Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

Bài 4: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhầm lần giữa “lợi thế” với “thế mạnh” trong cơ cấu kinh tế…; Ông Vũ Khoan: “Chủ trương nhiều rồi, giờ hãy làm, làm và làm...”; Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương: Mới 'bắn chỉ thiên' các dự án làm tiêu tan nghìn tỷ

Phạm Viết Đào.

Bài liên quan:

Phát biểu tại diễn đàn Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu ra 3 ví dụ về thế mạnh trong cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam; Theo thủ tướng: muốn thúc đẩy tạo đột phá thì phải dựa vào các thế mạnh để tái cơ cấu; 3 thế mạnh đó là:
“Thủ tướng lưu ý việc tập trung vào một số thế mạnh của Việt Nam để tái cơ cấu. “Vậy thế mạnh là cái gì?”, Thủ tướng nêu câu hỏi và cho biết sẽ đề xuất với Quốc hội có chính thế mạnh về nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp chất lượng cao. Thế mạnh này gần như địa phương nào trên toàn quốc cũng có. Ví dụ của Cà Mau là nơi nuôi tôm lớn nhất Việt Nam, với quy mô lên đến 1 tỷ USD. Vậy phải tập trung giải quyết các vấn đề về chất lượng giống, môi trường, thâm canh…
“Thế mạnh tiếp theo chính là du lịch. Tuy nhiên, lượng khách quốc tế hằng năm đến Việt Nam còn khiêm tốn. “Ta hiện có 6-7 triệu khách, trong khi Hong Kong 7,3 triệu dân có 60 triệu khách, Thái Lan 60 triệu khách, Singapore 30 triệu khách”, Thủ tướng nêu số liệu và cho rằng cùng với thu hút khách du lịch quốc tế thì phải chú ý thúc đẩy thị trường nội địa. “Đã có bao nhiêu người dân trong nước đi đến mũi Cà Mau? Bao nhiêu phong cảnh đẹp trải dài trên đất nước ta mà bà con chưa biết hết. Đây chính là thị trường tiềm năng cho du lịch”, Thủ tướng nói.
Thế mạnh thứ ba được Thủ tướng nêu lên là nắm bắt được cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - nền kinh tế số. “Người Việt thông minh, sáng tạo. Cần đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, nếu không đề cập đến vấn đề này thì chúng ta sẽ lạc hậu”, ông nói…”
3 ngành kinh tế mà Thủ tướng cho là thế mạnh, theo người viết bài này thì đó là 3 ngành có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam…Thế mạnh của nền kinh tế là cái thế do chủ quan con người chủ động kiến tạo ra; còn “lợi thế” là do những yếu tố khách quan…
Theo thông tin báo chí gần đây, trong 9 tháng đầu năm, có 2 ngành có lượng xuất khẩu lớn đó là điện thoại và dệt may. Nếu nhìn kỹ, ngành lắp ráp điện tử, điện thoại, dệt may, da giầy mở ra thị trường lớn chủ yếu dựa vào giá nhân công rẻ…
Hàn Quốc và một số doanh nghiệp nước ngoài chọn Việt Nam mà không đầu tư vào các địa bàn khác là do Việt Nam có lợi thế: nhân công rẻ người lao động Việt khéo tay; chưa kể có yếu tố chính trị do quan hệ Nam-Bắc Triều Tiên và Trung Quốc nên doanh nghiệp Hàn Quốc chọn Việt Nam…Một ngành kinh tế thực sự được coi là mạnh không thể dựa vào lợi thế kiểu đó…
Ngành nông nghiệp, trồng cây công nghiệp, ăn quả và nuôi trồng thủy sản hàng năm xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ chủ yếu vẫn dựa vào lợi thế: do thời tiết, môi trường khí hậu, thổ nhưỡng…chứ bản thân các doanh nghiệp Việt Nam chưa hoàn toàn làm chủ được “ sân chơi” này vì còn lệ thuộc nước ngoài thị trường, giống, nguồn phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật…
Hàng năm, các ngành này vẫn báo cáo số lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu cao nhưng thực chất lợi nhuận lại không cao vì phụ thuộc nhiều yếu tố nước ngoài…
Nếu các dữ liệu nêu trên có sự trái gió trở trời, một quốc gia nào đó tăng thuế nhập khẩu, hạn chế số lượng nhập khẩu thì lập tức các ngành đó của Việt Nam lao đao…
Hay như ngành du lịch, Việt Nam hàng năm thu hút được 6-7 triệu khách, là ngành tạo được nhiều công ăn việc làm; Du lịch Việt Nam chưa thể coi là thế mạnh của nền kinh tế; Lào chỉ có 6-7 triệu dân mà hang năm thu hút được trên 3 triệu khách du lịch mặc dù sản phẩm du lịch của Lào không phong phú hơn Việt Nam…Việt Nam còn kém hơn Lào chưa nói gì đến Thái Lan Malaixia thì sao lại coi là mạnh được…
Muốn cơ cấu lại nền kinh tế để tạo những mũi đột phá, những bùng nổ, kiến tạo ra được các đầu tàu kinh tế thì phải nhận định, đánh giá sát đúng thế mạnh, lợi thế và mặt non yếu của nền kinh tế, cua cơ cấu tổ chức, bộ máy, guồng máy thì mới thành công…
Theo người viết bài này: phát huy lợi thế để thúc đẩy kinh tế thì Chính phủ đã và đang làm và chủ yếu là bằng các chính sách đầu tư, vốn cho vay ưu đãi và hỗ trợ tìm thị trường xuất khẩu cho hàng truyền thống của Việt Nam…Việc này vẫn là công việc cơm bữa của giới doanh nhân; không anh ( Chính phủ) thì chợ vẫn bằng mọi phiên… Hiện nay Chính phủ chỉ hỗ trợ chủ yếu là gạt bỏ ách tắc, cản trở do chính người của bộ máy hành chính của chính phủ ăn không ngồi rồi gây ra…
Đã có lúc Chính phủ dồn vốn liếng cho một số ngành coi là mũi nhọn nhưng đã thất bại; mô hình tạp các quả đấm thép, những tập đoàn kinh tế mạnh kiểu các chaebon Hàn Quốc của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về cơ bản đã thất bại và để lại nhiều hệ lụy đến nay chưa gỡ ra hết do những món nợ không lồ…
Rút kinh nghiệm về sự thua bại của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ mới không nên sa đà vào các dự án đầu tư viển vông, đẹp mã, hoành tráng, kiểu đại…đại…đại; Chính phủ nên quan triệt phương châm; mèo nhỏ mắt chuột nhỏ; Năng nhặt chặt bị; Buôn tàu không giàu bằng hà tiện, tiết kiệm chi tiêu hợp lý…Phương châm này Chính phủ Phan Văn Khải đã làm được; Thời ông Phan Văn Khải Chính phủ đã có của ăn của để, đã có tích lũy mặc dù chưa phát tan hoang như bây giờ: bóc ngắn cắn dài…
Hiện nay theo người viết bài này, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam chưa có ngành kinh tế nào, tập đoàn kinh tế nào mà Chính phủ có thể tin cậy, dốc hầu bao vào cho nó để biến nó thành đầu tàu xốc dậy nền kinh tế. Ai nói có và cố chứng minh là có thì chỉ là những kẻ nói phét, những tên đại bịp…
Khi Chính phủ chưa tìm, đóng mới được “đầu tàu” như ý thì tốt nhất là hãy chỉnh đốn, kiến tạo lại toa tàu và đuôi tàu những thứ đang dùng, đang mang lại hiệu quả mà nâng cấp nó lên; xem những chỗ nào yếu kém nhất thì dỡ ra, kiến tạo lại…Những công việc này chắc khoogn tốn nhiều tiền...
Người viết bài này không tán thành ý kiến, quan điểm sau đây của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về việc tái cơ cấu lại ngành ngân hàng:“Nếu không đủ quyết tâm sẽ vẫn cách làm cũ, không ăn thua. Ngoài ra, cần bộ máy triển khai công việc này. Có đề xuất là phải thành lập đội đặc nhiệm tái cơ cấu, dám cắt bỏ những gì bất hợp lý” “Thủ tướng nêu rõ cần phải có nguồn lực để thực hiện các công việc này. Đơn cử nợ xấu đang rất lớn, muốn giải quyết thì “phải bỏ tiền bạc ra, theo quy luật biện chứng thì vật chất giải quyết vật chất, không chỉ nói miệng là được”. ..
Trong làm ăn kinh tế không thể nóng vội, lấy nhiệt tình, quyết tâm chính trị thay cho kiến thức, kỹ năng; Không nên thành lập các đội đặc nhiệm giống như ngành công an thành lập các đội SBC ( săn bắt cướp) có những sĩ quan hình sự tài ba, đột nhập vào các hang ổ tệ nạn để trong đánh ra, ngoài áp vào theo lối tay không bắt giặc…
Về vấn đề nợ xấu thì người viết bài này tán thành quan điểm của Phó thủ tướng Vương Đình Huệ, phải dẹp bớt những ngân hàng làm ăn không hiệu quả; không ôm với nhau để chết cả lũ như khi bị ngập lũ; không thể anh còng làm cho anh ngay phè phỡn trên lưng…
Tất nhiên khi cho phá sản một số ngân hàng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy nhưng phải tìm cách thích ứng và hóa giải những hệ lụy đó như là sản phẩm tất yếu của cơ chế thị trường…

( Còn nữa… )


Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương: Mới 'bắn chỉ thiên' các dự án làm tiêu tan nghìn tỷ

Tình trạng nợ công tăng cao trong khi nhiều dự án đầu tư lãng phí, thất thoát lớn tiếp tục là mối quan ngại của các đại biểu Quốc hội.

dai-bieu-nguyen-ngoc-phuong-moi-ban-chi-thien-cac-du-an-lam-tieu-tan-nghin-ty
Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình. Ảnh: Giang Huy
Thảo luận ở hội trường về kế hoạch tài chính 5 năm, nợ công và đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, đại biểu Nguyễn Ngọc Phương cho rằng báo cáo của Chính phủ, thẩm tra của Uỷ ban Tài chính Ngân sách đã chỉ ra những nét khái quát cơ bản về tình hình, như: nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ cao; bố trí vốn đầu tư công còn dàn trải, chưa khắc phục được tình trạng dự án chuẩn bị sơ sài, hình thức để được ghi vốn rồi điều chỉnh nhiều lần…
Tuy nhiên, theo ông Phương, các báo cáo chưa nêu được hiệu quả đầu tư thực tế của các dự án, bao nhiêu dự án thua lỗ, bao nhiêu dự án cần xem xét đề nghị điều tra, truy tố; nguyên nhân và giải pháp. "Có như thế mới xác định được trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để xử lý, làm bài học cho tổ chức, quản lý, hy vọng ngăn chặn được tình trạng thất thoát vốn đầu tư lâu nay", ông Phương nhấn mạnh.
Điểm lại một số dự án "khủng" như Xơ sợi Đình Vũ, Gang thép Thái Nguyên (giai đoạn 2), nhà máy bột giấy Phương Nam, nhà máy Đạm Ninh Bình, nhà máy nhiên liệu sinh học Dung Quất..., đã làm "tiêu tan" trên 30.000 tỷ đồng vốn đầu tư, ông Phương bày tỏ quan điểm: “Cách báo cáo, thẩm tra hiện mới "bắn chỉ thiên", nêu ra cái chung chứ không truy được trách nhiệm, không tạo ra đột phá làm chuyển biến nhận thức về vốn đầu tư, nhất là chống tham nhũng, lãng phí”.
Đồng tình với Chính phủ về việc thắt chặt chi tiêu, xử lý bội chi, nhưng vị đại biểu tỉnh Quảng Bình đề nghị Bộ trưởng Tài chính giải trình, làm rõ nguyên nhân, áp lực nợ công và khả năng trả nợ của Chính phủ. “Người xưa có câu “thứ nhất nhà dột, thứ hai nợ đòi’, tâm lý người dân Việt Nam rất lo nợ và trả nợ càng nhiều thì càng lo, vì vậy Bộ trưởng Tài chính phải nói rõ để người dân được biết”, ông Phương phát biểu.
dai-bieu-nguyen-ngoc-phuong-moi-ban-chi-thien-cac-du-an-lam-tieu-tan-nghin-ty-1
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Kiên Giang. 
Đại biểu Phùng Đức Tiến bày tỏ lo lắng khi nợ công đã lên đến 64,98%, gần "chạm trần" 65%; nợ Chính phủ 53,1% GDP, trong khi ngưỡng chi phép là 50%. Trường hợp tăng trưởng năm 2016 không đạt mục tiêu đề ra (6,7%) thì các tỷ lệ này sẽ còn cao hơn. 
"Chi trả nợ giai đoạn 2011-2015 tăng gấp 1,6 lần so với giai đoạn 2006-2010, dự báo chi trả nợ sẽ tăng cao hơn giai đoạn tới", ông Tiến nói và cảnh báo nếu tiếp tục đầu tư như cách làm như thời gian, không ngăn chặn dàn trải, thất thoát, lãng phí, tham nhũng thì hệ quả sẽ ngày càng lớn.
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang) bày tỏ đồng tình việc Chính phủ xác định ưu tiên đầu tiên các công trình dự án trọng điểm, cấp bách; hạn chế cơ chế xin cho.
Theo bà Kim Bé, đồng bằng sông Cửu Long đang chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, vụ mùa bị hạn mặn vừa qua có nơi 80% thanh niên bỏ quê đi vì đất không còn sản xuất được. Do vậy, Chính phủ cần tập trung đầu tư đồng bộ hạ tầng thuỷ lợi để "cứu đồng bằng sông Cửu Long", để vùng đất này hoàn thành sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. 
Đại biểu Phạm Phú Quốc (TP HCM) dẫn lại loạt chỉ tiêu kế hoạch tài chính – ngân sách 5 năm tới: tổng thu ngân sách hơn 6,6 triệu tỷ đồng, chi 8,02 triệu tỷ đồng. GDP dự kiến bình quân 6,5-7%; nợ công 65% GDP, bội chi 3,9% GDP thể hiện sự quyết liệt trong điều hành.
Dự kiến chi đầu tư cho phát triển khoảng 25-26%, chi thường xuyên, trả nợ và tài trợ 72% có sự chuyển dịch cơ cấu chi tích cực trong 5 năm tới.
Theo ông Quốc, bối cảnh ngân sách hạn hẹp, nguồn thu thuần của Việt Nam dựa phần nhiều vào tài nguyên nước, dầu thô… và nhu cầu chi cao thì Chính phủ không còn cách nào khác là phải nuôi dưỡng, tìm nguồn thu mới và giảm chi.
“Chính phủ phải tìm cách để khơi thông nguồn lực xã hội; để doanh nghiệp, người dân mạnh dạn tham gia đầu tư vốn, thay vì gửi tiết kiệm, giữ tiền trong két sắt”, đại biểu Phạm Phú Quốc nhấn mạnh.
Vị đại biểu TP HCM cũng cho rằng, bên cạnh chương trình khởi nghiệp đang được Chính phủ đẩy mạnh, cũng cần khuyến khích thành lập những tập đoàn mang thương hiệu quốc gia với doanh thu, lợi nhuận lớn hơn GDP quốc gia. Theo ông Quốc, chính số doanh nghiệp lớn này sẽ dẫn dắt cộng đồng doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo ra nguồn thu cho ngân sách.
Cải thiện nguồn thu cũng cần tính tới các sắc thuế mới, như đánh thuế nhà. Ông Quốc dẫn dụ, khi ngân sách bỏ tiền đầu tư vào hạ tầng, giá nhà tại các khu vực này tăng lên thì chủ đầu tư cũng phải có trách nhiệm chia sẻ lợi nhuận, nộp một phần số lời thu được vào ngân sách để lấy tiền tái đầu tư cho các dự án hạ tầng khác….
“Ngân sách phải là nguồn vốn mồi, tạo động lực, đòn bẩy để phát triển”, ông Quốc nói.
Ngoài ra, ông lưu ý, thu hút vốn ODA cần tỉnh táo tránh rơi vào bẫy nợ nần, hay thu hút FDI cũng cần chọn lọc, tránh trả giá môi trường sau này. Chính quyền địa phương cũng cần siết chặt kỷ cương, tài chính ngân sách, xoá xin - cho….
Hoài Thu - Võ Thành


Các "siêu dự án" lãng phí, thất thoát: Không thể cứ "bắn chỉ thiên" mãi

Dân trí Đặt vấn đề trong bối cảnh nguồn lực ngân sách hạn hẹp, khó khăn nhưng vẫn còn tình trạng nhiều dự án nghìn tỷ, hoạt động không hiệu quả rồi "đắp chiếu", bỏ hoang, đại biểu Quốc hội cho rằng, phải nêu được đích danh dự án, quy được trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân chứ không thể chỉ nêu chung chung theo kiểu "bắn chỉ thiên".
 >> Nợ công tăng nhanh gấp 3 lần GDP lên 2,6 triệu tỷ đồng
 >> Tiền Nhà nước còn phải lo cho dân, không thể đổ thêm vào các “siêu dự án” thua lỗ
 >> Siêu dự án thép 10 tỷ USD: Không nên sử dụng công nghệ Trung Quốc


Sáng nay (1/11), Quốc hội thảo luận ở hội trường về kế hoạch tài chính 5 năm, mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (ảnh: Quochoi.vn)
Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (ảnh: Quochoi.vn)
"Thứ nhất nhà dột, thứ hai nợ đòi"
Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách (TC-NS) về đầu tư công trong giai đoạn vừa qua: "Hiệu quả đầu tư chưa cao, chưa tương xứng với nguồn lực đầu tư. Vẫn còn tình trạng bố trí vốn cho dự án chưa đủ điều kiện; phê duyệt dự án khi chưa cân đối đủ vốn, đủ nguồn lực; bố trí vốn dàn trải, thiếu tập trung, chậm trễ, dẫn đến nhiều mục tiêu trọng tâm chưa hoàn thành, nhiều công trình dở dang, phải đình, giãn, hoãn tiến độ, lãng phí nguồn lực".
Trong khi đó, "bội chi tăng cao trong nhiều năm, không đạt mục tiêu Quốc hội đề ra; nợ công tăng nhanh, mặc dù vẫn trong giới hạn cho phép nhưng bắt đầu có dấu hiệu rất khó khăn về trả nợ trong ngắn hạn và có biểu hiện không an toàn trong dài hạn".
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Phương (tỉnh Quảng Bình) cho rằng, đây là những đánh giá thẳng thắn, "nhìn thẳng vào sự thật" của Ủy ban TC-NS, dù vậy vẫn chưa đầy đủ. Theo đại biểu này, báo cáo của Ủy ban cần phải chỉ ra được những địa chỉ rõ ràng gắn liền với trách nhiệm tập thể, cá nhân.
Theo đó, phải chỉ ra được trên thực tế có bao nhiêu dự án hoạt động không hiệu quả, bao nhiêu dự án sử dụng vốn Nhà nước bị thua lỗ, bao nhiêu dự án gây thất thoát, lãng phí, bao nhiêu dự án cần đề nghị điều tra, truy tố... Có như vậy thì mới quy được trách nhiệm và khắc phục được vấn đề không lặp lại trong tương lai.
Ông Phương điểm danh 5 dự án lớn có tổng vốn đầu tư 30.000 tỷ đồng hoạt động thua lỗ, đứng trước nguy cơ phá sản và cần phải chỉ rõ được trách nhiệm. Trong đó, dự án Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2 đội vốn gấp đôi từ gần 4.000 tỷ đồng lên 8.100 tỷ đồng, Nhà máy bột giấy Phương Nam đầu tư với số vốn 3.000 tỷ đồng sau 10 năm phải bỏ hoang vì không thể sản xuất được do công nghệ không phù hợp...
Báo cáo một cách chung chung định hướng theo ông Phương vẫn chỉ là "bắn chỉ thiên", không quy được trách nhiệm cá nhân.
Ngoài ra, đại biểu tỉnh Quảng Bình cũng đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính làm rõ nguyên nhân vì sao nợ công tăng cao và cho biết phương án khắc phục, làm an lòng đại biểu và nhân dân. Bởi theo ông Phương, tâm lý của người dân vẫn luôn canh cánh nỗi lo nợ công trong bối cảnh chỉ tiêu này càng ngày càng gia tăng mạnh. "Thứ nhất nhà dột, thứ hai nợ đòi", ông Phương bày tỏ.
Vị đại biểu cũng nêu quan điểm, với những địa phương có số thu lớn, thường xuyên vượt thu như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng cần chung sức cùng Chính phủ để giải quyết khó khăn với những địa phương khác trong cả nước. Điển hình như Quảng Bình, với tình hình lũ lụt, thiên tai thường xuyên, đời sống sản xuất kinh doanh ngập chìm khó khăn, nếu không có sự hỗ trợ của ngân sách Trung ương thì sẽ "phá sản".
Đại biểu Phạm Phú Quốc (ảnh: Quochoi.vn)
Đại biểu Phạm Phú Quốc (ảnh: Quochoi.vn)
Đề xuất mở thêm nguồn thu thừ thuế nhà, thuế cải thiện
Đại biểu Phùng Đức Tiến (Hà Nam) bày tỏ quan ngại trước tình hình GDP năm nay khó đạt mục tiêu 5,1 triệu tỷ đồng, có khả năng chỉ đạt 4,6 triệu tỷ đồng, thậm chí chỉ đạt 4,1 triệu tỷ đồng nếu tốc độ tăng trưởng có thể chỉ ở mức 6,3% chứ không đạt 6,7% như dự kiến.
Việc số tuyệt đối GDP thu hẹp sẽ ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu vĩ mô khác đặc biệt là tỉ lệ bội chi/GDP, nợ công/GDP nhiều khả năng vượt trần cho phép.
Ông Tiến chỉ ra một loạt những sai lầm trong việc sử dụng nguồn vốn vay trong thời gian qua, như vay ngắn hạn nhiều hơn vay dài hạn, lãi suất cao song lại phục vụ cho những công trình thu hồi vốn dài. Điều này dẫn đến việc hiện tại phải tăng vay để đảo nợ, vay năm sau cao hơn năm trước..
"Nếu chúng ta cứ tiếp tục đầu tư như cách làm thời gian qua, lãng phí, thất thoát nguồn lực nhà nước thì sẽ không chỉ gây rủi ro cho cán cân tài chính ngân sách, rủi ro nợ công mà còn góp phần gây nên sự bất ổn định vĩ mô", vị đại biểu Hà Nam cảnh báo. Do vậy, Chính phủ cần phải có chiến lược vay, trả nợ rõ ràng, chi tiêu tiết kiệm, nhấn mạnh vai trò trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc quản lý chi tiêu công.
Nói về mục tiêu tổng tu ngân sách giai đoạn 2016-2020 đặt ra là hơn 6,6 triệu tỷ đồng, tổng chi hơn 8 triệu tỷ đồng, GDP tăng trưởng bình quân 5 năm là 6,5-7%, nợ công dưới trần 65% GDP, bội chi dưới trần 3,9% GDP, đại biểu Phạm Phú Quốc (TPHCM) đánh giá, đây là những con số thể hiện sự quyết liệt trong vấn đề điều hành.
Tuy nhiên, trước bối cảnh biến động giá dầu và triển vọng kinh tế khó khăn, thu từ nhập khẩu thu hẹp, vị đại biểu TPHCM nhận xét "mục tiêu tăng thu là rất khó đạt được, chỉ có thể giảm chi".
Dù vậy, đại biểu Quốc cũng đưa ra những góp ý, cho rằng, Việt Nam cần tính toán nuôi dưỡng nguồn thu, tạo hành lang thông thoáng để các doanh nghiệp hoạt động, khuyến khích người dân bỏ vốn vào tham gia phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, cũng có thể tính toán đến một số nguồn thu mới mà các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng như thuế cải thiện, phí tác động, thuế nhà... "Chẳng hạn như khi ngân sách bỏ ra làm hạ tầng, một số dự án được tăng giá trị (nhà trong hẻm thành nhà mặt tiền, chung cư tăng giá bán) như vậy cũng phải chia lại phần lợi nhuận này cho ngân sách để ngân sách có thêm nguồn thực hiện các nhiệm vụ, dự án khác", ông Quốc nêu ví dụ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tận thu.
Ngoài ra, đại biểu Quốc cũng khuyến nghị, bên cạnh hỗ trợ khởi nghiệp, cần khuyến khích thành lập các tập đoàn kinh tế lớn, có tầm cỡ quốc gia và khu vực để mang lại nguồn thu lớn, dẫn dắt khối doanh nghiệp phát triển. Trong vay vốn ODA, cần tỉnh táo để tránh bẫy nợ nần, thu hút FDI phải theo định hướng chứ không thu hút tràn làn, để lại hậu quả môi trường rồi lại phải đi giải quyết.
Bích Diệp


Ông Vũ Khoan: “Chủ trương nhiều rồi, giờ hãy làm, làm và làm...”


VOV.VN-Theo Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Trung ương đặt ra nhiệm vụ tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng là đúng đắn rồi, giờ làm, làm và làm đi.


Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và tầm quan trọng đặc biệt, quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (họp từ ngày 9/10 đến 14/10/2016, tại Thủ đô Hà Nội) đã đặt ra nhiệm vụ cho toàn hệ thống chính trị trong thời gian tới là phải tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, coi đây là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu trong giai đoạn hiện nay.
VOV.VN có cuộc phỏng vấn ông Vũ Khoan, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ cơ bản và trọng yếu này.
Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng là hợp lý…
PV: Thưa ông, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII có đặt ra nhiệm vụ cơ bản và trọng yếu là phải tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam. Ông bình luận gì về nhiệm vụ này?
nguyen pho thu tuong vu khoan noi ve viet nam chuyen doi mo hinh tang truong va tai co cau kinh te viet nam  hinh 1
Ông Vũ Khoan (bên phải) trả lời phỏng vấn của phóng viên VOV (Ảnh: Bình Minh/VOV.VN)

Ông Vũ Khoan: Thực ra, vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng cũng đã được đặt ra từ lâu rồi, từ Đại hội XI, chứ không phải vấn đề mới. Nhưng vấn đề là trong 5 năm qua, chúng ta vẫn còn vướng víu với rất nhiều vấn đề trước mắt, thành ra việc thực hiện chủ trương đó chưa được suôn sẻ, chưa đem lại kết quả rõ rệt. Do đó, Hội nghị Trung ương lần này có đặt vấn đề lại và nhấn mạnh hơn nhiệm vụ này thì đó cũng là một điều hợp lý.
Vấn đề đặt ra là vì sao phải tái cấu trúc? Cấu trúc của nền kinh tế cũng giống như cấu trúc của một ngôi nhà, lâu dần, nếu nền tảng mà không vững thì nó có thể nứt, dột, sụt, lún. Nền kinh tế cũng vậy, có những nhân tố bất ổn thì nền kinh tế kém hiệu quả. Từ đó, phải thay đổi lại, đó chính là tái cấu trúc.
Câu hỏi đặt ra là ngôi nhà kinh tế của chúng ta nứt, lún chỗ nào? Tôi thấy nó lún ở mấy chỗ: Thứ nhất, nền kinh tế tăng trưởng dựa vào chiều rộng, nghĩa là đầu vào sử dụng chủ yếu là lao động rẻ, tài nguyên và đồng vốn, còn năng suất, hiệu quả thì rất thấp. Mà năng suất quyết định sự tiến bộ của nền kinh tế.
Thứ hai, nền kinh tế phát triển không bền vững, đặc biệt là phát triển đi đôi với xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy vấn đề về môi trường ở nước ta là vấn đề lớn hơn rất nhiều so với tưởng tượng. Chúng ta đã không chú trọng đúng mức đến vấn đề này nên để lại những hậu quả rất nghiêm trọng.
Thứ ba, hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp. Lẽ ra 1 đồng vốn bỏ ra có thể thu về 6 đến 7 đồng, nhưng chúng ta chỉ thu được khoảng 3 đồng. Như thế thì làm sao có thể cạnh tranh với các nước khác được, làm sao mà không tụt hậu?
Thứ tư, tôi đặc biệt nhấn mạnh, cơ cấu kinh tế của chúng ta quá nhiều bất ổn. Chúng ta chuyển dịch dần dần, chuyển dịch 3 khu vực lớn là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ thì cũng có chuyển dịch nhưng đi sâu vào mỗi lịch vực đó thì quá lạc hậu. Ví dụ, nông nghiệp chủ yếu nuôi trồng và gặt hái, sản phẩm chủ yếu bán bao, chưa chế biến, thành ra giá trị gia tăng rất thấp. Công nghiệp thì chiếm tỷ trọng cũng khá cao (khoảng 38%), nhưng tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo còn ít, chủ yếu gia công, mà công nghiệp chế biến chế tạo cũng chủ yếu của doanh nghiệp nước ngoài; dịch vụ thì cũng không có chuyển dịch gì đáng kể, những dịch vụ cao cấp ta không nắm được mà chủ yếu mới có nắm dịch vụ thấp cấp.
Còn cơ cấu về thành phần thì còn nổi lên vấn đề là thành phần kinh tế nhà nước còn chiếm tỷ trọng quá cao và hiệu quả rất thấp, doanh nghiệp nước ngoài thì chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Ví dụ, chúng ta khoe rất nhiều là tăng trưởng xuất khẩu rất nhanh nhưng doanh nghiệp FDI chiếm khoảng xấp xỉ 70%, thì đây không phải là của Việt Nam.
Thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, vừa rồi chúng ta ưu tiên tập trung vào 3 khâu: tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc ngân hàng và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta cũng đã làm được một số việc, nhưng mà cũng còn ngổn ngang lắm, nhất là cơ cấu lại đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước.
Tất cả những câu chuyện đó đặt ra vấn đề đòi hỏi chúng ta phải cơ cấu lại nền kinh tế nếu không sẽ tụt hậu rất ghê gớm và thực chất đang tụt hậu rồi.
“Tôi chưa rõ mô hình tăng trưởng mới thế nào”
PV: Thưa ông, khi Trung ương đặt vấn đề thay đổi mô hình tăng trưởng thì nhiều người cũng băn khoăn là chưa rõ mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ như thế nào?
Ông Vũ Khoan: Tôi cũng thấy vậy. Tôi theo dõi mà chưa hình dung ra được mô hình mà mình định chuyển sang nó thế nào, là mô hình gì. Ở đây có mấy câu hỏi:Mô hình gì? Làm cách nào? Ai làm? Trong đó, mô hình thì chưa rõ. Còn ai làm thì cảm giác như là nhà nước làm còn các doanh nghiệp và thị trường vẫn đứng ngoài. Và làm thế nào thì cũng chưa rõ. Cho nên, bây giờ tung ra con số cần đến gần 10 triệu tỷ đồng để tái cấu trúc kinh tế thì không biết là ta lấy đâu ra, nhất là trong điều kiện ngân sách như hiện nay. Rõ ràng, câu hỏi vẫn còn nhiều hơn câu trả lời.
PV: Như ông vừa nêu, chúng ta còn 3 câu hỏi lớn cần trả lời cho việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng là: Mô hình gì? Ai làm? Làm như thế nào? Vậy theo ông, ai là người phải trả lời những câu hỏi này?
Ông Vũ Khoan: Những câu hỏi này, dĩ nhiên là, các cơ quan của Đảng và Nhà nước phải trả lời chứ người dân làm sao trả lời được.
Chậm đổi mới vì cả khách quan và chủ quan
PV: Câu chuyện chuyển đổi mô hình tăng trưởng không phải đây là lần đầu tiên được đặt ra mà đã được đặt ra từ Đại hội XI của Đảng rồi. Vậy tại sao sau nhiều năm, nay ta lại phải đặt ra và tiếp tục nhắc phải quyết liệt thực hiện, thưa ông?
nguyen pho thu tuong vu khoan noi ve viet nam chuyen doi mo hinh tang truong va tai co cau kinh te viet nam  hinh 2
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan: Chậm đổi mới mô hình tăng trưởng do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan (Ảnh: Bình Minh/VOV.VN).

Ông Vũ Khoan: Tôi thấy có thể có mấy nguyên nhân: Thứ nhất là vừa rồi chúng ta còn bộn bề những công việc trước mắt. Những hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 dội vào nước ta, rồi nước ta lại có những yếu kém về quản lý nên hậu quả nó cũng rất nặng, đến nay vẫn chưa giải quyết hết được. Nói là ổn định vĩ mô, nhưng mà nợ công cũng còn rất cao, ngân sách thì bội chi rất lớn, đến hôm nay vẫn là vấn đề nóng.
Thứ hai là chúng ta phải đối mặt với những nhân tố bất thường, không lường được như biến đổi khí hậu, môi trường, thiên tai… đặt chúng ta vào thế rất bị động. Rồi cả những vấn đề chính trị, an ninh, Biển Đông… có bước phát triển mới mà ta không lường trước được.
Thứ ba, gốc gác của vấn đề ở chỗ là những câu hỏi vừa đặt ra ở trên là: Chuyển đổi sang mô hình nào? Ai làm? Làm như thế nào? Tức là có lý do khách quan và cả lý do chủ quan đẩy chúng ta đến tình trạng làm chưa đến nơi đến chốn, chưa đem lại được gì để cho cảm nhận rõ rệt.
Cần chính sách cụ thể để “đột phá”
PV: Để thực hiện thay đổi mô hình tăng trưởng hiệu quả, trong các nhiệm vụ và giải pháp, Trung ương đề ra cần đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện 3 đột phá chiến lược về: đổi mới, hoàn thiện thể chế; phát triển giáo dục đào tạo để để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Vậy theo ông, 3 đột phá chiến lược này có đặt ra được cơ sở nền tảng nào cho chúng ta thực hiện hay không?
Ông Vũ Khoan: Tôi thấy đặt ra 3 đột phá đó cũng đúng, nhưng chưa đủ. Về thể chế thì chúng ta cũng đang làm, nhưng nó cũng như bài nhạc còn đang ngập ngừng, nhưng mà thôi thì cũng đang có những chuyển dịch. Giáo dục thì cũng đã có hẳn một nghị quyết về đổi mới cơ bản, toàn diện giáo dục rồi, còn đang làm như thế nào thì mọi người đều đang chứng kiến cả, năm nào cũng thay đổi, lúc nào cũng căng thẳng, chưa đem lại kết quả gì trực tiếp.
Cho nên, nói cần 3 đột phá chiến lược đó thì cũng đúng thôi. Nhưng theo cá nhân tôi, cái cơ bản để chuyển đổi mô hình tăng trưởng là phải thay đổi cơ cấu, trong đó khâu then chốt là khoa học công nghệ. Muốn nâng cao hiệu quả, chỉ có con đường đưa khoa học công nghệ vào và thể chế làm sao để thúc đẩy tính hiệu quả, chất lượng. Tức là những đòn bẩy kinh tế mới là quan trọng chứ không phải tiền là quan trọng.
Vậy những chính sách nào để buộc các doanh nghiệp (doanh nghiệp làm chứ không phải nhà nước làm) đi theo con đường hiệu quả, chất lượng, đưa công nghệ mới vào, đưa quản lý hiện đại vào. Những việc này đều là doanh nghiệp làm. Muốn doanh nghiệp làm thì nhà nước phải đưa ra bảng chỉ đường, hoặc những khâu then chốt để thúc đẩy người ta làm. Tôi chưa thấy điều đó. Còn tiền thì cũng quan trọng, không phải thay đổi thì không cần tiền, nhưng tiền đó do doanh nghiệp bỏ ra, còn ngân sách chỉ bỏ ra làm một số cái tập trung vào hạ tầng cơ sở, giáo dục đào tạo, phát triển khoa học (mà khoa học thì nhà nước cũng chỉ 1 phần thôi còn các doanh nghiệp, các cơ sở phải làm). Tôi vẫn chưa thấy những đòn bẩy cơ bản đó nằm ở đâu, như thế nào?
Chủ trương nhiều rồi, giờ hãy làm, làm và làm…
PV: Thưa ông, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng không thể tách rời quá trình hội nhập quốc tế. Hội nghị Trung ương nói rằng, hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân, không phải của riêng ai, trong đó đặc biệt đặt doanh nghiệp và đội ngũ trí thức là lực lượng đi tiên phong. Ông thấy quan điểm này thế nào?
Ông Vũ Khoan: Tôi nghĩ quan điểm này cũng đúng thôi, nhưng cần phải phân vai cho rõ ràng. Còn nói khẩu hiệu chung chung thế thì ai làm gì vẫn không rõ. Vậy các tổ chức Đảng làm gì? Các doanh nghiệp thì rõ rồi, sống chết là phải lao vào thôi. Còn bộ máy nhà nước làm gì và làm thế nào? Các đoàn thể quần chúng làm thế nào? Các hiệp hội thế nào?
Đúng là việc hội nhập này liên quan toàn dân thật, nhưng vấn đề là ai làm gì và làm thế nào thì chưa có lời đáp. Ngay như tại phường tôi đang ở đây, liên quan đến hội nhập thì Đảng ủy họ làm gì, Mặt trận làm gì, tôi hỏi, họ cũng không rõ. Chứng tỏ, hội nhập mới dừng ở cấp trung ương và ở khẩu hiệu thôi. Tức là phải phân vai ra, chỉ việc rõ ràng ra chứ nếu không thì khẩu hiệu vẫn là khẩu hiệu thôi.
PV: Rõ ràng bây giờ chúng ta cần gọi tên cụ thể, chỉ đích danh những ai gắn với nhiệm vụ gì, trách nhiệm cụ thể ra sao, thưa ông?
Ông Vũ Khoan: Vấn đề đó thì Trung ương cũng nêu rồi. Vấn đề tôi chờ đợi là làm thế nào. Còn nói thì nói mãi rồi, có phải cái gì mới đâu. Về trách nhiệm người đứng đầu cũng nói cả vạn lần rồi. Nhưng những xảy ra trong hệ thống đó, người đứng đầu có làm sao đâu.
PV: Vậy ông kỳ vọng gì?
Ông Vũ Khoan: Tôi kỳ vọng đơn giản thôi, khẩu hiệu nhiều rồi, chủ trương nhiều rồi, giờ làm, làm và làm. Làm một việc nhỏ thôi cũng được, nhưng mà làm.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông! 

Xuân Thân/VOV.VNThực hiện

Làm gì để giảm chi tiêu công, tránh lãng phí?

LĐ - 256 LAN HƯƠNG - XUÂN HẢI

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP. Hồ Chí Minh)
LTS: Hình ảnh Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dùng máy bay thương mại thay vì chuyên cơ khi đi công cán nước ngoài là một hình ảnh đẹp. Sự kiện này còn mang đến thông điệp: Muốn tiết giảm chi tiêu công thì bên cạnh những chiến lược vĩ mô thì mỗi cán bộ cho tới người đứng đầu Chính phủ cũng cần có những thay đổi từ những việc cụ thể, đóng góp vào nỗ lực giảm gánh nặng lên ngân sách. Qua sự kiện này, báo Lao Động đã thực hiện trao đổi với một số chuyên gia, cũng như ghi nhận các ý kiến đại biểu Quốc hội trong các phiên thảo luận ngày hôm qua (31.10).  

Đánh giá của các ông về hành động của Thủ tướng khi từ chối chuyên cơ để dùng máy bay thương mại khi đi công tác. Cụ thể là chuyến công cán tại Thái Lan vừa qua?
- Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP. Hồ Chí Minh):
Tôi rất hoan nghênh việc này. Thủ tướng đã bớt sử dụng chuyên cơ đi công tác để giảm lãng phí, điều đó không những giảm lãng phí mà nhân dân nhìn vào cũng rất hoan nghênh. Điều này cũng khiến khoảng cách giữa lãnh đạo và người dân trở nên gần gũi, hòa đồng hơn. Nhiều lãnh đạo ở các quốc gia khác cũng từng làm như vậy, cũng đi bộ, đi xe đạp, cũng sử dụng các phương tiện giao thông công cộng.
Tuy vậy, cũng đặt ra yêu cầu là những ngành dịch vụ công phải làm sao để đảm bảo an toàn cho các lãnh đạo cao cấp, điều này cũng có nghĩa là đảm bảo tốt hơn, an toàn cho nhân dân.
- TS Cao Sỹ Kiêm - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - Nguyên Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Làm gì để giảm chi tiêu công, tránh lãng phí? ảnh 1
 Ông Cao Sỹ Kiêm.
Hành động này của Thủ tướng là thể hiện nói đi đôi với làm. Trước đây, các bộ, ban, ngành cũng hô hào tiết kiệm nhưng chỉ là chung chung. Việc Thủ tướng đi máy bay thương mại mang ý nghĩa thông điệp là ông ấy nói được thì sẽ làm được và là tấm gương cho các cấp Trung ương, địa phương, bộ, ban, ngành phải tự suy nghĩ. Mà hơn thế, hành động của Thủ tướng thể hiện việc làm tiết kiệm không cần đao to búa lớn mà chỉ cần bắt đầu từ việc nhỏ nhất đến việc lớn”.
- Đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà (Hà Nội):
Làm gì để giảm chi tiêu công, tránh lãng phí? ảnh 2
Ông Đỗ Đức Hồng Hà. 
Trước hết, tôi thấy việc làm của Thủ tướng đúng là một tấm gương cho tất cả cán bộ công chức của chúng ta noi theo học tập.
Người đứng đầu của Chính phủ làm gương cho tất cả mọi người thì tất cả mọi cán bộ, công chức cũng sẽ tiết kiệm. Các cụ mình cũng dặn, “Buôn tàu buôn bè không bằng ăn dè, hà tiện”, cho nên là nếu chúng ta chú trọng đến tiết kiệm sẽ giúp nền kinh tế, xã hội phát triển, giảm nợ công, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Khi đó, mục tiêu về xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh sẽ sớm thành công.
Việc Thủ tướng khi mới nhậm chức đã không mua xe mới mà vẫn dùng xe cũ đến việc đi máy bay thương mại là thể hiện trách nhiệm, đạo đức, tầm nhìn xa của người đứng đầu Chính phủ.
Tôi không những ủng hộ bằng lời nói mà còn bằng việc làm cụ thể là tôi cũng không nhận xe ôtô công khi về làm việc ở Ủy ban Tư pháp Quốc hội.
Một trong những vấn đề nóng hiện nay là tình trạng lãng phí trong sử dụng tài sản công như xe công, nhà công vụ thời gia qua. Vậy, cần có những giải pháp nào để ngăn chặn, hạn chế tình trạng này?
- Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP. Hồ Chí Minh):
Việc lãng phí là do chưa tách bạch rõ chi phí từ nguồn ngân sách, nên một số tài sản công lại được sử dụng để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Ngược lại, cũng có một số người phải sử dụng một phần lương của mình để trang trải cho công việc.
Do đó, để giải quyết cơ bản chi phí cho các cá nhân là cán bộ công chức thì phải giải quyết đồng bộ với cơ cấu tiền lương, thu nhập cho hợp lý. Khi đã giải quyết được “phần gốc” này thì sẽ trả lời được những câu hỏi, như cán bộ đi làm bằng phương tiện gì, điện thoại sử dụng thế nào, nhà ở dành cho cá nhân hay cho cả gia đình v.v...
Có những quốc gia chi trả tất cả vào lương thì khi anh đi thuê nhà như thế nào đó là việc của anh. Trong cơ cấu tiền lương đã tính đến tất cả các chi phí đó rồi. Giải quyết được vấn đề tiền lương trên cơ sở như vậy thì mới hợp lý. Chứ bây giờ lương 10 triệu mà khoán chi phí đến mấy chục triệu, gấp mấy lần lương thì rõ ràng khó giải thích, nhân dân nghe cũng không thể nào chấp nhận được.
Để giải quyết vấn đề này, ông Nghĩa cho biết: Không nên tách chi phí công ra khỏi lương. Theo ông Nghĩa, có thể thí điểm trước ở một số trường hợp, nhưng để giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có giải pháp tổng thể, đi từ vấn đề thu nhập, tiền lương của cán bộ, công chức.
- TS Lưu Bích Hồ - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Làm gì để giảm chi tiêu công, tránh lãng phí? ảnh 3
Ông Lưu Bích Hồ.
Từ những việc làm cụ thể, Thủ tướng đều thể hiện quan điểm là Chính phủ kiến tạo, liêm khiết. Đó là việc tốt. Việc đi máy bay thương mại sẽ tiết kiệm được số tiền rất nhiều. Tôi nghĩ thời gian tới nên khuyến khích các bộ trưởng, thứ trưởng nên đi máy bay hạng vé economy để tiết kiệm chi phí. Thậm chí các trợ lý của bộ trưởng, thứ trưởng đi theo cùng đoàn cũng nên đi vé hạng economy thôi. Tôi từng đi công tác ở New Zealand, Phần Lan… và thấy nền hành chính của họ minh bạch, công khai và tiết kiệm, các công sở từ cấp bộ trở xuống không đi xe ôtô riêng, chỉ đi xe ôtô dịch vụ. Chỉ có Thủ tướng và vài vị lãnh đạo cao cấp có xe riêng.
- Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng
Làm gì để giảm chi tiêu công, tránh lãng phí? ảnh 4
Ông Đinh Tiến Dũng.
Hiện quy trình đầu tư, mua sắm, xử lý tài sản nhà nước bị phân tán do nhiều cơ quan, đơn vị cùng làm, tính chuyên nghiệp thấp, còn nặng về hành chính, bao cấp; chưa tách bạch giữa nhiệm vụ quản lý về tài sản nhà nước và cung cấp dịch vụ công trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao, vai trò điều tiết của các cơ quan quản lý tài sản công hạn chế nên còn tình trạng nơi thừa, nơi thiếu tài sản, việc sử dụng tài sản sai công năng, sai mục đích gây lãng phí, thất thoát vẫn diễn ra.
- TS Cao Sỹ Kiêm - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tôi đưa ra mấy giải pháp thế này: Thứ nhất, việc đi máy bay thương mại của Thủ tướng chỉ có tính nêu gương, việc làm nhỏ mà ý nghĩa lớn. Người dân đang trông chờ vào việc lớn hơn liên quan đến lợi ích quốc gia, từ đó chúng ta cần triển khai tiết kiệm ở nhiều lĩnh vực lớn khác để mang lợi ích quốc gia lớn hơn.
Thứ hai, qua việc làm này ta thấy tính tự giác là tốt nhưng chúng ta cần hoàn chỉnh cơ chế, kỷ cương. Ví dụ, căn cứ vào tiêu chí, tiêu chuẩn và chế tài cụ thể để xử lý vi phạm. Việc làm tốt dù nhỏ, mình cũng phải tuyên truyền, nhưng bên cạnh đó, các vi phạm dù nhỏ cũng phải xử lý nghiêm để làm gương, đặc biệt là các vụ việc lớn liên quan lợi ích quốc gia.
Thứ ba, việc đi máy bay thương mại của Thủ tướng không chỉ giải quyết chi phí, đầu tư công, tiết kiệm thời gian, chi phí nguyên liệu mà nên rộng rãi trên các lĩnh vực thì tác dụng lớn hơn. Thêm vào đó, cần tạo đội ngũ cán bộ từ dưới lên trên thống nhất về suy nghĩ, hành động, quản lý và xử lý được ăn khớp, nhịp nhàng để biến hành động nhỏ nhưng ý nghĩa lớn của Thủ tướng được nhân rộng ý nghĩa tiết kiệm ở mọi lĩnh vực, tạo động lực thúc đẩy đất nước, để chính sách tiết kiệm thực sự tạo nên phát triển biền vững.

Tin bài n

Ông Hồ nói với ông Diệm những gì trong cuộc gặp duy nhất?

Cuộc gặp lịch sử ông Hồ và ông Diệm gặp nhau một lần duy nhất.

http://aer-vietnamwar.weebly.com/uploads/2/7/9/4/27942803/4843784_orig.png
Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm
Vào năm 1946 lực lượng của Hồ bắt Diệm và giam ông ở trong tù cho tới khi Hồ mời ông đến phỏng vấn tại căn cứ địa miền núi Tuyên Quang của Hồ. Hồ đã khiến người tù kinh ngạc: “Tôi sẵn sàng dành cho ông chức vụ cao trong chính phủ của tôi.” Nếu lời đề nghị này khiến Diệm kinh ngạc thì câu trả lời của Diệm lại khiến Hồ sững sờ: “Ông và tôi mỗi người đều muốn những tương lai hoàn toàn khác nhau cho Việt Nam. Ông có thể cam kết ông sẽ không áp đặt chuyên chính vô sản ở đây?”

Rồi Diệm thử xem Hồ có tuyên bố thật lòng hay không. “Tôi sẽ chấp nhận Bộ Nội Vụ (công an) kèm theo sự kiểm soát hoàn toàn về tình báo.” Hồ không khước từ ngay lời đề nghị ngược lại này. Hồ cân nhắc trong hai tuần trước khi thấy quyền lực của mình bị phân chia như thế là không hay. Lời nói chia tay của họ như sau:

Diệm: “Tôi không tin ông hiểu tôi là người như thế nào. Hãy nhìn thẳng vào mặt tôi. Phải chăng tôi là người sợ hãi?”

Hồ: “Không, ông không phải là người như thế.”

Diệm: “Tốt, vậy bây giờ tôi đi ngay.”

Francis X. Winters 

Trần Quốc Việt dịch (Tựa đề của người dịch.)

Nguồn: Trích dịch từ tạp chí Mỹ National Review số ra ngày 25/11/1988, trang 34, trong bài báo tựa đề nguyên tác “ They shoot allies, don’t they? When, 25 years ago, Ngo Dinh Diem was assassinated, his supporters blamed the United States. They were right.”
(Dân Làm Báo)

Đối chiếu “Khoản 2, Mục 3, Phần II…của NQ TW 4 khóa 12/2016” với “Cương lĩnh và NQ” của Hội nghị lần thứ 4 ( khóa 2) BCHTW Đảng Lao động VN năm 1953 ?

Phạm Viết Đào.

Nghiên cứu NQTW 4 khóa 12, chủ blog rất chú ý tới Khoản 2, Mục 3, Phần II- NHẬN DIỆN NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA":

Xin trích:

Mục 2: Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự" . Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. "
(Mục 3- Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” …)

Mục 6: "Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu..."

Đối chiếu  sự “nhận diện” này của NQTW 4 khóa 12 với Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam ký ban hành tháng 11/1953 và Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tư ( khóa 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 1 năm 1953 tại Hội nghị lần thứ tư của Trung ương Đảng Lao động VN; Đây là hội nghị bổ sung và thông qua bản báo cáo của Hồ Chủ tịch và bản báo cáo của đồng chí Trường Chinh về tình hình, nhiệm vụ và công tác trong nǎm 1953;Hội nghị lại thông qua bản Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất, xác định quyền sở hữu ruộng đất của nông dân…
Năm 1953 là năm bản lề chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công năm 1954 tại chiến trường Điện Biên Phủ; Bản Cương lĩnh và nghị quyết này nhằm động viên nông dân dốc toàn lực sức người, sức của vào cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ…
Đối chiếu 3 văn kiện này nhận thấy: đây là một một cuộc xoay đảo về đường lối, chính sách của Đảng về vấn để quyền sở hữu đất đai của nông dân…
Xin trích Cương lĩnh và Nghị quyết của hội nghị này phần nói về quyền sở hữu đất đai:
” Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến,  đánh  đuổi  đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền, hoàn  toàn  giải phóng dân tộc.
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất  nông  nghiệp,  mở đường cho công thương nghiệp phát triển,  lợi  cho  kháng chiến và kiến quốc.
Cần phải xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc ở  Việt  Nam,  xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của  giai  cấp  địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông  dân, thực  hiện khẩu hiệu người cày có ruộng…”
... Ruộng đất, trâu bò, nông cụ, v.v. tịch thu, trưng thu và  trưng  mua  đều chia hẳn cho nông dân không có ruộng đất hoặc  thiếu  ruộng  đất; họ được quyền sở hữu vĩnh viễn những thứ  được  chia  và không phải trả tiền.
(CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM 11/1953)

“Cǎn cứ vào nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, cǎn cứ vào yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến, Hội nghị lần thứ tư của Trung ương quyết định:
Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng: tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của bọn đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân…( NQ hội nghị 4 BCHTWĐLĐVN khóa 2)

Xin đưa lại toàn văn Bản Cương lĩnh và Nghi quyết TW 4 khóa 2:

Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam tháng 11 năm 1953 về vấn đề ruộng đất

Cập nhật lúc 15h39  -  Ngày 12/10/2016

CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Tháng 11 năm 1953
Về vấn đề ruộng đất
Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến,  đánh  đuổi  đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền,  hoàn  toàn  giải phóng dân tộc.
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất  nông  nghiệp,  mở đường cho công thương nghiệp phát triển,  lợi  cho  kháng chiến và kiến quốc.
Cần phải xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc ở  Việt  Nam,  xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của  giai  cấp  địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông  dân, thực  hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Trong nhân dân ta, nông dân chiếm gần 90%. Đối với kháng  chiến,  nông  dân đóng góp nhiều nhất, hy sinh nhiều nhất.  Nhưng  nông  dân phần nhiều lại không có, hoặc có rất ít ruộng  đất.  Nông  dân làm lụng vất vả quanh năm mà vẫn không  được  no  cơm, ấm áo. Tình hình ấy rất không hợp lý, không  công  bằng.  Vì vậy, nông dân yêu cầu được ruộng đất là một  điều  rất  chính đáng, rất hợp với lợi ích giải phóng dân tộc. Chỉ  có  thực  hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, làm cho hàng chục triệu nông dân hăng hái tham gia kháng chiến, thì kháng chiến  mới  hoàn  toàn thắng lợi, cách mạng chắc chắn thành công.                              
Vì vậy, Đảng Lao động Việt Nam định ra cương lĩnh ruộng  đất  như  sau:
1. Tịch thu toàn bộ ruộng đất và tài sản của thực dân Pháp  và  của  đế quốc xâm lược khác.
2. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của  bọn  Việt  gian phản quốc.
3. Tịch thu hoặc trưng thu (tuỳ tội nặng nhẹ), ruộng đất trâu  bò,  nông  cụ và tài sản khác của địa chủ phản động và cường  hào  gian  ác.
4. Trưng thu ruộng đất công và ruộng đất nửa công, nửa tư  bao  gồm  ruộng phe, ruộng giáp, ruộng tư văn, tư võ, ruộng các  đoàn  thể,  v.v..
5. Trưng thu hoặc trưng mua (tuỳ trường hợp) ruộng đất của  các  tôn  giáo.
6. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của  ngoại  kiều  hợp tác với đế quốc xâm lược và nguỵ quyền. Trưng  mua  ruộng  đất, trâu bò, nông cụ của những địa chủ ngoại  kiều  khác.  
7. Trưng mua ruộng đất, trâu bò nông cụ của địa chủ kháng  chiến  và  địa chủ thường; địa chủ kháng chiến, nhân sĩ dân  chủ  được  chiếu cố một cách thích đáng.
Giá tiền và cách giả tiền do Chính phủ quy định.
8. Xoá bỏ nợ mà nông dân lao động và những người thuộc tầng  lớp  nghèo  ở nông thôn vay của địa chủ.
9. Xoá bỏ độc quyền của đế quốc và phong kiến về mặt biển  và  khúc  sông.
10. Không đụng đến ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và  tài  sản  khác của phú nông.
11. Kiên quyết bảo hộ ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa  và  tài  sản khác của trung nông.
12. Bảo hộ công nghiệp và thương nghiệp. Không đụng đến  công  thương  nghiệp của địa chủ kháng chiến và địa chủ thường  và  những  đất đai trực tiếp dùng vào công thương nghiệp  của  họ.  
13. Không đụng đến ruộng đất của những người có ít ruộng  đất  phải  phát canh vì tham gia công tác kháng chiến, vì  thiếu  sức  lao động hoặc vì bận làm nghề khác.
14. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ, v.v. tịch thu, trưng thu và  trưng  mua  đều chia hẳn cho nông dân không có ruộng đất hoặc  thiếu  ruộng  đất; họ được quyền sở hữu vĩnh viễn những thứ  được  chia  và không phải trả tiền.
15. Lấy xã làm đơn vị chia ruộng đất và theo đầu người mà  chia  một  cách công bằng.
16. Liệt sĩ, quân nhân cách mạng, thương binh, bệnh binh,  cán  bộ,  nhân viên phục vụ kháng chiến và gia đình họ ở nông  thôn  không  có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất đều được chia  ruộng  đất.  Liệt sĩ, quân nhân cách mạng, thương binh, bệnh  binh  được  ưu đãi trong khi chia.
17. Khi tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất để lại cho  địa  chủ  (trừ những người bị tù từ trên 5 năm trở lên) và gia  đình  họ  một phần ruộng đất tương đương với phần ruộng đất  được  chia  của nông dân.
18. Gia đình nguỵ binh thuộc thành phần nông dân lao động  không  có  ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất thì được chia ruộng  đất.  Nguỵ  binh cũng được một phần ruộng đất nhưng khi  họ  chưa  bỏ hàng ngũ nguỵ quân trở về với Tổ quốc thì ruộng  đất  ấy  do Uỷ ban kháng chiến hành chính hay nông hội  xã  quản  lý.
19. Những rừng nhỏ, ao hồ, đầm, đất hoang, vườn cây ăn quả  nếu  có  thể chia, đều chia cho nông dân.
20. Những đồn điền canh tác bằng máy, hoặc những đồn điền  trồng  cà  phê, cao su, v.v. theo kỹ thuật tiến bộ, các trại thí  nghiệm,  những  hầm mỏ, những nơi có cổ tích lịch sử, v.v. thì  không  chia  mà do chính quyền quản lý.
21. Để thực hiện cải cách ruộng đất phải phát động quần chúng  theo  đúng  đường lối chung của Đảng ở nông thôn: dựa hẳn  vào  bần,  cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp  phú  nông,  tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và  có  phân  biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
22. Chính quyền sẽ thành lập Uỷ ban cải cách ruộng đất từ  cấp  trung  ương đến cấp tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền,  những  Uỷ  ban này có nhiệm vụ lãnh đạo cụ thể phong trào  quần  chúng,  thực hiện cải cách ruộng đất.
Ở cấp xã, nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng đấu tranh thực hiện  cải  cách  ruộng đất thuộc về Hội nghị đại biểu nông dân và  Ban  Chấp  hành Nông hội.
23. Cương lĩnh này định cho toàn quốc, những vùng tự do có  đủ  điều  kiện thì thi hành trước, các vùng khác chưa đủ điều  kiện  thì  thi hành sau. Đối với những vùng dân tộc thiểu số  sẽ  có  quy định riêng.
Các cấp uỷ chưa được thông tri thực hiện bản cương lĩnh này  thì  nhất  thiết không được tự tiện làm bừa.
Toàn thể đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải phấn đấu  một  cách  triệt để và trung thành đặng thực hiện cương lĩnh  của  Đảng  về vấn đề ruộng đất. Những đảng viên nào chống  lại  hoặc  có thái độ giả dối trong khi thực hiện bản cương  lĩnh  này,  những đảng viên nào che chở cho địa chủ, không  kiên  quyết  giúp đỡ nông dân, đều không xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam và sẽ bị Đảng thi hành kỷ  luật.     
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của Đảng, nhất định  nhân  dân  ta sẽ vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ  lịch  sử:  
- Tiêu diệt đế quốc xâm lược,
- Xoá bỏ chế độ bóc lột phong kiến,
- Thực hiện một nước Việt Nam độc lập thống nhất, dân chủ,  phú  cường.  

Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đảng toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 499-503.

Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 1 năm 1953
Cập nhật lúc 11h36  -  Ngày 14/10/2015

Hội nghị lần thứ tư của Trung ương đã bổ sung và thông qua bản báo cáo của Hồ Chủ tịch và bản báo cáo của đồng chí Trường Chinh về tình hình, nhiệm vụ và công tác trong nǎm 1953.
Hội nghị lại thông qua bản Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.
*
* *
Đối với chính sách của Đảng về vấn đề ruộng đất từ kháng chiến đến nay, Hội nghị nhận thấy rằng:
1. Chúng ta chưa nắm vững nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam làphản đế và phản phong kiến, chưa thấy rõ lực lượng cǎn bản của cách mạng ta là nông dân. Cho nên chính sách ruộng đất của Đảng chưa được thật đúng để tuỳ hoàn cảnh chung của toàn quốc, và hoàn cảnh từng nơi, từng lúc mà thực hiện nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ, đặng đánh bại đế quốc xâm lược câu kết với lực lượng phản động trong nước là phong kiến địa chủ.
2. Cuộc kháng chiến của ta nhất định phải trường kỳ và gian khổ. Vì chưa nắm thật vững quan điểm kháng chiến trường kỳ và gian khổ ấy cho nên chúng ta chưa kiên quyết dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng nông dân, chưa triệt để phát huy lực lượng to lớn ấy để kháng chiến ngày thêm mạnh, tiến đến giành thắng lợi cuối cùng.
Sai lệch cǎn bản này đã ảnh hưởng đến công tác xây dựng đảng, quân đội, mặt trận, chính quyền về mặt tư tưởng và tổ chức.
Nguyên nhân là chúng ta còn thiếu sót về lập trường và quan điểm cách mạng của giai cấp vô sản.
*
* *
Cǎn cứ vào nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, cǎn cứ vào yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến, Hội nghị lần thứ tư của Trung ương quyết định:
Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng: tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của bọn đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.
Để tiến tới thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong nǎm 1953, chúng ta phải phóng tay phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia lại công điền, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân,chủ yếu là triệt để giảm tô,nhằm thoả mãn bước đầu yêu cầu chính đáng về kinh tế của nông dân; chỉnh đốn đảng, chỉnh đốn nông hội, chính quyền và mặt trận về mặt tư tưởng và tổ chức, đập tan uy thế chính trị của địa chủ phong kiến, giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn.
Công tác phát động quần chúng nǎm nay là một bước cần thiết để thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất.
Để tiến hành công tác phát động quần chúng nǎm nay, để chuẩn bị công tác cải cách ruộng đất, chúng ta phải đặc biệt chú trọng đánh thông tư tưởng cho cán bộ và đảng viên trong Đảng, tuyên truyền giải thích sâu rộng cho quần chúng đông đảo, trước nhất là quần chúng nông dân. Cho nên công tác tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện và tổ chức rất là quan trọng.

*
* *
Mặc dầu thất bại nặng, địch ngày càng tǎng cường lực lượng và công sự để chiếm giữ các đô thị lớn, các vùng chiến lược quan trọng. Phương hướng chiến lược của ta là tạm thời "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do. Như thế để tạo điều kiện hoàn toàn giải phóng Bắc Bộ.
Do phương hướng chiến lược này, quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch. Bất kỳ ở miền núi hay đồng bằng, quân đội taphải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ điểm ngày càng mạnh của địch.
Để thực hiện nhiệm vụ quân sự ấy, chúng ta phải ra sức tǎng cường quân đội ta về mọi mặt: về xây dựng và tác chiến cũng như về công tác chính trị, tham mưu và cung cấp. Phải đặc biệt chú trọng công tác chính trị, nâng cao giác ngộ chính trị cho cán bộ và chiến sĩ về ý thức giai cấp, về nhiệm vụ cách mạng của quân đội nhân dân.
Để đảm bảo cung cấp cho bộ đội, cần phải chỉnh đốn việc cung cấp và thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận. Đặc biệt phải chú trọng công tác giao thông vận tải.
Về tác chiến và chỉnh quân, phương châm tác chiến của chủ lực là: vận động chiến là chính, công kiên chiến là phụ. Trên chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ và các chiến trường ở Trung và Nam thì du kích chiến là chính. Việc chấn chỉnh quân đội cần tiến hành về các mặt, chỉnh huấn chính trị, chỉnh huấn quân sự, chỉnh đốn tổ chức, xây dựng các đơn vị mới.
Trong nǎm 1953, chúng ta phải làm nǎm công tác chính sau đây:
1. Công tác chính thứ nhất là phát động quần chúng. Tất cả các công tác khác đều phải kết hợp với công tác ấy, phục vụ công tác ấy, đảm bảo sự thành công của công tác ấy.
2. Tǎng cường sựchỉ đạo chiến tranh của Đảng, đẩy mạnh các công tác chỉnh quân và tác chiến để tiêu diệt nhiều sinh lực của địch.
3. Về kinh tế tài chính, phải tổ chức và lãnh đạo cuộc vận động sản xuất kết hợp với việc phát động quần chúng. Phải chú ý cải thiện đời sống nhân dân, giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân, tích cực đề phòng và chống nạn đói. Phải tǎng cường công tác tài chính một cách nghiêm chỉnh để thực hiện thǎng bằng thu chi. Phải tǎng cường công tác mậu dịch, ngân hàng, đấu tranh kinh tế với địch. Phải tích cực chống quan liêu, tham ô, lãng phí.
4. Về công tác sau lưng địch, tiếp tục tǎng cường về mọi mặt; phát triển chiến tranh du kích, chống và phá càn quét để củng cố và mở rộng vùng du kích và cǎn cứ du kích; phá âm mưu của địch xây dựng nguỵ quyền và nguỵ quân; chống địch phá hoại và cướp bóc kinh tế; chống sự tuyên truyền lừa bịp của địch. Phải tǎng cường việc tuyên truyền, giáo dục và tổ chức nhân dân. Phải thực hiện thống nhất lãnh đạo của Đảng và của Chính phủ ở sau lưng địch.
5. Về chỉnh đảng, kết hợp với công tác phát động quần chúng để chỉnh đốn chi bộ xã. Tiếp tục chỉnh huấn cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng.
Phải chấn chỉnh tổ chức, tư tưởng, tác phong của Đảng để thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ và công tác quan trọng kể trên.

Lưu tại Kho Lưu trữ

Trung ương Đảng.

Sự vĩ đại của nước Mỹ ở chỗ… không có “lãnh tụ vĩ đại”!

01/11/2016

31-10-2016
Hiến pháp nước Mỹ được viết ra để bảo vệ người dân. Nguồn: interet
Hiến pháp nước Mỹ được viết ra để bảo vệ người dân. Nguồn: interet
CON QUÁI VẬT
Nước Mỹ, luôn là một quốc gia vĩ đại, không phải bởi họ tự nhận mình như vậy, mà bởi họ biết cách chỉ trích mình và biết lắng nghe để tự làm tốt lên mỗi ngày.
Với họ, không một ai được coi là hay mô tả như một hình tượng theo nghĩa lãnh tụ, là cha già dân tộc hay trở thành một hình mẫu của quốc gia, ngay cả người khai quốc là Washington, cũng chỉ được coi là một nhân vật lịch sử vĩ đại trong số 4 vị tổng thống tiếp theo tính cho đến nay mà được trạm khắc trên vách đá để ghi nhớ công ơn của họ.
Điều vĩ đại của nước Mỹ, đó là sự tự do tư duy, sự khai sáng trí tuệ, sự rộng mở đối với mọi thành phần và chủng tộc, bất kể thân phận hay gốc gác, và điều vĩ đại hơn cả phần còn lại của thế giới chính là bản Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tồn tại vững chãi trong suốt gần 230 năm kể từ khi được thông qua năm 1789 và có hiệu lực năm 1791.
Bản thân nước Mỹ, cũng tồn tại trong lòng của nó đầy những mâu thuẫn, nhược điểm và cả những bất cập, như từ thuở đầu lập quốc vẫn còn duy trì chế độ nô lệ, sự phân biệt chủng tộc, nội chiến, hay người da màu không được bầu cử, tham gia chính trị, bị đối xử tệ bạc và thậm chí ngược đãi. Cho đến những năm 1960s thì Martin Luther King (đứng đầu LBJ) mới giải thoát và chấm dứt cơn đau kéo dài 100 năm cho tình trạng ấy của nước Mỹ.
Họ vẫn có tình trạng vi phạm Hiến pháp, tổng thống vẫn có lúc lạm quyền, nhưng điều làm nên nước Mỹ vĩ đại là ở đó, bản Hiến pháp, được cả thế giới học thuật đánh giá là vĩ đại nhất trong những điều vĩ đại, luôn được bảo vệ khắt khe, nghiêm ngặt, ở đó có cơ chế để kiểm soát mọi thứ không cho nó trở nên tha hoá, suy thoái – tất thảy mọi người đều bình đẳng và có thể thực hiện những quyền chính trị ngang nhau, mặc dù có thể trước đó nó đã từng bị ngăn cản hay hạn chế vì lý do văn hoá hay ý thức hệ còn tồn tại như một trở ngại thực tế.
Để nghiên cứu về nước Mỹ, có lẽ sẽ luôn là quá thiếu thời gian để có thể tìm hiểu một cách cặn kẽ hay thấy hết được mọi ngóc ngách và sự vĩ đại của nó, tôi vẫn đặt tên cho nước Mỹ là con quái vật của thế giới. Chưa bao giờ con quái vật ấy ngừng lớn mạnh mà ngày càng bứt phá một cách khủng khiếp trong mọi mặt, đặc biệt là sự phát triển về khoa học công nghệ và sự dân chủ một cách ngày càng điên rồ, mà tất cả mọi quyền lực đúng nghĩa hoàn toàn thuộc về nhân dân của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.
Ở đó, họ kiểm soát quyền lực chứ không kiểm soát con người. Họ khống chế chính trị chứ không cấm cản hay loại trừ con người.
Cơ chế tam quyền phân lập, đối trọng và kiểm soát, đa đảng phái, tư pháp đại diện cho công lý mà không sinh hoạt chính trị, báo chí tự do ngôn luận một cách mạnh mẽ nhất, người dân có thể tước bỏ quyền lực của những nhánh quyền lực nhà nước nếu có dấu hiệu đủ cho họ thấy rằng nó có xu hướng xâm phạm Hiến pháp, những đạo luật hoặc đe doạ tới nhân dân của mình, mà họ là một phần trong đó. Cơ chế bầu cử tự do, công khai, đã lựa chọn được người mà họ cho rằng đủ xứng đáng để đặt niềm tin mà đứng vào vị trí lãnh đạo, nhưng ở đó cũng có cơ chế để phế truất họ nếu không còn đủ tín nhiệm, mà vốn chỉ được đảm nhận hai nhiệm kỳ liên tiếp với tối đa 8 năm tại vị, nếu trúng cử vào nhà trắng.
Ở Mỹ, không có ai là lãnh tụ, không ai là tinh hoa đến mức không thể thay thế, cũng chẳng có ai là đại diện cho nước Mỹ về trí tuệ, vì không ai được tuyên truyền hay khắc hoạ như một vị vua tối cao, phải đời đời nhớ ơn, mà ở đó mỗi con người chỉ là một phần của lịch sử và với chức phận nào đó của mình, khi hoàn thành sẽ được ghi nhận như một sự đền đáp của quốc gia dành cho họ.
Một anh lính hy sinh trên chiến trường, một người lái tàu ngăn cản đoàn tàu lao xuống vực, một người quét dọn ngăn được một vụ tấn công khủng bố hay một vị tổng thống nào đó ban hành ra đạo luật nâng cao an sinh cho dân nghèo, đều được đánh giá như nhau về tính biểu tượng đối với công lao mà họ đã thực hiện.
Ở nước Mỹ, người cống hiến và làm việc là nhân dân Mỹ, không phải một người hay một vài người, nhất là với cương vị người lãnh đạo – vì với họ, lãnh đạo hay chính trị chỉ đơn thuần là một nghề được trả lương, nếu có nhu cầu và được nhân dân tín nhiệm và bầu lên, đó là chức trách họ phải hoàn thành, chứ hoàn toàn không phải họ ở đó là từ trên trời rơi xuống với sứ mệnh thiên chúa nào cả.
Nhân dân Mỹ tin vào Chúa, nhưng Chúa lại không đặt niềm tin vào một ai, mà họ đặt vào trong Hiến pháp của họ, ngay cả trên những đồng tiền dollar, đều có dòng chữ “In God We trust”, và Bồi thẩm đoàn ở mỗi phiên xử tại toà án đều là 12 người (là số thành viên trong buổi tiệc cuối cùng của Chúa, người thứ 13 là tín đồ Judas đã phản bội Chúa để hãm hại Jesu – kẻ dối trá và lừa gạt) để quyết định đến số mệnh một con người trước vòng lao lý.
Điều mà người Mỹ họ tin, không phải một vài cá nhân xuất chúng nào, mà là ở thứ mà có thể khiến người ta ít phạm sai lầm nhất và nếu phạm phải thì làm sao để ngăn cản hay phế bỏ thứ đó đi, chỉ có thứ đó mới được đặt niềm tin, mà cuối cùng nhất và cũng là quan trọng nhất, chính là bản Hiến pháp vĩ đại của họ và được canh chừng và bảo vệ nghiêm ngặt cũng như tối cao nhất bởi một toà án hoàn toàn độc lập.
Và mọi thứ, sẽ đều bị xét xử theo Hiến pháp của họ.
Còn chúng ta, khi nào có thể thiết lập nên một bản Hiến pháp tương tự như thế cho quốc gia mình?
___

 

RFI: Những yếu kém của « người cầm lái mới » của Trung Quốc; Putin và sự nổi loạn mạnh mẽ; Pháp: « Cặp đôi Hollande – Valls bên bờ đổ vỡ »


Những yếu kém của « người cầm lái mới » của Trung Quốc


mediaChủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.REUTERS/Ed Jones/Pool/File Photo
Được tôn vinh là lãnh đạo hạt nhân của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Tập Cận Bình nắm trong tay quyền lực biểu tượng vượt qua cả chức tổng bí thư Đảng và chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Việc này minh họa cho chủ nghĩa tôn thờ cá nhân ở Trung Quốc. Tập Cận Bình muốn mọi người nhìn ông như một vị thủ lĩnh can đảm, người dám đối đầu với các khó khăn, người duy nhất có khả năng thực hiện giấc mơ của một cường quốc mà bộ máy tuyên truyền quá khích của nhà nước không ngừng gieo vào đầu óc của 1,3 tỉ dân Trung Quốc.
Le Monde số ra ngày hôm nay giới thiệu bài xã luận có tiêu đề « Những yếu kém của « người cầm lái mới » của Trung Quốc. Đối với những người ủng hộ Tập Cận Bình, việc thâu tóm quyền lực một cách nhanh chóng của « người cầm lái mới » này là cần thiết để giải quyết cuộc khủng hoảng, nạn tham nhũng hoành hành và sự chia rẽ trong nội bộ Đảng sau kỷ nguyên cầm quyền của người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào. Theo họ, Tập Cận Bình thâu tóm quyền lực cũng là để khắc phục các chính sách chệch hướng của đảng Cộng Sản, chẳng hạn chính sách một con và các trại cải tạo lao động.
Sự chệch hướng của hệ thống chính trị là dấu hiệu chuyển đổi quá nhanh của Trung Quốc vào thời toàn cầu hóa và làm giàu. Nhưng sự chệch hướng này của hệ thống chính trị trước khi ông Tập lên nắm quyền đã khiến báo chí mang tính tranh luận nhiều hơn, phong trào đấu tranh của các luật sư ra đời, các tầng lớp dân cư mới có trình độ học thức khao khát tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Lẽ ra họ có thể đã dẫn dắt những cải tổ chính trị mà trước đây đã bị gạt đi trong một thời gian rất dài, đặc biệt phân biệt rõ ràng hơn các cơ quan của chính phủ và Đảng.
Nhưng tất cả những điều này đã ngay lập tức bị ông Tập gạt bỏ. Đối với Tập Cận Bình, cho phép tự do về chính trị chỉ dẫn đến sự sụp đổ của đảng và sự hỗn loạn của xã hội. Trái lại, trong mắt ông, Đảng phải là giải pháp cho mọi vấn đề. Trung thành và có kỷ luật, Đảng phải vận hành như quân đội và phải thông qua sự thẩm tra gắt gao của một thiết chế có quyền năng tối cao, đó là uỷ ban chống tham nhũng. Và ủy ban này giờ đã lấn sân sang cả lĩnh vực lý tưởng chính trị. Luôn tiếc nuối thời cộng sản ban đầu ở Diên An, nơi cha ông đã từng che giấu, bảo vệ Mao Trach Đông vào những năm 1930, Tập Cận Bình coi mình là người kế tục « triều đại đỏ » với người sáng lập mà không ai dám đụng vào.
Sự lựa chọn này đã kéo theo những suy thoái chính trị lớn. Cuộc tấn công chống « thuyết hư vô lịch sử » cấm đoán mọi tranh luận chỉ trích nhằm vào lịch sử chính thống. Việc bức hại các luật sư và những người không có cùng quan điểm đã kích động bộ máy công an vốn đã có quyền tối thượng. Việc kiểm soát mạng internet và báo chí khiến xã hội không còn không gian tranh luận tự nhiên. Những người Trung Quốc giàu có gửi con cái và tiền bạc sang phương Tây. Rất nhiều công chức và các cơ quan hành chính trì hoãn mọi chuyện vì sợ bị trả đũa.
Le Monde nhận định vì thiếu lý tưởng chính trị gắn kết chặt chẽ và có khả năng huy động cao, đà cải cách của Tập Cận Bình trở nên hão huyền và bấp bênh. Hơn nữa, nền kinh tế Trung Quốc, vốn đã suy yếu đi sau những năm bị kích thích tăng trưởng quá mạnh có thể sụp đổ vào bất cứ lúc nào. Và những tham vọng của Tập Cận Bình trên trường quốc tế khiến Trung Quốc ngày càng phải chống chọi với các nước láng giềng và đặc biệt là Hoa Kỳ.
Putin và sự nổi loạn mạnh mẽ
Ngày 27/10 vừa qua đã diễn ra câu lạc bộ chính trị Valdai trong bối cảnh đại sứ Nga tại Liên Hiệp Quốc, ông Vitali Tchourkine, đánh giá căng thẳng trong quan hệ Nga – Mỹ đã lên đỉnh điểm kể từ sau năm 1973. Người ta đã mong chờ thái độ nảy lửa của tổng thống Nga Vladimir Putin. Tại kỳ họp thường niên lần thứ 13 tại Câu lạc bộ chính trị Valdai, tổng thống Nga Putin đã rất kìm chế, tới mức tỏ ra chán ngấy « trò chơi hỏi đáp » kéo dài 3 tiếng sau khi đọc bài phát biểu. Trong bài viết có tiêu đề « Putin và sự nổi loạn mạnh mẽ », le Monde đặt câu hỏi liệu có phải do mối quan hệ đã xấu đi như vậy nên ông Putin không muốn thổi bùng thêm ngọn lửa căng thẳng ?
Ông Putin đã nhấn mạnh là lãnh đạo của của một nước lớn thì phải tỏ ra có chừng mực và tránh thể hiện là quá hiếu chiến, ngay cả khi đó không phải là phong cách của ông. Thế nhưng, khi có người hỏi « Tại sao ông đến đây ? », ông Putin đã trả lời : « Tôi đến để nghe các ông, và để thể hiện quan điểm của chúng tôi ». Tổng thống Nga thậm chí đã than phiền là Nga không có « bộ máy tuyên truyền » ngang tầm với « CNN hoặc BBC ».
Theo một nhà nghiên cứu người Mỹ về chiến tranh lạnh, năm nay ông Putin đã phải rất kìm chế cơn giận. Quan điểm của Matxcơva là sau chiến tranh lạnh, phương Tây đã thay đổi trật tự thế giới, khi đơn phương tuyên bố thắng Liên Xô. Theo ông Putin, một số nước đã thay đổi trật tự chính trị và kinh tế thế giới để phục vụ lợi ích của họ. Theo Matxcơva, Nga không muốn trở thành « thủ lĩnh » mà chỉ cần « sự cân bằng » trong quan hệ với phương Tây.
Điểm mới là Matxcơva đã tìm ra điểm yếu của phe chiến thắng trong chiến tranh lạnh : nền dân chủ dân túy sinh ra từ « sự nổi loạn đồng loạt » của phương Tây. Bên cạnh đó là những thất bại liên tiếp của Mỹ ở Trung Đông và sự leo thang của Trung Quốc. Nền dân chủ dân túy này đã đặt dấu chấm hết cho thế giới đơn cực. Đối với Nga, đây lại là một dấu hiệu nữa cho thấy sự suy yếu của phương Tây, trong đó châu Âu không còn khả năng tự chủ.
Đối với Putin, « sự nổi loạn đồng loạt » này nảy sinh ngay từ bên trong hệ thống chính trị của phương Tây : công dân của các nước phương Tây đã mất lòng tin vào giới lãnh đạo. Và đó chính là vấn đề mấu chốt. Trong khi đó tỉ lệ người dân tín nhiệm ông ở Nga là hơn 80%.

Trang nhất các báo Pháp
« Sự mất uy tín của François Hollande gieo rắc lo ngại cho phe của ông » là tựa trang nhất của Le Monde. Tờ nhật báo cho biết những lời tự sự của tổng thống Pháp trong cuốn sách tạm dịch là « Một tổng thống không nên nói điều đó …» gây bất ổn cho phe xã hội. Nhiều người của đảng cánh tả đánh giá điều này làm mất tư cách của tổng thống và khiến khát khao của ông về một nhiệm kỳ tổng thống thứ hai sẽ không thể thành hiện thực. Vì không thể tìm ra ứng viên khác thay thế có đủ sức thuyết phục cử tri, "điện Elysée" vẫn phải cố nghĩ là ông Hollande sẽ là ứng viên tốt nhất cho cánh tả trong cuộc bầu cử tổng thống Pháp vào năm 2017.
Vẫn liên quan đến thời sự nước Pháp, nhật báo Le Figaro tiết lộ rạn nứt trong mối quan hệ giữa tổng thống Pháp François Hollande và thủ tướng Manuel Valls qua hàng tít « Cặp đôi Hollande – Valls bên bờ đổ vỡ ». Mâu thuẫn giữa hai nhà lãnh đạo liên quan tới cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2017 và đã được công khai : cả hai nhà lãnh đạo đều muốn sẽ đại diện cho đảng Xã Hội ra tranh cử. Le Figaro nhận định lần đầu tiên trong lịch sử chính trị nước Pháp, người đứng đầu chính phủ thú nhận « nỗi xấu hổ » và « sự tức giận » đối với tổng thống, người đã bổ nhiệm mình vào vị trí thủ tướng. Le Figaro cũng cho biết chính cuốn sách tự sự« Một tổng thống không nên nói điều đó …» đã đẩy rạn nứt giữa tổng thống và những người trong phe của ông, thậm chí là những người thân cận với ông lên mức đỉnh điểm. Thủ tướng Manuel Valls luôn muốn thay thế ông Hollande ra tranh cử trong trường hợp ông Hollande không thể đại diện cho đảng Xã Hội. Và thủ tướng Valls luôn tìm cách thể hiện là khác biệt so với tổng thống Hollande.
Trong khi đó, nhật báo Libération hướng sự quan tâm tới lĩnh vực du lịch và chạy tựa trang nhất : « Du lịch, tình trạng khẩn cấp », cho biết sau nhiều năm phát triển, du lịch đã phải chịu nhiều tác động xấu từ khủng bố.
Quan tâm tới thời sự quốc tế, nhật báo kinh tế Les Echos nhận định CETA là «hiệp định lịch sử giữa châu Âu và Canada ». Được ký kết tối hôm qua 30/10 sau 7 năm đàm phán, hiệp định tự do mậu dịch CETA sẽ cho phép giảm 99% hàng rào thuế quan giữa hai bên.

Nếu Đảng tự nhốt quyền lực trong “lồng pháp luật”



Tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, đe dọa sự phát triển kinh tế và sự tồn vong của chế độ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói với cử tri Hà Nội hôm 7/10/2016 là cần có cơ chế kiểm soát quyền lực và phải nhốt quyền lực trong “lồng luật pháp”.


Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, ảnh minh họa chụp hôm 5/10/2016 tại Hà Nội.
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, ảnh minh họa chụp hôm 5/10/2016 tại Hà Nội. AFP

 Cần chống tham nhũng từ gốc

Trả lời phỏng vấn của Nam Nguyên thực hiện qua điện thoại vào tối 28/10/2016, TS Nguyễn Thanh Giang một nhà hoạt động ở Hà Nội mô tả điều ông gọi là “hai buồng trứng cơ bản” đẻ ra tham nhũng, thứ nhất đất đai là tài sản toàn dân, thứ hai kinh tế quốc doanh làm chủ đạo… Vẫn theo TS Nguyễn Thanh Giang, ở Việt Nam tài nguyên, đất đai về hình thức là của toàn dân, nhưng các thế lực, những người có quyền có chức đã lạm dụng quyền sử dụng…  tình trạng này sản sinh ra lợi ích nhóm và chiếm đoạt đất đai của nhân dân để làm giàu. Hiện nay giai cấp tư bản Đỏ kếch xù hơn tư bản ngày xưa đã từng bị Đảng Cộng sản Việt Nam tiêu diệt. TS Nguyễn Thanh Giang nhấn mạnh:

    Tôi cho là chống tham nhũng bằng cách chống những người tham nhũng thì không đời nào chống được, mà phải chống cái nguyên nhân sản sinh ra những người tham nhũng.
    -TS Nguyễn Thanh Giang

“Tôi cho là chống tham nhũng bằng cách chống những người tham nhũng thì không đời nào chống được, mà phải chống cái nguyên nhân sản sinh ra những người tham nhũng.”

Ở các nước dân chủ áp dụng chế độ tam quyền phân lập, Hành pháp – Lập pháp – Tư pháp có vị thế độc lập và giám sát lẫn nhau cho nên quyền lực được giám sát có hiệu quả. Trong khi đó ở Việt Nam, trước trào lưu mong muốn cải cách chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngay từ năm 2012 đã tái khẳng định Việt Nam không theo thể chế tam quyền phân lập.

Điều 4 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tuy rằng, có thêm một ít dòng được cho là mới mẻ, đó là “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.” Ông Nguyễn Phú Trọng cũng như các giới chức cao cấp của Đảng và Nhà nước luôn có chung một cách lập luận, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Nhốt quyền lực sẽ trói tay Đảng

Được biết, ngày 7/10 khi tiếp xúc cử tri Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói phải có cơ chế kiểm soát quyền lực và nhốt quyền lực vào lồng pháp luật. TS Nguyễn Thanh Giang từ Hà Nội nhận định:

“ Mãi cho tới gần đây ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới nói được một câu tương đối hay như vậy. Nhưng nếu nhốt quyền lực vào cái lồng luật pháp thì Đảng bị trói tay, không còn Đảng.  Ông ấy nói điều ấy phi thực tế, ở Việt Nam chính ông Nguyễn Phú Trọng luôn kêu gọi tất cả mọi thứ đều phải dồn cho Đảng, quân đội, công an tất cả phục vụ Đảng và chính ông ấy nói Hiến pháp chỉ là thể chế hóa Cương lĩnh Đảng, tức là ông ấy đặt Đảng trên cả dân tộc, trên cả pháp luật thì đời nào mà ông ấy chống được tham nhũng.”

Trong cùng một ý nghĩa về việc tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 20 năm đề ra rất nhiều Nghị quyết để phòng chống tham nhũng, mà không đạt hiệu quả. Ông Nguyễn Trung Dân, cựu Phó Tổng Biên tập phụ trách báo Du Lịch, người từng bị cách chức năm 2009 sau khi duyệt đăng bài viết “Tản mạn đảo xa”, đề cao tinh thần yêu nước trước mối đe dọa từ phương Bắc, từ Saigon nhận định:

“Bao giờ mà pháp luật không được thượng tôn, luật pháp làm ra không bình đẳng vẫn có sự phân biệt giữa người này người khác, phân biệt nhân thân giữa người này người kia… tóm lại một câu, khi nào Đảng vẫn đứng trên pháp luật, Đảng chỉ huy pháp luật thì chắc chắn không thể có được sự gọi là minh bạch và rõ ràng để mà xử lý tham nhũng hết.”

Trên một phương diện khác, chế độ độc đảng ở Việt Nam được cho là một chính quyền mạnh và ổn định. Đây là những điều kiện tối cần thiết để giúp một quốc gia thành đạt về mặt kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu chính trị đã ghi nhận sự kiện Đài Loan, Nam Hàn từng có nhiều thập niên gần như độc đảng, chế độ chính trị khắc nghiệt nhưng các nước đó đã phát triển kinh tế vững mạnh và bước tiếp theo mới thực hiện cải cách chính trị dân chủ.

    Nếu nhốt quyền lực vào cái lồng luật pháp thì Đảng bị trói tay, không còn Đảng.
    -TS Nguyễn Thanh Giang

TS Nguyễn Thanh Giang nhận định về việc tại sao Việt Nam tiếng gọi là chính quyền mạnh và ổn định, nhưng lại ách tắc kinh tế tụt hậu so với láng giềng trong khu vực. Ông nói:

“ Sự ổn định ở Việt Nam là một thứ ổn định khiên cưỡng, ổn định áp chế bằng độc quyền, độc tài, độc đoán, áp chế bằng súng đạn và nhà tù, áp chế bằng sự đàn áp dã man dưới mọi hình thức của công an và chính quyền. Sự ổn định đó giống như nồi áp suất đang bị bít rất chặt bởi luật pháp chỉ phục vụ Đảng Cộng sản Việt Nam. Cho nên sự ổn định đến một lúc nào đó sẽ nổ bung ra. Thực tế đó được nhìn thấy như ở các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả bậc thầy xã hội chủ nghĩa của Cộng sản Việt Nam là Cộng sản Liên Xô trước đây.”

Cuộc chiến đấu phòng chống tham nhũng không ngừng nghỉ ở Việt Nam được xem như  thất bại. Lên tiếng trong Hội nghị lấy ý kiến đánh giá 10 năm chống tham nhũng ở Việt Nam tổ chức hôm 27/10 ở Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình nhìn nhận tình trạng tham nhũng trên cả nước là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước và trên hết là đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Theo TS Nguyễn Thanh Giang tham nhũng quyền lực là tình trạng phổ biến ở Việt Nam. Tham nhũng quyền lực lại có vai trò nguy hiểm nhất từ đó biến hóa muôn hình vạn trạng các loại tham nhũng khác. Nếu lời hứa hẹn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “nhốt quyền lực trong lồng pháp luật” không phải là một lời nói suông, hay theo cách mô tả của TS Nguyễn Thanh Giang là nói cho sướng miệng, thì đây có thể là một sự may mắn cho tiến trình cải cách ở Việt Nam.



Nam Nguyên

(RFA )