Bài liên quan:
Tìm dấu vết văn hóa Việt trong Tứ Thư-Ngũ
Kinh
Đầu năm 2005, Hà Nội họp sơ bộ
về triết học để chuẩn bị tổ chức hội nghị triết học Đông phương với chủ đề
chính là triết thuyết của Không Tử. Giáo sư Trần Văn Đoàn sẽ là một trong những
cột trụ của hội nghị triết học Đông phương nói trên tại Hà Nội.
Giáo
sư Trần Văn Đoàn là một linh mục cởi áo dòng, lấy vợ Tàu, hiện là chính giáo
của môn lịch sử triết học Tây phương tại Đại học quốc gia Đài Loan và kiêm
nhiệm LOKUNG Chair of Phylosophy tại Đại học Phụ
Nhân Trung quốc. Ông từng là thỉnh giảng tại nhiều đại học Âu, Mỹ và châu Á như
Louvain, Vienna, Oxford, Kyoto, London, Phụ Nhân và Bấc Kinh. Giáo sư
là một trong những trí thức Việt Nam chủ trương tìm nguồn gốc văn hóa Việt tận
bên Tàu, trong sách của Khổng Tử và Mạnh Tử, tức đạo Việt nằm trong TỬ VIỆT,
trong Ngũ Kinh và Tứ Thư của Tàu. Giáo sư sẽ trình bày quá trình biến hóa từ
Việt nho sang Việt triết trong Luận tập 2 trong bộ Việt Triết Luận của ông ta.
Khuynh
hướng này xác định rằng muốn tìm hiểu văn hóa Việt, nếu bỏ Nho thì ta chỉ thấy
ngọn chứ chưa đến gốc văn hóa Việt, vì Nho giáo chứa đựng những hằng số của văn
minh nước ta.
Nếu
Khổng Tử nói: Ngộ thuật nhi bất trước
(ta chỉ ghi lại mà không sáng tác) là
thật (?!) Nghĩa là ông ta đem tư tưởng của thánh hiền hoặc văn hóa của tộc Bách
Việt ở phía Nam sông Hoàng Hà cho đời sau, chứ ông ta chẳng hề sáng tác.
Nếu
đúng như vậy thì đặc tính của nền văn hóa mà ông ta thuật lại trong sách chỉ là
nếp sống, cách suy nghĩ, phong tục tập quán, lối ứng xử, v.v... của các tộc
Bách Việt sinh sống ở phía Nam sông Hoàng Hà và cùng lắm gồm cả các tộc Bách
Việt ở phía Nam sông Dương Tử đến tận Quảng Đông và Quảng Tây chứ không phải là
văn hóa của cư dân Hòa Bình (tiền thân của dân tộc Việt Nam) và cư dân sống ở
châu thổ sông Hồng.
Xuyên
qua lịch sử, chúng ta nhận thấy Khổng Tử và Mạnh Tử chưa bao giờ đến bờ Nam
sông Dương Tử. Như vậy hai ông thánh của Trung Hoa gốc du mục chỉ ghi lại nếp
sống, cách nghĩ, cung cách ứng xử của các tộc Bách Việt sống trên đất Tàu. Đó
là những điều hai ông nghe kể lại chứ
không phải mắt thấy tai nghe tại chỗ. Xét
cho cùng văn hóa chỉ là cái tự nhiên, được thích ứng và biến đổi bởi con người
để thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người (Trần Quốc Vượng - Văn Hóa Việt Nam,
tr.71).
Nói
cách khác, nếp sống, cách nghĩ, lối ứng xử, v.v... thay đổi theo môi trường
sống và cách làm ăn (chăn nuôi theo bầy, sống du mục hay định cư trồng lúa
nước). Ngay trên cùng một đất nước đặc tính của văn minh sông Hồng và đặc tính
của văn minh sông Cửu Long cũng có những điểm khác nhau: Cách pha nước mắm của
miền Bắc khác với cách pha nước mắm của người miền Nam. Các món ăn của người
miền Bắc (bún thang, bún mọc, chả cá, v.v...) và người miền Nam Việt Nam
(mắm ruột, mắm đầu cá lóc, hến xúc bánh tráng, canh chua cá lóc, v.v...) còn có những điểm khác nhau thì sao lại có thể đi tìm nguồn
gổc văn hóa của dân tộc Việt Nam tận bên Tàu trong Tứ thư Ngũ kinh. Môi trường
sống, cách sống, cách làm ăn cũng ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách ứng xử...
Tu - Tề - Trị - Bình
Nói
cách khác, hai ông thánh nói trên - Khổng Tử và Mạnh Tử - không biết gì về cách
sống, cách ăn - mặc - ở, cách suy nghĩ, lối ứng xử, v.v... của những nông dân
trồng lúa nước ở Hoà Bình (Việt Nam). Người dân Hòa Bình đã thực hiện cuộc cách
mạng nông nghiệp trồng lúa nước, từ sáu đến bảy ngàn năm trước đây. Như vậy,
văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa trồng lúa nước ổn định lâu đời ở đồng bằng
sông Hồng và sông Mã. Tóm lại có thể nói đi tìm nguồn gốc văn hóa của dân tộc
Việt Nam trong Tứ Thư Ngũ Kinh, ở văn minh Hoàng Hà hay ngay cả văn minh Dương
Tử Giang thì chỉ thấy TU - TỀ - TRỊ - BÌNH - thích hợp cho giới thống trị du
mục phương Bắc, không thích hợp cho người nông dân Việt - chứ không thể bắt gặp
được tinh hoa của văn minh sông Hồng (học
ăn, học nói, học gói, học mở) bắt nguồn từ văn hóa nông
nghiệp trồng lúa nước.