toàn nghe tiếng Tàu, máy bị phá sóng; cho thông tin nối dây để gọi điện thoại giây thì người chạy đi không quay về, có thể đã hy sinh và thông tin bị cắt…Thế là đơn vị anh này im chịu trận nghi là của pháo ta…
Anh nhìn rõ những luồng đạn lửa từ phía sau lưng nện vào đội hình của Tiểu đoàn của mình. Pháo binh khi khai hỏa thường lún chúc nòng lên có nghĩa là những loạt đạn sau càng lùi vào đội hình quân ta mà giã…Sau nửa tiếng, tuy bị tổn thất nhưng tiểu đội cửa mở của anh còn vài người vẫn xông lên phá được hàng rào giây thép gai…Điều lạ ở đây là: Thông thường khi đã lộ cửa mở bị tấn công, địch sẽ tập trung hỏa lực về phía cửa mở, nhưng không, địch gần như bắn lại thưa thớt ? Có dấu hiệu chúng dồn hỏa lực về phía mũi bên kia, mũi mà ta vu hồi sang phía Trung Quốc…Còn phía của mở của đơn vị anh thì sau khi pháo binh ta ngừng là lúc pháo Trung Quốc bắt đầu bắn phá ác liệt…Sau khi pháo binh Trung Quốc bắn phá ác liệt mấy chục phút, bộ binh của chúng bắt đầu phản công và CCB này cho biết anh và một vài đồng đội sống sót và vừa rút lui vừa bắn trả…CCB này cho biết khi anh lùi xuống phía dưới thì nhìn thấy la liệt các thương binh tử sĩ của ta không rõ bị trúng pháo ta hay hay pháo Trung Quốc? Những thương binh này sau đó đã bị bộ binh Trung Quốc truy kích xuống bắn chết hết…

Cũng về diễn biến của mũi tấn công này, trên Quân Sử Việt Nam,CCB ngocquyen C6 đã viết như sau:
“Chào bác Kimt d3 f356
Suy nghĩ của bác cũng là của em,nỗi đau của bác cũng là nỗi đau chung. Em thằng lính bắn cối 60,trong tay 2 khẩu cối cùng 11 anh em .Vậy mà ngày hôm sau 13/7/1984 trở về lèn đá 468 chỉ còn mình em,chẳng còn ai!!! Đau quá,chẳng khác gì chết cả nhà còn một mình sống làm gì? chỉ vì điều này mà nó dằn vặt em suốt 28 năm qua, người sống sót sao không phải ai khác mà lại rơi đúng vào em? Mang tiếng gọi là”cầm quân đi đánh” mà chẳng khác gì đi thí quân! Đau lắm các bác ạ…em nguyền rủa cái đoạn hào thẳng soi gương 685 lúc tảng sáng ngày 12/7. Tất cả bọn em nằm ở đoạn này, em nằm trên cùng ,lần lượt dưới chân em là các pháo thủ. Chờ đợi phân đội mở cửa của c5 đánh bọc phá mở cửa là xông lên nhưng C 5 không mở được cửa, trời lại sáng…vậy là chúng nhìn quá rõ quá sát chúng em…Những làn đạn bắn thẳng, đkz,14ly5 ,12ly7…cứ cày tung chúng em lên…lúc đó mặt em úp sát xuống đáy hào đến khi nghe tiếng tiểu đoàn trưởng Đệ hô” thê đội hai,tôi vùng dậy lao lên, chưa kip tiến bước nào thì “ầm” mặt mũi tôi tối xầm chẳng biết gì nữa…Thời gian bao lâu tôi không biêt…Đến khi đầu tôi mơ mơ mắt tôi nhìn thấy mờ mờ mẹ tôi mặc áo nâu đứng phía trước và nói “con bình tĩnh, đến chỗ ngã ba rồi con nhảy xuống”; tôi chồm lên ôm mẹ,miệng gọi mẹ!mẹ! ( Mẹ tôi mất năm 81 thọ 49 tuổi) nhưng không thấy mẹ đâu…Lúc này tôi mơi biết là mình mơ.Tôi tỉnh,nhưng người ê ẩm nặng trĩu và khó thở, mở mắt ra nhìn thì tối om,lúc này tôi mới biết là mình đang bị vùi dưới giao thông hào.Tôi dùng tay bới, vạch đất để thở và mắt nhìn thấy trời…Tôi cố dùng sức vùng dậy, nhìn xung quanh thì: ôi thôi cảnh tượng tan nát,tan hoang máu me, bùn đât nhão nhoét,người chết la liệt…Chưa kip hoàn hồn thế nào thì nhìn thấy phía trên đỉnh đồi, cách chỗ tôi đứng chừng khoảng hơn chục mét,thấy lố nhố người, rồi tiếng súng bộ binh… Tôi nhìn rõ mấy thằng lính Tàu đứng,cầm ak bắn xuống giao thông hào.Trong nháy mắt tôi nhận ra bọn chúng đang bắn những đồng đội mình bị thương còn nằm ở chiến hào.Tôi  giương súng ak đang cầm trong tay nhả đạn về phía bọn chúng.Tiếng ố ố xì xồ rồi tiếng loat soạt đan cày xung quanh tôi.Tôi vừa tránh đạn vừa bắn trả bọn chúng, rất may lúc này không có pháo.Trong đầu tôi lại nghĩ: “chả lẽ quân mình chết hêt rồi hay sao? Hay anh em rút hêt rồi? ” Lúc này không kịp nghĩ nữa rồi,chúng ( lính Trung Quốc ) hò nhau tràn xuống bắn xối xả về tôi. Không còn  đường nào khác tôi vừa bắn trả vừa rút xuống phía dưới,lao qua các anh em mình đã hy sinh la liệt trong giao thông hào mà lòng đau như cắt. Xuống tới đoạn hào cong hình vành khăn,tôi ép mình vào thành hào bắn ngược lên.Bọn chúng vẫn ào ào lao xuống,trong lúc tôi đang bắn trả quyết liệt chúng ,thì nghe thấy tiếng quát to ‘quyền lưu đạn” theo phản xạ tôi nằm sấp xuống, một tiếng nổ sát mang tai,đất đá bay rào rào. Tôi nhỏm dậy lắc lắc cái đầu cho đất rơi xuống,rồi lại bắn.Tôi nhìn thấy thằng Bảo,Trung đội trưởng Trung đội 2 cùng C 6 với tôi. Mừng quá, nhưng chúng xuống sát mình quá rồi. Hai anh em chụm lại quay lưng vào nhau mỗi người bắn một hướng ,vừa bắn vừa rút.Đến đoạn giao thông hào vỡ tạo thành rãnh, hướng xuống dưới chân đồi.Trong đầu tôi lại hiên ra hình ảnh gặp mẹ và lời mẹ dặn đến” ngã ba”. Tôi nghĩ hay là đây chăng.Tôi vừa bắn vừa hô” Bảo nhảy”. Thế là 2 anh em tôi bật khỏi chiến hào và tụt xuống dưới suối ở chân đồi.Trên đoạn tụt này, cây cối đổ nhằng nhịt, đất đá tứ tung,nhầy nhụa bùn,máu và anh em mình đã hy sinh. Tôi nhân ra anh Ký tiểu đoàn phó và anh Hòa C phó chính trị viên C6 đã hy sinh rồi nhưng vì bọn địch vẫn đang bắn đuổi hai anh em nên bọn tôi không làm gì được buộc phải rút xuống…
Lúc này mặt trời đã trên đỉnh đầu, tôi đoán khoảng hơn 11h gì đó…Vậy đó ! tôi không phải là thằng bội ước rút trước, tôi cũng chẳng phải thằng nướng quân mà may mắn tôi thoát được thôi! Tôi mong vong linh anh em hiểu cho tôi. Tôi mong gia đình các anh hiểu cho tôi. Tôi mong đời đời con cháu về sau biết đến sự hy sinh của các anh !!! .

P.V.Đ.

Được đăng bởi Nhà văn Phạm Viết Đào

Thứ Hai, 2 tháng 10, 2017

Bauxite – Nhôm: Lỗ nghìn tỉ vẫn “vẽ” tiếp dự án

(Bạn đọc) - Mới đây, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã đề xuất đầu tư, mở rộng sâu hơn vào Nhà máy Nhôm thuộc Tổ hợp Bauxite – Nhôm Lâm Đồng. Đề xuất này khiến cho không ít đại biểu quốc hội băn khoăn, dư luận bất ngờ, lo lắng.

TKVđề xuất mở rộng bauxite - nhôm Lâm Đồng
TKV đề xuất mở rộng bauxite – nhôm Lâm Đồng
Vấn đề này không một ai có thể hình dung nổi. Bởi vì, cách đây không lâu kết quả của đoàn thanh tra Bộ Tài chính cho thấy: Tính từ tháng 10/2013 đến hết tháng 9/2016, bauxite Tân Rai đã thua lỗ 3.696 tỷ đồng. Trong đó, lỗ do hoạt động sản xuất, kinh doanh là 2.520 tỉ đồng, lỗ do chênh lệch tỉ giá khoảng 1.176 tỉ đồng. Con số lỗ này đã vượt xa so với số lỗ luỹ tiến dự kiến theo kế hoạch là 1.660 tỉ đồng (không kể phần lỗ do chênh lệch tỉ giá).
Đáng lưu ý ở chỗ, dù đang trong tình trạng lỗ nặng như vậy nhưng thật bất ngờ đầu năm 2017, báo cáo của TKV về dự án Nhà máy alumin Tân Rai, lại cho biết trong 6 tháng đầu năm lợi nhuận trước thuế của Nhà máy đã ước đạt trên 60 tỉ đồng.
Một chuyên gia kinh tế đánh giá: “Với số lỗ như thế, điều kiện sản xuất khó khăn như vậy mà năm trước báo lỗ, năm sau đã báo lãi cả mấy chục tỷ quả là siêu phàm, không thể tin tưởng được”.
Đại biểu Quốc hội Trần Anh Tuấn (TP. Hồ Chí Minh) trăn trở chuyện mở rộng dự án và nói sẽ phản ánh vấn đề này qua nhiều kênh thông tin: “Tôi rất lo ngại, nếu lại tiếp tục có thêm một dự án được vẽ ra rất đẹp để xin chủ trương đầu tư nhưng cuối cùng lại rơi vào tình trạng thua lỗ sẽ rất nguy hiểm. Bản thân dự án bauxite – nhôm Tân Rai hiện cũng đang phải chịu ảnh lỗ ròng cao hơn gấp 8 lần dự kiến của chủ đầu tư ban đầu rồi, chúng ta không thể cứ để danh sách những dự án thu lỗ được nối dài thêm nữa”.
Thực tế cho thấy dự án Tân Rai, Nhân Cơ đang sử dụng nhiều công nghệ Trung Quốc, vừa lạc hậu, vận hành lại không đạt được hết công suất thiết kế trong khi đó tiêu hao điện, nước, kiềm, năng lượng thì quá lớn. Cộng thêm những chi phí vận chuyển không thuận lợi, tất cả những yếu tố trên đã tác động rất lớn tới chi phí sản xuất, làm đội giá thành sản phẩm.
Tân Rai sử dụng công nghệ Trung Quốc lạc hậu cũng là một mần họa?
Tân Rai sử dụng công nghệ Trung Quốc lạc hậu cũng là một mần họa?
Mặt khác, nhôm không phải là kim loại quý và chưa có quốc gia nào coi bauxite là khoáng sản chiến lược để dốc sức khai thác như nước ta. Chuyên gia Tô Văn Trường – nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch nông nghiệp Việt Nam đi sâu vào vấn đề của người nông dân hơn khi cho rằng: “Bộ Công thương và TKV đã không phân biệt hiệu quả kinh tế tài chính của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước. Người dân đang trồng cà phê phải nhường đất cho dự án alumin nên muốn tính hiệu quả alumin, phải lấy lãi từ chế biến bôxit thành alumin trừ đi lãi trồng cà phê, đó mới là lãi thực việc khai thác bauxite đem lại cho xã hội”.
Song song, hệ lụy của dự án bauxite – nhôm dù chưa mở rộng hay mở rộng thêm đều đã được khuyến cáo, và ít nhiều nó đã thành mầm họa trước mắt cho người dân xung quan vùng dự án và vùng phụ cận.
Chẳng phải, cả thập kỷ vừa qua Tây nguyên đang đứng trước nguy cơ sụt giảm nguồn nước nghiêm trọng. Ai cũng dễ dàng nhận thấy người dân nơi đây luôn trong tình trạng khan hiếm nước cho sinh hoạt, nước cho cây trồng. Nếu trưng dụng nguồn nước cho khai thác bauxite, chắc chắn Tây nguyên sẽ chết vì thiếu nước.
Đấy là chưa kể việc chôn lấp bùn đỏ ngay tại Tây nguyên. Với vị trí thượng nguồn của các con sông lớn, những bãi bùn đỏ sẽ trở thành những núi “bom bẩn” nếu xảy ra thiên tai, lũ quét gây tràn vỡ. Khi đó không chỉ các tỉnh Tây nguyên mà người dân các tỉnh Nam Trung bộ, Đông Nam bộ sẽ lãnh đủ hậu quả. Từ đó kéo theo hàng loạt vấn đề về văn hóa – xã hội, thậm chí là các vấn đề an ninh, chính trị.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Tại sao các nhà khoa học đã phân tích rõ các hiểm họa, cái mất nhiều hơn cái được, mà dự án vẫn tồn tại và nay lại xin mở rộng thêm?
Chuyện này làm cho người viết nhớ tới lời của nhà văn Nguyên Ngọc – người được ví như một tác giả, người con của núi rừng Tây Nguyên thực thụ: “Chúng ta đã hành động ở Tây nguyên rất thản nhiên, không hề quan tâm đến chỗ đây là một vùng đất và người rất đặc biệt về nhiều mặt. Thậm chí có thể nói chúng ta đã làm mọi việc ở Tây nguyên như là trên một vùng đất không người”.
Trường hợp này, Quốc hội, Chính phủ cần nghiêm túc xem xét đề nghị này có hợp lý không? Bởi, ngân sách của Nhà nước cũng chính là tiền thuế máu của nhân dân, không thể cứ mãi dùng tiền của dân đầu tư cho những dự án ngàn tỉ mà hiệu quả kinh tế bằng không. Thậm chí, mỗi dự án nó chỉ mang lại lợi ích cho một nhóm người, còn lỗ đã có dân chịu, dân lo.
Mong rằng bất cứ dự án dù lớn, dù nhỏ nào của Nhà nước đều công khai để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nếu Chính quyền tự quyết thì cũng phải tự chịu trách nhiệm trước toàn dân.
Không thể có chuyện Tập đoàn kinh tế Nhà nước kinh doanh đã thua lỗ hàng nghìn tỉ mà vẫn muốn “tô, vẽ” thêm dự án. Để rồi, tất cả hậu quả người dân phải gánh chịu hoàn toàn nhờ những cái đầu ngu và tham!
CTV Sông Trà

Ông Lê Khả Phiêu: Dân, Đảng ủng hộ TƯ và Tổng Bí thư làm mạnh mẽ!

Thứ 2, 06:00, 02/10/2017

VOV.VN - Công tác cán bộ vô cùng quan trọng, để bồi dưỡng một cán bộ đòi hỏi rất nhiều vấn đề, nên mất một cán bộ là thiệt hại cho tổ chức, cho cách mạng.
“Vùng cấm trước đây cũng có, nhưng vừa qua “khui” được nhiều thứ, đó là bước mạnh mẽ của Trung ương, của Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư. Chính cái đó thể hiện sự kiên quyết, giờ đang phải làm và nghiên cứu tiếp tục làm” - Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nhấn mạnh khi trả lời báo chí.
Cán bộ tốt có khi thành xấu nếu không kịp uốn nắn
PV: Vừa qua, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương có nhiều kết luận, kỷ luật và đề nghị xử lý cán bộ vi phạm. Ông có suy nghĩ gì?
Ông Lê Khả Phiêu: Từ khi có Đảng ta đã có các Nghị quyết về công tác cán bộ và đã thấy công tác cán bộ cực kỳ quan trọng, sự lựa chọn để đào tạo trở thành cán bộ cũng lại là một bước vô cùng quan trọng. Bồi dưỡng rồi nhưng khi vào thực tiễn cuộc sống mới thể hiện bố trí người cán bộ đó có đúng và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hay không.
nguyen tong bi thu le kha phieu: dan, dang ung ho tu va tong bi thu nguyen phu trong lam manh me!  hinh 1
Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu: Muốn đánh giá sát nhất cán bộ phải thông qua thực tiễn, phải dựa vào quần chúng nhân dân
Có người tốt nhưng không phù hợp với công việc được bố trí. Chính quá trình theo dõi, giám sát cán bộ chưa thật sát nên có khi bố trí ở vị trí đáng ra ở cấp thấp lại vượt vài cấp hay chưa hợp lý nên mới có vấn đề nọ, vấn đề kia.
Tuy nhiên, cũng có tình huống người cán bộ được đánh giá đúng, bố trí đúng, nhưng khi vào thực tế thì người đó không phát huy được, thậm chí mắc sai sót. Như thế cũng tức là đánh giá chưa sát, chưa chắc.
Muốn đánh giá sát nhất cán bộ phải thông qua thực tiễn, phải dựa vào quần chúng nhân dân và các tổ chức, các cấp.
PV: Liệu có tiêu cực trong công tác cán bộ dẫn đến những sai sót không, thưa ông?
Ông Lê Khả Phiêu: Có nhiều cái ta đánh giá đúng, đưa cán bộ phù hợp, nhưng cũng có lần ta đánh giá sai, chưa sát để tìm ra yếu tố đánh giá chính xác về con người nên bố trí không đúng.
Bản thân cán bộ là một chuyện, nhưng tổ chức quản lý cán bộ phải chặt chẽ, phải hiểu được quá trình trưởng thành của cán bộ, có ưu nhược điểm gì. Chỉ thấy vài thành tích tốt rồi tâng lên ghê gớm khiến họ tự kiêu, trở thành người thành tích, rồi sau đó lại thoái hoá dần dần, nên người tốt cũng có khi thành xấu.
Cái quan trọng nhất khi nói đến công tác cán bộ là bản thân cán bộ phải tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự phấn đấu, nhưng tổ chức phải biết được cái mạnh, cái yếu của họ. Chưa kể đến tiêu cực, nể nang mà chỉ cần những người có thành tích nhiều nhưng nảy sinh vài cái yếu mà tổ chức không thấy hoặc bỏ qua thì cái yếu nảy sinh khiến cái mạnh giảm đi, dẫn đến người cán bộ ban đầu tốt nhưng về sau phải loại. Mất cán bộ là rất đau, vì để bồi dưỡng được một cán bộ đòi hiểu rất nhiều vấn đề, mất một cán bộ là thiệt hại cho tổ chức, cho cách mạng.
Theo dõi con người cán bộ phải có quá trình, có bản lĩnh của cơ quan tổ chức và phải dựa vào quần chúng. Như gieo hạt giống, phải theo dõi xem nó phát triển thế nào. Cán bộ khi ở trên Trung ương và đi xuống thực tiễn, vào miền núi hay đồng bằng lại thể hiện rất khác nhau. Khi vào hoạt động thực tế thì anh muốn giấu cái xấu cũng rất khó, người ta biết cả. Khi anh làm việc, cái xấu của anh người ta biết cả chứ. Do đó, đánh giá đúng thì người cán bộ biết mình tốt thế nào, mình có tật gì để sửa, nhờ thế mà có người trở thành giỏi.
Cán bộ là cái gốc, công tác cán bộ là vấn đề cơ bản, nên cái gốc phải phát huy mới phát triển.
Có sai có kỷ luật, dứt khoát phải làm
Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nhiều trường hợp cụ thể thời gian qua cũng cho thấy quyết tâm xử lý tập thể, cá nhân sai phạm là không có vùng cấm. Theo ông, có thể hài lòng với kết quả đó chưa?
Ông Lê Khả Phiêu: Vùng cấm trước đây cũng có, nhưng vừa qua “khui” được nhiều thứ, đó là bước mạnh mẽ của Trung ương, của Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư. Chính cái đó thể hiện sự kiên quyết, giờ đang phải làm và nghiên cứu tiếp tục làm.
nguyen tong bi thu le kha phieu: dan, dang ung ho tu va tong bi thu nguyen phu trong lam manh me!  hinh 2
"Vừa qua làm được như thế là đáng mừng, không phải hời hợt đâu, tiến bộ đấy, nhưng cũng không phải như thế là hết, mà vẫn còn"
Vừa qua là bước đi tốt, nhưng không phải như thế là xong mà làm sao để mọi Đảng viên tự giác để mình không vi phạm pháp luật, giữ con người mình trong sáng. Sức đề kháng của mỗi Đảng viên, dù ở cấp thấp hay cấp cao đều phải có dũng khí giữ gìn cho đúng. Còn có sai thì có kỷ luật, dứt khoát phải làm.
PV: Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cũng đã được quan tâm hơn, hạn chế việc trách nhiệm cá nhân “trốn” trong tập thể, thưa ông?
Ông Lê Khả Phiêu: Vấn đề vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tương đối có bước tiến. Bộ trưởng một Bộ phụ trách để xảy ra vấn đề thì trước hết trách nhiệm anh thế nào, rồi cấp phó phụ trách, rồi Đảng bộ…
Vừa qua làm được như thế là đáng mừng, không phải hời hợt đâu, tiến bộ đấy, nhưng cũng không phải như thế là hết, mà vẫn còn. Qua thực hiện có kinh nghiệm và tiếp tục làm hơn nữa, cứ như thế nhân dân và trong Đảng ủng hộ để các đồng chí Trung ương và Tổng Bí thư làm mạnh mẽ.
Ưu điểm, khuyết điểm đến đâu phải chỉ rõ đến đó để có mức xử lý cho phù hợp. Hình thức kỷ luật phải được lòng người, cũng phải thấy trong từng điều kiện, hoàn cảnh, từng trường hợp, nhưng dứt khoát phải có xử lý.
Công tác cán bộ vừa qua tiến bộ, từ đó góp phần xây dựng chỉnh đốn Đảng tốt lên, cái đúng cái sai phân minh hơn, làm cho tính tích cực cách mạng, vai trò vị trí người cộng sản mẫu mực hơn, có răn đe và chắc chắn hạn chế bớt tiêu cực.
PV: Nhiều người đã về hưu cũng bị xử lý vì có vi phạm trước đó, không ít trường hợp bị xoá bỏ chức vụ từng giữ. Vấn đề này cần được nhìn nhận thư thế nào để thấy được sự răn đe, thưa ông?
Ông Lê Khả Phiêu: Tất nhiên về hưu rồi thì không còn giữ chức vụ, nhưng phải coi đó là án kỷ luật của Đảng cho nghiêm minh. Dù về hưu rồi vẫn là Đảng viên, vi phạm thì cũng phải xử lý. Tinh thần như thế là đúng, nên làm, phải chỉ ra và qua đó răn đe các Đảng viên khác đừng có như thế.
Đang làm tốt rồi và phải làm tốt hơn nữa
PV: Nói đến lựa chọn và bố trí cán bộ thì vừa qua Bộ Chính trị đã ban hành những tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể cho chức danh thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, như cán bộ đó phải không tham vọng quyền lực, không tham nhũng... Ông có cho rằng những tiêu chí, tiêu chuẩn này sẽ giúp loại cán bộ không xứng đáng?
Ông Lê Khả Phiêu: Nó có tác dụng. Không phải trước đây không nói tới, nhưng giờ ta cụ thể hoá ra. Trước đây Bác Hồ đã nói nhiều lần câu không ham quyền lực, nhưng giờ anh “chạy chức, chạy quyền” là anh ham quyền lực chứ còn gì nữa. Hay trình độ văn hoá anh thấp mà khai cao lên để có vị trí này kia thì cũng là ham quyền lực.
nguyen tong bi thu le kha phieu: dan, dang ung ho tu va tong bi thu nguyen phu trong lam manh me!  hinh 3
"Thấy sai thì nói sai, có khuyết điểm thì báo cáo chứ đừng có bao che, như thế Đảng mới trong sạch được. Khuyết điểm mà được chỉ ra thì người có khuyết điểm có thể sửa chữa, trở thành người tốt"
Những người có vi phạm phải bị xử lý kiên quyết, mạnh mẽ. Vừa qua làm thế là có bước tiến quan trọng, cảnh tỉnh mọi Đảng viên, làm cho nhân dân hài lòng nhưng nói hết chưa thì nói thẳng là còn chưa hết vi phạm.
PV: Cán bộ vi phạm cũng được cho có nguyên nhân từ kiểm soát quyền lực chưa thật tốt. Vậy vấn đề này cần thực hiện thế nào, thưa ông?
Ông Lê Khả Phiêu: Trước hết phải là tinh thần tự giác của từng người, thứ hai là phải làm đúng điều lệ Đảng, tự phê bình và phê bình, sinh hoạt phải dân chủ, bình đẳng.
Tự phê bình và phê bình cũng phải rất tự giác, đấu tranh thẳng thắn, nói rõ với nhau, thấy sai thì nói sai, có khuyết điểm thì báo cáo chứ đừng có bao che, như thế Đảng mới trong sạch được. Khuyết điểm mà được chỉ ra thì người có khuyết điểm có thể sửa chữa, trở thành người tốt.
Cùng với đó tăng cường kiểm tra, thanh tra, nhưng cơ quan kiểm tra làm không đủ đâu. Anh có chức có quyền lo thu vén bản thân rồi đời sống, nguyện vọng của dân anh bỏ qua là rất nguy hiểm. Dân mất lòng tin, dân thờ ơ thì rất nguy hiểm!
Công tác cán bộ giờ ta đang làm tốt rồi nhưng phải làm tốt hơn nữa.
PV: Vâng, xin cảm ơn nguyên Tổng Bí thư!./.
Hội nghị Trung ương 6 khoá XII chuẩn bị khai mạc sẽ bàn về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cho biết, vấn đề này đã từng làm nhưng chưa đạt hiệu quả, bộ máy không những không tinh giản mà cứ phình ra. 
“Lần này phải làm cho tổ chức bộ máy tinh gọn, chất lượng cao, nếu không làm được việc đó sẽ dẫn đến trì trệ, khiến bộ máy trở thành quan liêu thì rất nguy hiểm. 
Không làm không được nữa rồi. Tất nhiên phải có cách làm đúng nhưng trước hết phải đặt vấn đề kiên quyết làm, không làm thì không phát triển được” – nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nói. 

Ngọc Thành/VOV.VN

Ông Lê Khả Phiêu: Đừng để tinh thần 'đốt lò' chống tiêu cực nguội đi

Cựu Tổng bí thư cho rằng, việc các cơ quan chức năng đưa ra ánh sáng hàng loạt vụ tiêu cực như vừa qua là "bước đi mạnh mẽ".

Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có cuộc trao đổi với báo chí về công tác chỉnh đốn Đảng, trước việc vừa qua Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật, đề nghị kỷ luật nhiều lãnh đạo cấp cao có vi phạm, khuyết điểm. 
ong-le-kha-phieu-dung-de-tinh-than-dot-lo-chong-tieu-cuc-nguoi-di
Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Ảnh: HT
- Nhiều cán bộ đương chức và về hưu đã bị xác định có sai phạm và nhận kỷ luật trong gần hai năm qua. Ông nhìn nhận như thế nào về việc này?
Vừa qua các cơ quan chức năng khui ra được nhiều tiêu cực của cán bộ các cấp, đó là bước đi mạnh mẽ của Trung ương, của Bộ chính trị và Tổng bí thư.
Khi phát hiện cán bộ có sai phạm thì dứt khoát phải kỷ luật, không có vùng cấm. Tất nhiên, kỷ luật ai đó không phải là dìm họ xuống, và cũng không thể xử lý nhẹ nhàng, né tránh, án kỷ luật phải đúng quy định và hợp lòng dân. Tuỳ điều kiện, hoàn cảnh từng trường hợp để xử lý, như vụ Đà Nẵng là phải xử lý, nhưng quan trọng là mức độ nào.
Theo thẩm quyền thì Bộ Chính trị và Trung ương sẽ xem xét thi hành kỷ luật đối với Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng (nhiệm kỳ 2015-2020) và Bí thư Thành ủy; hiện Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã có đề nghị do vậy tôi nghĩ, Hội nghị Trung ương 6 tới đây sẽ quyết định việc này.
Chúng ta thường nói xây và chống, ở đây không phải chỉ kỷ luật cán bộ sai phạm là xong, mà phải xây dựng được cơ chế để mỗi đảng viên tự giác không vi phạm pháp luật, luôn ý thức giữ bàn tay mình trong sạch.
- Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng phát biểu, trong chống tiêu cực, chống tham nhũng thì điều quan trọng là tạo ra được xu hướng, tất cả các cơ quan đều vào cuộc, "cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy". Ông nghĩ sao về nhận định này?
- Tùy tình hình cụ thể, chúng ta đã có những thời kỳ chống tham nhũng, chống tiêu cực rất nóng bỏng.
Riêng thời kỳ này, tôi thấy rằng ta dám làm, làm kiên quyết và tinh thần là cấp cao cũng không né tránh. Nhưng còn nữa thì sao, nếu như cấp cao khác hoặc cấp cao hơn có tiêu cực thì sao? Tôi cho rằng cũng phải mạnh mẽ đấu tranh, đừng để tinh thần chống tiêu cực nguội đi.
Phỏng vấn nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu 2
- Gần đây Trung ương ban hành tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ cấp cao, trong đó có tiêu chuẩn là "tuyệt đối không tham vọng quyền lực". Theo ông, tiêu chuẩn này được hiểu như thế nào?
- Những biểu hiện như "chạy chức, chạy quyền" chính là sự bộc lộ của tham vọng quyền lực, hay gần đây nóng lên chuyện bằng cấp của một số cán bộ cũng tương tự như vậy. Anh trình độ văn hóa thấp mà khai gian dối để "trang trí", để giúp cho mình leo cao là không thể chấp nhận được. 
Khi con người đã tham vọng quyền lực thì phải tìm cách chạy, chạy cách này không được thì anh chạy cách khác, thậm chí làm hại đồng chí, đồng nghiệp của mình, như vậy là rất nguy hiểm. Vừa qua các cơ quan chức năng xử lý được các trường hợp như vậy là bước tiến quan trọng, giúp cảnh tỉnh nhiều người.
Không chỉ cán bộ đương chức mà nhiều người đã về hưu cũng bị kỷ luật. Tuy nhiên, có trường hợp một vị nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai, khi bị đề nghị kỷ luật thì trả lời "tôi về hưu rồi, muốn xử lý ra sao thì xử". Ông nghĩ sao về việc này?
- Trước đây, với những cán bộ phát hiện có vi phạm mà đã về hưu thì tổ chức chỉ rút kinh nghiệm, hiện cơ quan chức năng xử lý cả những người đã về hưu. Trong số các mức độ kỷ luật có việc cách chức vụ người đó từng nắm trong quá khứ.
Tất nhiên, về hưu thì làm gì còn chức mà cách, nhưng đó là án kỷ luật của Đảng, nhằm đảm bảo sự nghiêm minh. Án kỷ luật này sẽ được ghi vào hồ sơ, báo cho chi bộ Đảng nơi người đó sinh hoạt. Đây cũng là cách răn đe những cán bộ khác phải giữ được phẩm chất của người đảng viên, không còn suy nghĩ về hưu rồi thì sẽ được tha.
Hoàng Thùy
( Vnexpress)

Trung Quốc trong “Vietnam War”



Bởi
 AdminTD
 -

2-10-2017


Ảnh minh họa. Nguồn: thevietnamwar.info

Cuộc chiến Việt Nam không chỉ là cuộc chiến “ủy nhiệm” của Mỹ. Những lập luận và cách giải thích quen thuộc cùn mòn về cái gọi là “lý thuyết domino” là không đầy đủ khi nói đến bản chất cuộc chiến. Tìm hiểu quá trình can dự Trung Quốc, với sự cầu cạnh chủ động của Bắc Việt, mới có thể có thêm cái nhìn rõ hơn về cuộc xung đột này.
Một bài báo Washington Post, đề ngày 17-5-1989, viết: “Hôm nay, Trung Quốc đã thừa nhận họ đưa 320.000 quân vào (Bắc) Việt Nam”, và “viện trợ hơn 20 tỷ USD để ủng hộ quân đội chính quy Bắc Việt và du kích Việt Cộng”. Bài báo cho biết thêm, trong thời gian chiến tranh, có những báo cáo tình báo Mỹ cho biết nhiều đơn vị tác chiến Mỹ đã phát hiện lính vận quân phục Trung Quốc và mang phù hiệu quân đội Trung Quốc nhưng Bắc Kinh lúc đó luôn phủ nhận.
Sự có mặt quân đội Trung Quốc tại Bắc Việt bắt đầu từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 4-1950, ba tháng sau khi Trung Quốc công nhận chính quyền VNDCCH, Việt Minh chính thức xin Trung Quốc viện trợ trang thiết bị quân sự, gửi cố vấn và giúp đào tạo binh lính. Bắc Kinh thành lập Nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc với chỉ huy của Vi Quốc Thanh cùng Trần Canh và 281 sĩ quan. Hỗ trợ quân sự Trung Quốc cho Việt Minh tăng từ 3 sư đoàn năm 1950 lên 7 sư đoàn năm 1952. Số người Trung Quốc tại Bắc Việt trong cùng thời gian lên đến 15.000 người… Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội tiếp tục cầu viện Trung Quốc. Trong chuyến đi Bắc Kinh từ 25-6 đến 8-7-1955 của Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đồng ý viện trợ 800 triệu tệ (200 triệu USD) để xây 18 dự án, trong đó có nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà Nội, nhà máy dệt Nam Định – theo sử gia Qiang Zhai thuộc Đại học Auburn-Mỹ trong “China and the Vietnam Wars, 1950-1975” (trang 71).
Chuyến kinh lý Bắc Kinh của Hồ Chí Minh đã diễn ra trước khi Nhóm cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) có mặt tại Sài Gòn (1-11-1955). Và khoảng ba tháng sau khi hai sĩ quan Dale R. Ruis và Chester M. Ovnand trở thành những người Mỹ đầu tiên bị giết chết trong cuộc chiến Việt Nam, khi Việt Cộng tấn công một căn cứ MAAG tại Biên Hòa (8-7-1959), thì, tháng 10, Phạm Văn Đồng sang Bắc Kinh, yêu cầu Chu Ân Lai viện trợ quân sự để miền Bắc có điều kiện “hỗ trợ nhân dân miền Nam”. Ngày 10-11 cùng năm, một phái đoàn quân sự Trung Quốc sang Bắc Việt, nán lại hai tháng để khảo sát, từ hải quân, không quân, học viện quân sự, sân bay, cầu cảng đến thậm chí các nhà máy sản xuất (Qiang Zhai, nđd, trang 82-83).
1959 cũng là thời điểm mà quan hệ giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm với các cố vấn MSUG (Michigan State University Vietnam Advisory Group; đặc trách kiến thiết quốc gia) trở nên rất gay gắt (“Misalliance”, Edward Miller, trang 150). Không như những thông tin gây “ngộ nhận” một cách có chủ ý về việc “miền Nam quỵ lụy và bán đứng quốc gia cho Mỹ”, hai chính quyền VNCH, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, đều luôn thẳng thừng bày tỏ bất bình trước việc Mỹ can thiệp sâu vào nội chính và đặc biệt tự ý đưa quân vào Nam Việt Nam.
Ngày 12-5-1963, Washington Post đăng bài phỏng vấn Ngô Đình Nhu trong đó ông nói rằng “ít nhất 50%” cố vấn quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam là “hoàn toàn không cần thiết” và cần phải được đưa đi khỏi (Edward Miller, nđd, trang 258; xem thêm thông tin liên quan trang 230-231). Chính quyền Sài Gòn hiểu rõ tâm lý người dân về sự hiện diện quân đội nước ngoài có thể bị đánh giá như một đạo quân xâm lược; và đất nước lại bị đô hộ bởi ngoại bang (các cuộc biểu tình của sinh viên Sài Gòn đã được kích động bằng lập luận này).
Trong “Tâm tư Tổng thống Thiệu”, tác giả Nguyễn Tiến Hưng cũng thuật lại sự bất mãn của ông Thiệu khi ông nhận được tin Mỹ đưa thủy quân lục chiến vào (đổ bộ Đà Nẵng ngày 8-3-1965) mà không hề được báo trước. Mỹ chưa bao giờ tham vấn ý kiến các tổng thống VNCH về việc đưa quân bộ Mỹ vào Nam Việt Nam. Sự thật này cần được nhấn mạnh. Sài Gòn chỉ yêu cầu Mỹ cung cấp vũ khí và các khoản viện trợ liên quan quân sự chứ không muốn “Mỹ hóa” cuộc chiến theo cách William Westmoreland.
Hà Nội khác với Sài Gòn. Quan hệ Sài Gòn-Washington, về bản chất, khác nhiều so với quan hệ Hà Nội-Bắc Kinh. Cách mà “khi đồng minh Trung Quốc nhảy vào Bắc Việt” cũng khác với cách mà Mỹ “nhảy vào” miền Nam. Bắc Kinh luôn chờ Hà Nội phải gõ cửa. Hè 1962, Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh đến Bắc Kinh. Hồ yêu cầu Bắc Kinh ủng hộ phong trào du kích tại Nam Việt Nam. Mao đồng ý bằng việc cung cấp miễn phí 90.000 khẩu súng, đủ để trang bị cho 230 tiểu đoàn (Qiang Zhai, nđd, trang 116). Tiếp đó, ngày 5-10-1962, Võ Nguyên Giáp lại dẫn một phái đoàn quân sự sang Trung Quốc.
Tháng 5-1963, giữa lúc miền Nam ngập chìm trong cuộc khủng hoảng Phật Giáo dẫn đến sự kiện Thích Quảng Đức tự thiêu (11-6-1963), Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang Hà Nội, nói với Hồ: “Chúng tôi đang đứng bên cạnh các đồng chí. Nếu chiến tranh bùng nổ, các đồng chí có thể xem Trung Quốc là hậu phương” (Qiang Zhai, nđd, trang 117). Ngay sau khi anh em ông Diệm bị giết, tháng 12-1963, tướng Trung Quốc Lý Thiên Hữu (Li Tianyou) đã cấp tốc dẫn một phái đoàn quân sự sang Bắc Việt, nán lại suốt gần hai tháng, bàn bạc một kịch bản chiến tranh toàn diện.
Đại hội Đảng Lao Động tháng 12 đã thống nhất tăng cường tấn công miền Nam. Ngày 27-12-1963, Mao viết cho Hồ, chúc mừng “Đại hội thành công tốt đẹp”. Lúc này, Bắc Kinh bắt đầu phơi bày tham vọng chính trị trong việc “đánh Mỹ” theo cách của Mao. Trong một cuộc nói chuyện với đại diện Bắc Việt năm 1964, Mao nói: “Tốt nhất là mở rộng thành một cuộc chiến lớn hơn. Đừng lo ngại sự can thiệp Mỹ. Tệ lắm thì cũng như một cuộc chiến Triều Tiên nữa mà thôi. Quân đội Trung Quốc đã sẵn sàng. Nếu Mỹ mạo hiểm tấn công Bắc Việt, quân đội Trung Quốc sẽ có mặt lập tức. Quân đội chúng tôi giờ đang muốn một cuộc chiến đây” (“Mao: The Unknown Story”, Jung Chang và Jon Halliday, trang 482).
Vin vào đó, đầu tháng 4-1965, Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp sang Bắc Kinh. Không chỉ yêu cầu tăng cường viện trợ quân sự, lần này, Hà Nội đã mở lời về việc Trung Quốc đưa quân bộ vào. Duẩn nói với Bắc Kinh: miền Bắc cần “phi công tình nguyện, quân lính tình nguyện…”. Ngày 8-4-1965, Lưu Thiếu Kỳ trả lời: “Nguyên tắc chúng tôi là chúng tôi sẽ làm hết sức để cung cấp bất cứ gì mà các đồng chí cần và bất cứ gì mà chúng tôi có. Nếu các đồng chí không mời, chúng tôi sẽ không đến. Chúng tôi sẽ gửi bất kỳ binh chủng nào mà các đồng chí cần…”. Kết quả, Bắc Kinh và Hà Nội ký một số thỏa ước liên quan việc đưa quân bộ Trung Quốc vào miền Bắc. Ngày 21 và 22-4, Giáp thảo luận với La Thụy Khanh chi tiết hơn về điều này. Vài ngày sau, tháng 5, Hồ bí mật thăm Mao tại Trường Sa, Hồ Nam (Qiang Zhai, nđd, trang 133-134).
Năm 1965, sau khi Lê Duẩn chính thức yêu cầu Trung Quốc đưa quân bộ vào, viện trợ Trung Quốc tăng rất nhanh. So với năm 1964, số súng tăng 2,8 lần (từ 80.500 lên 220.767 khẩu); số đạn tăng gần 5 lần (từ 25,2 triệu lên 114 triệu viên); số đạn đại bác tăng gần 6 lần (từ 335.000 lên 1,8 triệu viên)… Từ tháng 6-1965, Trung Quốc bắt đầu ào ạt đổ quân vào miền Bắc, cùng với nhiều loại quân cụ, từ hỏa tiễn phòng không, đạn dược đến các đơn vị công binh, phá mìn, kỹ thuật quân sự… Tổng số quân lính Trung Quốc tại Bắc Việt từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1968 lên đến 320.000 người (Qiang Zhai, nđd, trang 136-137).
Luôn chần chừ trong kế hoạch hiện đại hóa quân lực VNCH, mãi đến tháng 6-1968, sau sự kiện Mậu Thân, Mỹ mới cung cấp súng M-16 cho binh lính miền Nam (Nguyễn Tiến Hưng, nđd, trang 278). Trong khi đó, chỉ trong năm 1968, Trung Quốc đã viện trợ cho Bắc Việt: 219.899 khẩu súng; 1.854 bộ đàm; 454 xe cơ giới; một triệu bộ quân phục. Trong 10 năm, từ 1964-1974, Trung Quốc viện trợ tổng cộng 560 chiếc xe tăng; 144 máy bay; 1.781.197 khẩu súng, hàng triệu viên đạn các loại…
Mỹ can thiệp vào Nam Việt Nam để ngăn chặn “làn sóng Đỏ” – hàng trăm quyển sách và nhiều đời sử gia đã nhai đi nhai lại điều này. Đến nay, người ta vẫn nói về cuộc chiến như một “cuộc chiến của Mỹ”. Đã thành “quán tính” khi các phân tích rơi vào lối mòn trong việc mổ xẻ quyền lợi Mỹ, trong khi quyền lợi Trung Quốc thì gần như phớt lờ. Cuộc chiến Việt Nam không chỉ là cuộc chiến của “5 đời tổng thống Mỹ”. Nó còn là cuộc chiến của Mao Trạch Đông. Nó là cuộc chiến, bằng máu người Việt, của những kẻ hoạt đầu chính trị quốc tế.
Với Trung Quốc, việc giúp Bắc Việt đáp ứng 5 mục tiêu lớn: 1/ Cản trở nguy cơ Mỹ đe dọa an ninh quốc gia họ; 2/ Thể hiện khả năng và vị trí số một như một đàn anh đáng tin cậy cho phong trào quốc tế cộng sản; 3/ Chứng tỏ Trung Quốc đủ sức tranh giành vị thế lãnh đạo quốc tế cộng sản trước Liên Xô; 4/ Tạo uy tín chính trị cho cá nhân Mao trong nước; 5/ Cuối cùng, sự can thiệp tại Đông Dương cho thấy một tham vọng xa hơn của Mao: tạo ra một trật tự thế giới mới thay thế trật tự thế giới cũ thời hậu thực dân, mang lại cho Trung Quốc cảm giác rửa được những mối nhục thời Thế chiến thứ hai.
Di sản cuộc chiến của Mao tại Việt Nam, cùng mối quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội, không chỉ có xác 1.100 lính Trung Quốc và 4.200 người bị thương, sau khi những người lính Trung Quốc cuối cùng rút khỏi Bắc Việt vào tháng 8-1973. Nó còn dây dưa như một thứ quan hệ đồng minh kỳ lạ, như thể Bắc Kinh chỉ có “nhảy vào” nhưng không hề có ý “tháo chạy”. Dù có lúc bất đồng nhưng di sản quan hệ Mao-Hồ đến nay vẫn tạo ra một thứ “quan hệ” mà Lưu Vân Sơn, ủy viên Thường vụ Bộ chính trị Trung Quốc, trong chuyến kinh lý Hà Nội giữa tháng 9-2017, đã miêu tả bằng cụm từ: “Hai nước có cùng số phận”. Làm thế nào có thể tự hào để nói về “nền độc lập” sau chiến tranh, khi mà Hà Nội vẫn còn bị ràng buộc dai dẳng bởi một thứ quan hệ “sống cùng sống, chết cùng chết” với Trung Quốc? Hàng triệu triệu người Việt đã chết trong cuộc chiến để đổi lấy một “nền độc lập” như vậy, liệu có đáng không?