Thứ Tư, 4 tháng 9, 2019

SỰ THẬT VỀ SỰ “VIỆN TRỢ” ÁC ĐỘC CỦA TRUNG QUỐC DÀNH CHO VIỆT NAM ( Phần 2)

Phạm Viết Đào.

 Bài liên quan:


Vai trò của Trung Quốc với cuộc chiến tranh Việt-Mỹ
           Hiện nay, rất nhiều các tài liệu đã công bố đề cập tới sự tác động và can thiệp của Trung Quốc sâu vào cuộc chiến tranh Việt-Mỹ. Khi Mỹ mở rộng chiến tranh, dùng không quân đánh phá ra miền bắc, cả triệu dân Bắc Kinh xuống đường, hô vang khẩu hiệu: “800 trăm triệu dân Trung Quốc là hậu phương vững mạnh của nhân dân Việt Nam”; Song song với khẩu hiệu này, Trung Quốc lại đưa thêm một khẩu hiệu khác: “Mi không đụng đến ta thì ta không động đến mi”
Mặc dù, Mỹ chưa làm gì đụng tới Trung Quốc, thế nhưng, do được thỏa thuận với miền bắc Việt Nam, Trung Quốc đã đưa vào miền bắc Việt Nam có giai đoạn 32 vạn quân. Trong tác phẩm “Trung Quốc lâm chiến”- Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam:

Mặc dù đang mạnh dần, Trung Quốc vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng của Mỹ tại Đông Nam Á. Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Cộng bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Cộng điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Cộng giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Nội dung này cũng phù hợp với con số do hãng tin Reuter loan đi ngày 16 tháng Năm, 1989 dựa theo tin của China News Service “Hãng tin bán chính thức của Trung Quốc trong một thông báo được theo dõi tại Hong Kong cho biết Trung Cộng đã gởi 320 ngàn quân sang Việt Nam trong thập niên 1960”.

Cuộc chiến Việt-Mỹ là một cuộc chiến mà cho đến bây giờ, giới bình luận thế sự, giới sử học của hai phía nhất là phía Mỹ có nhiều ý kiến trái chiều nhau. Một số ý kiến cho rằng: Đó là một sai lầm lịch sử của phía Mỹ, cuộc chiến đã mang tai họa cho cả hai dân tốc Việt-Mỹ. Mới đây, Tổng thống Mỹ Trump cũng đã công khai lên tiếng cho rằng: Mỹ đáng ra không nên nhảy vào cuộc chiến này; gây cản trở tiến trình thống nhất, hòa hợp giữa hai miền Nam- Bắc Việt Nam.
Chính giới Mỹ và Việt Nam không ít người sau mấy chục năm đã nhìn nhận lại: Hai miền bắc-nam Việt Nam hoàn toàn có khả năng thống nhất được với nhau, hòa hợp được với mà không nhất thiết phải qua  một cuộc chiến tranh máu lửa, tổn thất nhiều nhân mạng của hai dân tộc Việt-Mỹ...
Sở dĩ nổ ra cuộc chiến tranh đẫm máu đáng tiếc này, được thể hiện qua số thương vong của cả 3 phía và số lượng bom đạn ném xuống chiến trường Việt Nam lớn hơn thế chiến thứ 2; Tai họa này có thể tránh được, nếu không có sự can dự, sự “viện trợ-lập trình” ác độc từ Trung Hoa cộng sản. Đây là một vấn đề cần được lịch sử bình tâm xem xét lại.
Theo WikiPedia: “Cho tới nay, Chiến tranh Việt Nam vẫn giữ kỷ lục là cuộc chiến có số lượng bom được ném nhiều nhất trong lịch sử thế giới. Tổng số bom mà máy bay Mỹ ném xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn,[32] gấp gần 3 lần tổng số bom mà tất cả các nước đã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và tương đương sức công phá của 250 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima. Tính bình quân mỗi người Việt Nam thời đó phải chịu đựng khoảng 250 kg bom ném xuống từ máy bay Mỹ.[33][34]. Đó là chưa kể tới 7,5 triệu tấn đạn dược được Mỹ sử dụng trên mặt đất (gồm lựu đạn, mìn, thuốc nổ, đạn súng pháo các loại)[35] và 45.260 tấn (khoảng 75 triệu lít) chất độc hóa họcđược Mỹ rải xuống[36][37]n
( Chiến tranh Việt Nam-WikiPedia)
          Rất nhiều giới nghiên cứu cho rằng: Một trong những nguyên nhân sâu xa đẩy tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là do: Trung Quốc âm mưu, chủ động “lập trình, nuôi cấy” cuộc chiến tranh từ trong và sau hội nghị Giơ-ne-vơ… Điều này có thể đọc thấy trong các phát biểu của Lê Duẩn, thời điểm 1954 đang phụ trách chiến trường Nam Bộ; Phạm Văn Đồng, Trưởng đoàn của Việt Nam tại hội nghị này báo chí chính thống đã đăng.
Việc phân vùng giới tuyến bắc-nam Việt Nam trong Hiệp định Giơ-ne-vơ, người chủ động áp đặt giới tuyến chia cắt thành 2 miền tại vĩ tuyến 17 là Chu Ân Lai, Trưởng đoàn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc thời điểm đó.
Sự áp đặt giới tuyến nam-bắc tại vĩ tuyến 17 đã được Trung Quốc tính toán, cân nhắc kỹ cả về phương diện địa chính trị lẫn quân sự. Có ý kiến cho rằng Chu Ân Lai áp đặt giới tuyến hai miền nam-bắc Việt Nam tại vĩ tuyến 17 là để tạo “cơ sở pháp lý-địa chính trị” cho cuộc xâm lược Hoàng Sa năm 1974. Bởi nếu giới tuyền nam-bắc Việt Nam ở 13 hoặc 15 thì Trung Quốc khó lòng đưa quân xâm lược Hoàng Sa trắng trợn vào năm 1974, bởi quan hệ 2 nước Việt Nam-Trung Quốc đang được tiếng: Vừa là đồng chí vừa là anh em.
“Bàn tay” của Trung Quốc cộng sai lầm của chính giới Mỹ làm bùng nổ chiến tranh
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam ký tháng 7-1954, sau hai năm, hai miền nam-bắc sẻ tổ chức tuyển cử tự do để thống nhất bầu chọn ra một chính quyền thống nhất.
Trong một bài viết cho BBC dịp 30/4/2015, sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt-Mỹ với tiêu đề “Hậu quả của sự cuồng tín và sự cuồng chiến, Phạm Viết Đào đã đưa ra các kiến giải đáng chú ý sau đây:
“Rất nhiều người của cả 3 phía (Mỹ, Việt Nam Cộng hoà và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), sau 40 năm bắt đầu ngộ ra rằng trong cuộc chiến vừa qua, chính mình bị áp, bị lôi, bị ném vào cuộc chiến bởi những chính kiến chính trị cuồng tín của kẻ khác.
Sự cuồng tín chính trị được thể hiện qua việc quá tin vào những điều vu vơ, không có thật hoặc tin vào những sự thật bị phóng đại, kích động bởi những động cơ chính trị vụ lợi, đen tối.
Từ sự cuồng tín về chính trị đã xô đẩy hàng triệu người vào những hành vi bất chấp mạng sống của mình, của đồng loại, của đồng bào mình, thậm chí người thân của mình.
Trong cuộc chiến Việt-Mỹ vừa qua, có rất nhiều gia đình Việt Nam anh em họ hàng ruột thịt trong một gia đình đã bị đẩy vào các chiến tuyến đối địch nhau, thậm chí bắn, giết trực diện nhau chỉ vì những chính kiến chính trị chẳng liên quan gì tới mình...”
“Trước hết, về phía chính giới Mỹ, sự cuồng tín thứ nhất bắt nguồn từ tín điều cho rằng: làn sóng cộng sản từ miền bắc Việt Nam đang lan tràn xuống miền nam, sẽ tràn sang khu vực Đông Nam Á, như đã tràn vào Đông Âu.
Nếu Mỹ không trực tiếp ra tay ngăn chặn được, theo tín điều này, thì an ninh của chính nước Mỹ sẽ bị đe doạ và sẽ có một cuộc “cách mạng đỏ” lan sang tận Mỹ và Tây Âu; thách thức cơ nghiệp của giới tài phiệt Mỹ...
Đây là một ý tưởng chính trị cuồng tín mà vì nó mà căn cứ vào dó, chính giới Mỹ đã phát động một cuộc chiến tổng lực; nước Mỹ đã huy động toàn bộ sức người, sức của cao nhất; có thời điểm Chính phủ Mỹ đưa vào Việt Nam cả triệu quân để nhằm mục đích ngăn chặn, đẩy lùi cộng sản tại Việt Nam.
Chính kiến chính trị cuồng tín này là nguyên nhân dẫn tới nhiều hành vi cuồng chiến của quân đội Mỹ: ném bom rải thảm B52 vào một số thành phố đông dân ở miền bắc, ném bom rải thảm chất độc da cam vào rừng, ở mức độ được cho là lạm dụng khi nhiều khu vực dân sự và đối tượng tấn công không liên quan tới các lực lượng cộng sản.
Tóm lại, cuộc chiến Việt-Mỹ cách đây 40 năm là cuộc chiến giữa một bên thì đem bom đạn, chất độc ra huỷ diệt bất cứ chỗ nào vì nỗi sợ ý hệ về làn sóng đỏ; một bên thì tuyên bố “sẵn sàng đốt cháy cả Trường Sơn” nếu không đuổi được Mỹ ra vì sự nhầm lẫn bị xâm lược vĩnh viễn như một nghìn năm Bắc thuộc, hai một trăm năm thực dân bóc lột của người Pháp v.v...
Cả hai bên rút cuộc đã ném vào ván bài tất cả: một bên thẳng tay chống, một bên thì đem tất cả xương máu ra để bảo vệ… những giá trị ảo?!”
Tới thế kỷ XXI, lịch sử đã cho thấy: sự cuồng tín đó là phi thực tiễn!


Trung Quốc “giải tỏa mặt bằng” bắc Việt Nam để bị “ươm trồng” chiến tranh…

Sau Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ hai 1951, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Trung Quốc đã nhúng tay can thiệp sâu vào nội tình Việt Nam. Sự can thiệp không chỉ trong lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị và tới nhiều quyết sách lớn nhỏ.
Để cho sự can thiệp có hiệu lực, thứ nhất: Trung Quốc sử dụng con bài viện trợ kinh tế; “Phóng tiền tài thu nhân tâm”; Từ “ viện trợ” kinh tế, bước tiếp sau là thọc sâu vào công tác cán bộ Việt Nam…
Ngay trong đợt “chỉnh phong” năm 1953, nhiều cán bộ nhất là cán bộ quân đội có tài năng đã bị loại ra khỏi bộ máy của Đảng do dính thành phần giai cấp. Xin lấy 2 ví dụ: đại tá Lê Trọng Nghĩa Trung tá Đặng Văn Việt, “con hùm xám” vùng Đông Bắc là hai trong số những sĩ quan trẻ có tài, có triển vọng. Song do sự tham mưu của cố vấn Trung Quốc nên họ bị loại ra khỏi các cương vị, trọng trách được giao.
Võ Nguyên Giáp chỉ bảo vệ được Lê Trọng Nghĩa, sử dụng ông làm Cục trưởng Cục phản gián trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hòa bình Đại tá Lê Trọng Nghĩa bị vu cho bán bí mật cho Liên Xô xét lại, bị giam cứu 6 năm.
Trung tá Đặng Văn Việt, người mà ông Hồ Chí Minh chứng kiến tài cầm quân trong trận đáng đồn Đông Khê; ông Hồ Chí Minh trực tiếp ra đốc chiến “Chiến dịch Biên Giới”, sự việc này được ghi trong một bức ảnh của Vũ Năng An và bài thơ Đăng Sơn của ông Hồ Chí Minh: ”Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu’.
Từ sau trận Đông Khê, sau 1951, Đặng Văn Việt, một “Hàn Tín” của Việt Nam phải ngồi chơi xơi nước, vào cái thời điểm Việt Nam đang rất cấn những sĩ quan trẻ có tài thao lược…
Dùng chiêu bài “chỉnh Đảng, chỉnh phong”, thanh lọc giai cấp do Trung Quốc “viện trợ”, Trung Quốc đã tìm cách phân hóa đội ngũ cán bộ trẻ Việt Nam; Trung Quốc tìm cách đưa, nâng đỡ những người có tư tưởng thân Trung Quốc, sùng bái Trung Quốc như Nguyễn Chí Thanh; Nếu ai không có khả năng lôi kéo được do tài năng, do phẩm chất trung kiên thì Trung Quốc tìm mọi cách để gạt bỏ thông qua chiêu bài “chỉnh đảng, chỉnh phong”.
Sau khi miền bắc bước qua giai đoạn hòa bình, Trung Quốc đã áp đặt Việt Nam: phải phát động cải cách ruộng đất, một chính sách tàn ác thất nhân tâm, phá nát cơ sở hạ tầng xã hội tại nông thôn.
Cùng với chủ trương, chính sách đấu địa chủ ở nông thôn; tại các thành phố lớn, do sự tham mưu của cố vấn Trung Quốc: Việt Nam đã thi hành cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại địa bàn vừa ra khỏi sự chiếm đóng của Pháp. Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, lấy cớ thanh lọc giai cấp, tạo điều kiện cho giai cấp vô sản nắm vũ đài lịch sử; thực chất dùng chính sách này để trưng thu, sung công nhà máy, túi tiền của họ…Mà trong số những người thuộc tầng lợp vô sản này, có rất nhiều người từng bỏ ra hàng ngàn lượng vàng cho Chính phủ Hồ Chí Minh mua súng đánh Pháp…
Công cuộc cải tạo này thật sự là một đòn trí mạng đánh vào sống lưng tầng lớp, giai cấp tư sản, bản chất chỉ là những ông chủ nhỏ, vừa mới nho nhe nhú ra sau chiến tranh, đang hăng say lao vào kiến quốc. Ở Hà Nội, ông chủ có tiếng tăm như Nhà máy da dày Thụy Khuê có trong nhà  máy có 300 công nhân; phần lớn số lượng chỉ ở mức vài chục tới vài trăm.
Tất cả giới chủ vừa mới hình thành, lập tức được gom nhốt vào trong cái tổ hợp “công tư hợp doanh”, tài sản, công nhân, vốn liếng do mồ hôi bao đời nay cha ông họ và bản thân họ gom góp được bổng chốc phải sung công. Các nhà tư sản thực chất là các tiểu chủ đã phải cắn răng chịu cướp mất tài sản, phương tiện làm ăn, bị hủy hoại kinh nghiệp quản lý. Nhiều nhà tư sản đã cho phá máy, bán tống bán tháo, có người cõn dỡ máy ra để bán sắt vụn vì không chịu nổi sự áp bức của cái chủ trương “công tư hợp doanh” bất lương, phi đạo lý này…
Còn tại nông thông, những địa chủ, thực chất là những nông dân cày sâu cuốc bẫm, chăm chỉ và có kinh nghiệm với đồng áng, gom góp được một lượng ruộng đất từ 5 mẫu ruộng đất trở lên, nếu bình quân đầu trong gia đình chia ra vượt 8 sao/người đều bị quy là địa chủ, bị tịch thu nhà cửa, phương tiện và ruộng đất, bị đẩy ra bên lề xã hội nông thôn.
Còn tầng lớp văn nghệ sĩ, trí thức tại thành phố thì bị giáng những đòn trí mạng trong sự kiện “nhân văn giai phẩm”; Sự kiện “nhân văn giai phẩm” thực chất là do một số văn nghệ sĩ từng tham gia kháng chiến, từng nếm mật nằm gai, lấy tiếng hát, tài làm thơ ra để động viên quân đội lao vào chiến đấu đánh đuổi quân Pháp. Trong chiến tranh giữa văn nghệ sĩ và những nhà lãnh đạo họ thì người ở lán trên, lán dưới, nhà phên vách đất như nhau; Cùng nhau “ chia củ sắn lùi; bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”…
Hòa bình rồi, khi về thành phố người thì ở nhà lầu xe hơi:”Con đi đánh giặc mười năm; Vonga con cưỡi, gà hầm con xơi”; “Tông Đản là chợ vua quan; Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng”; Trong khi đó thì phần đông cán bộ, công chức, văn nghệ sĩ được chia cho mấy mét vuông nhà mỗi gia đình, hàng tháng phải sống chế độ tem phiếu, hơn chục km gạo, 5 met vải, mấy lạng đường, mấy lạng thịt…Từ thực tế này mà làm nảy sinh tư tưởng, thế là tuôn ra thơ ca hò vè… Để bịt miệng cái đám lắm lời này, thế là dựng lên vụ “ nhân văn giai phẩm” để chụp cho họ cái mũ “phản động”, chống phá đảng và nhà nước…Và thế là họ bị đánh, bị bỏ tù, bị bỏ đói…
Nếu sau chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ đổ tiền cho châu Âu, Nhật, Hàn Quốc để giúp họ tìm đường làm ăn thì ngược lại tại Việt Nam, Trung Quốc đã viện trợ, cầm tay chỉ việc đế  giải tỏa mặt bằng” sâu rộng toàn miền bắc để chuẩn bị nhân lực cho một cuộc chiến tranh.
Với sự viện trợ và cố vấn của Trung Quốc, họ đã kiến tạo, thổi miền bắc lên thành “tiền đồn” và “thành trì” của phe XHCN ở Đông Nam Á: “Nếu được làm hạt giống để mùa sau: Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa: Trong đêm tối tim ta là ngọn lửa; Vui gì hơn làm người lính đi đâu…”:
Giai đoạn 1954-1964, Trung Quốc đã tìm mọi cách phá nát các nền tảng hạ tầng kinh tế xã hội, biến bằng được miền bắc thành “một trại lính” khổng lồ, trại lính đó có sứ mạng chuẩn bị đúc rèn lên những người lính, nhân sự tiếp quản một cuộc chiến tranh một mất một còn với “đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước”. Những người bị coi là “tay sai bán nước” ấy, thực ra họ là anh em ruột thịt của mình, có cùng huyết thống, có người có huyết thống gần gũi trong 2-3 đời; Thậm chí quan hệ: cha-con; anh em ruột thịt, quan hệ vợ- chồng? Có nhiều tác phẩm văn học nói về sự éo le: vợ là lính phía giải phóng; vợ con lại tham gia quân đội, chính quyền Sài Gòn…

Hậu quả của sự cài đặt, viện trợ của Trung Quốc

Việc cài đặt, đẩy hai miền nam bắc Việt Nam vào lò lửa chiến tranh, buộc quân đội Mỹ nhảy vào tham chiến và tạo cơ hội cho Trung Quốc “giây máu ăn phần” là điều chúng tôi muốn bàn trong phần này.
Do sự tác động của các chủ trương, chính sách du nhập từ Trung Quốc, các chính sách đã khiến cho các cột trụ về chính trị-kinh tế-văn hóa xã hội miền bắc bị giáng những đòn nặng nề, làm cho xã hội miền bắc trở nên lệ thuộc vào Trung Quốc…
Âm mưu thâm độc của Trung Quốc: “xuất khẩu, viện trợ” các thiết chế maoist đó nhằm đạt mục đích biến xã hội miền bắc thành một trại lính; và trại lính đó đã trui rèn những người lính miền bắc bị yểm bùa, bị cương tỏa, dẫn dắt bởi chiến thuật “đốt thuyền, đánh chìm thuyền” sau khi đưa “8000 nghìn tráng sĩ vượt sông Trường Giang” của Hạng Vũ trong Hán Sở tranh hùng.
Người lính miền bắc khi bị đưa vào chiến trường miền nam, họ buộc phải chiến đấu đến cùng, bởi vì sau lưng họ không có chỗ lùi: đất đai vườn tược đã là của HTX; thành phố thì cũng không còn cơ sở tư doanh cả từ hiệu cắt tóc, tiệm bán phở. Người lính nếu đảo ngũ, bỏ chiến trường có quay về thì cũng không còn đất sống…Điều này khác với những người lính của quân đội Việt Nam cộng hòa hay thanh niên Mỹ, có thể trốn lính bằng cách chạy sang Canada như Bill Clinton. Chúng ta có thệ nhận biết phẩm chất của người lính miền bắc Việt Nam qua một bài thơ của Hữu Thỉnh:

Năm anh em mỗi đứa một quê
Đã lên xe ấy là cùng một hướng
Nổ máy lên ta một dạ xung phong
Trước quân thù là chỉ biết có tiến công.

Năm anh em ta mang năm cái tên
Ấy khi lên xe không còn tên riêng nữa
Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa
Năm quả tim chung nhịp đập rộn ràng

Xin đưa một thông tin đáng chú ý trên báo Nhân Dân phát hành tại Hà Nội, số 2021 ra ngày 28 tháng Chín 1959 nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Bài báo được dịch sang tiếng Anh và lưu trữ trong Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Libray of Congress):
Trong năm năm qua, Trung Quốc đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ nhiệt tình. Chỉ riêng tiền bạc, trong đó Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, đã lên đến 900 triệu Yuan, đây là số lượng bằng thu nhập nội địa của ngân sách Việt Nam trong ba năm 1955, 1956, 1957 cộng lại… Trong công nghiệp, Trung Quốc đã giúp chúng ta trong lãnh vực khai thác hầm mỏ, sản xuất điện khí, cải thiện sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất phân bón và hóa chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp sắt thép… Mặc dù trong mười năm xây dựng, Trung Quốc đạt được nhiều thành quả vật chất, vẫn còn là một nước nghèo. Dù sao, Trung Quốc đã hết lòng viện trợ chúng ta. Do đó, chúng ta càng biết ơn sự trợ giúp đó”.
Trong khi Trung Quốc dồn tiền của “viện trợ” cho Việt Nam thì tại Trung Quốc, tại nhiều vùng nông thôn đang phải trải qua nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người. Nạn đói bắt nguồn từ chủ trương do Mao Trạch Đông gây ra trong thời kỳ “ Đại nhảy vọt” và “Công xã nhân dân” từ năm 1958 đến năm 1962.
Chưa có con số chính xác số người chết đói tại Trung Quốc, thế nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đã đồng ý con số lên đến vài chục triệu người. Tác giả Peng Xizhe dự đoán thấp nhất với 23 triệu người và Frank Dikötter, giáo sư môn Lịch sử Trung Quốc Hiện đại, dự đoán ít nhất có 45 triệu người chết, trong đó khoảng 2 đến 3 triệu chết vì tra tấn. Phần lớn các nhà nghiên cứu còn lại cho rằng khoảng 30 triệu người đã chết đói. Viết trên New York Times, giáo sư Frank Dikötter trích dẫn lá thư viết tay của viên Giám đốc Sở Anh Ninh Công Cộng tỉnh Tứ Xuyên báo cáo lên cấp trên tỉnh của y có 10.6 triệu người chết đói. Ở Cam Túc có 50 trường hợp ăn thịt người. Nhà báo Daniel Southerland viết trên Washington Post, tại công xã Fengyang có 63 trường hợp người ăn người và tại công xã Damiao hai vợ chồng Chen Zhangying và Zhao Xizhen luộc chín đứa con 8 tuổi của mình để ăn. Riêng tại công xã Wudian có cả trường hợp bán thịt của chính mình như bán thịt heo. Nói chung, những năm cuối thập niên 1950 cho đến đầu 1960 là những năm dân số Trung Cộng giảm thấp nhất nhưng không phải vì hạn chế sinh đẻ nhưng chết quá nhiều.
Miền bắc Việt Nam giai đoạn đó dân số quãng 17 triệu người…Vậy thì Mao Trạch Đông cam tâm để cho vài chục triệu người dân Trung Quốc chết đói, dành tiền của đó để “viện trợ” cho Việt Nam, không thể coi số tiền của đó sự giúp đỡ vô tư, trong sáng được không? Không thể coi đó là sự giúp đỡ trên tinh thần “ quốc tế vô sản không”?
Thực chất, sự viện trợ của Trung Quốc nhằm thực hiện một dã tâm chính trị thâm hiểm: dùng tiền của viện trợ để cột chặt số phận của 17 triệu người dân Bắc Việt Nam vào Trung Quốc, sau khi đã bằng các chính sách kinh tế-xã hội-quân sự làm cho què cụt, thương tích, tan hoang các “đầu tàu” kinh tê-xã hội miền bắc? Sự dồn tiền của này của nhân dân Trung Quốc để nuôi cấy cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?!
Âm mưu thâm hiểm của Trung Quốc: rắp tâm biến miền bắc Việt Nam thành trại lính, biến hang vạn thành niên miền bắc Việt Nam làm người lính xung kích để tấn công đế quốc Mỹ để giữ yên ổn cho hậu phương 800 triệu dân Trung Quốc, yên ổn, thoát hiểm sau những chính sách quan liêu rồ dại, độc tài như đại nhảy vọt, ba nhất, toàn dân làm gang thép, công xã nhân dân của Mao Trạch Đông…
Đất nước Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Trung Quốc, sau mười năm đã chồng chồng chất những hiểm họa, tai ương, những mâu thuẫn giữa người dân với chính quyền, mâu thuẫn giữa các phe phái trong Đảng; mâu thuẫn giữa ý chí độc tài của Mao và các lãnh đạo cao cấp khác do các chủ trương chính sách sai lầm, duy ý chí trong phát triển kinh tế-xã hội của Mao…
Do vậy, nếu không tìm cách đẩy xung đột chiến tranh ra ngoài biên cương, xa biên cương Trung Quốc, rất có thể cái “thùng thuốc nổ” Trung Hoa sẽ bị dây, bén lửa, Trung Quốc sẽ đại loạn, dẫn tới tiêu vong Đảng CS Trung Quốc vừa danh được chính quyền…
Chúng ta lật giở lại một số bài thơ của Tố Hữu làm vào năm 1960-1961 để thấy nguỗn cảm xúc của các bài thơ đó mang hơi hướng của “nhân dân tệ” tới mức nào:
Anh chị em ơi
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Hôm nay ôn lại chặng đường dài
Ngọt búi nhớ lúc đắng cay
Ra sông, nhớ suối có ngày nhớ đêm

Mùa xuân đó con chim én mới
Rộn đồng chiêm chấp chới trời xanh
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa…

( Ba mươi năm đời ta có Đảng…)

Chào 61 đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại ngàn xưa trông tới mai sau
Trông bắc trông nam trông nam trông cả địa cầu…

( Chào 61)

Bài thơ « Chào 61 » của Tố Hữu với cảm xúc của kẻ đang đứng ở « đỉnh cao muôn trượng » được cóp từ bài Từ « Tuyết » đẫy tự mãn của Mao Trạch Đông. Trong bài Từ « Tuyết », Mao coi Tần Thủy Hoàng, Hãn Vũ đế, Đường tông, Tống tố, Thành cát tư Hãn cũng chĩ là kẻ chỉ biết giương cung bắn ó diều, Mao Trạch Đông ta đây mới là kẻ phong lưu thời nay:
Non sông xinh đẹp dường bao
Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
Kém phần văn vẻ
Đường tông, Tống tổ
Thiếu mực phong tao
Khét tiếng một thời
Thành Cát Tư Hãn
Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
Xưa đã khuất
Nhìn trời nay hẳn thấy
Nhân vật phong lưu…

( Hoàng Trung Thông dịch)

Nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc trong giai đoạn 1955-1959, số tiền vật chất viện trợ bằng thu nhập của Việt Nam trong cả 3 năm 1955-1956-1957, liệu Tố Hữu có được những cảm tác viết nên những câu thơ dâng trào : «Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng »… thấy mình đang ở « đỉnh cao muôn trượng » kia không?
Xin nhắc lại một vài tư liệu từ nhiều nguồn cho thấy, trước khi Mỹ cho đảo chính, lật đổ và bắn chết anh em Ngô Đình Diệm 1963, nhiều nhân chứng cho rằng: Tổng thống Ngô Đình Diệm không tán thành cho phép đưa quân đội Mỹ vào miền Nam. Ngô Đình Diệm nhận thức được: nếu ông chấp nhận để Mỹ đưa quân tham chiến tại miền Nam sẽ làm mất cái chính nghĩa của chủ trương chống cộng của ông.
Đối với Việt Nam, sau hàng ngàn năm bắc thuộc, sau 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, việc đưa quân đội nước ngoài vào sẽ tạo nên những phản ứng, hệ lụy, là hành động đi ngược với nguyện vọng của cả dân tộc…Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu rất hiểu được hệ lụy lợi bất cập hại của việc cho phép quân Mỹ vào miền nam. Thực tế đã chứng minh được dự cảm đó của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là đúng. Mỹ tổng động viên lần lượt 3 triệu quân đổ vào chiến trường miền nam, đỉnh điểm cao nhất là nửa triệu quân cuối cùng lại phải rút ra bằng giải pháp danh dự: Ký hiệp định Pari 1973 để đưa quân Mỹ về nước…
Qua nhiều nhân chứng, khi ông Ngô Đình Diệm chấp chính, quân đội Sài Gòn chưa có cuộc hành quân diệt cộng nào quân số quá sư đoàn. Tổng thống Ngô Đình Diệm chủ trương xua đuổi Việt Cộng là chính. Mặt khác Ngô Đình Diệm cho thi hành chính sách ấp chiến lược để cô lập, không cho tiếp tế cho Việt Cộng. Quân miền bắc vào bị đói khát, thiếu thốn, chính quyền Sài Gòn sẽ dùng tiền của chiêu hồi họ để họ từ bỏ lý tướng CS, để họ quay về làm ăn sinh sống bình thường…
Nếu chính quyền Mỹ tin theo chính sách này của ông Diệm, Mỹ không bị giới Phật tử bị Việt Cộng gây rối gây nên các cuộc bạo loạn ở Huế, sau này nhiều nhân chứng cho thấy có bàn tay của Việt Cộng phía sau, gây áp lực thay đổi chính quyền Diệm-Nhu.
Trong giai đoạn này, có nguồn tin cho hay: đã có cuộc tiếp xúc bí mật giữa Ngô Đình Nhu và Phạm Hùng ở khu rừng Tánh Linh, Định Quán, Đồng Nai; có thiếp trao đổi chúc tết của ông Hồ Chí Minh gửi Ngô Định Diệm cùng với một cành đào Nhật Tân được gửi từ Hà Nội vào Sài Gòn như một sự nhắc nhở giữ linh hồn dân tộc…Đã có sự trao đổi thông tin qua lại giữa Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm, thông qua trung gian là Trưởng đoàn quốc tế về Hiệp nghị Giơ-ne-vơ về Việt Nam người Ba Lan.
Có nguồn tin cho biết: do vị này phản thùng, bán bí mật các thông tin này cho CIA nên buộc Mỹ phải ra tay, tổ chức đảo chính. Theo một số nguồn tin: Hiện nay vị trưởng đoàn người Ba Lan này đã xin sang tị nạn chính trị tại Mỹ?
Có nguồn tin cho rằng: bản thân Tướng Giáp cũng không muốn giải quyết vấn đề thống nhất bắc-nam bằng một cuộc chiến tranh; Do quan điểm đó mà sau năm 1964, Tướng Giáp bị vô hiệu và thậm chí còn bị chụp cho cái mũ « xét lại », theo chủ trương « chung sống hòa bình » của Liên Xô. Tướng Giáp nhiều phen suýt mất mạng vì cánh thân Trung Quốc trong chính quyền Hà Nội.
Đại tá Lê Trọng Nghĩa, thư ký, là Cục trưởng Cục 2, người thân tín của Tướng Giáp, Lê Trọng Nghĩa đã bị bắt và bị ép cung khai ra bằng chứng tố cáo các hành vi theo chủ trương xét lại Liên Xô của Tướng Giáp, nhưng Lê Trọng Nghĩa đã không phản lại Tướng Giáp…
            Qua một số nhân chứng, sự kiện đó cho thấy: từ sau năm 1959-1960 không phải không có những nhóm, những bộ óc trong bộ máy chính quyền của cả nam và bắc có chủ trương: không để chiến tranh hai miền bắc nam nổ ra, nếu chiến tranh nổ ra sẽ tạo cớ cho Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô nhảy vào, biến Việt Nam thành bãi thử vũ khí húy diệt, tàn phá đất nước...
Sau năm 1960, thế giới thật sự có sự sự giằng co, vật lộn giữa “phe bồ câu” và “diều hâu”. Phái bồ câu chủ trương chung sống hòa bình, thi đua hòa bình, chứng minh: ai thắng ai giữa hai hệ thống chính trị; còn phái kia chủ trương dùng liệu pháp sốc, ăn ngay bằng sức mạnh của súng đạn…
Do sự hình thành, xung đột giữa phái nên phía Liên Xô, Khơrutsov bị hạ bệ; ở Mỹ Tổng thống Kennedy bị ám sát; tại Việt Nam TT Ngô Đình Diệm bị đảo chính; Còn Tướng Giáp thì ngồi chơi xơi nước…
Trước những diễn biến của thế sự thế giới, theo người viết bài này, những cái đầu tầm cỡ như Ngô Đình Diệm, Ngô Đĩnh Như, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp họ có ý thức và nhận thức nhận ra nguy cơ chảo lửa chiến tranh bị hất vào đầu cổ dân tộc mình, nhưng họ không làm cách nào thoát ra được như một thứ định mệnh, trước các ván cờ chính trị bạo tàn, quái ủy của các nước lớn…
Nếu nhìn nhận như vậy thì chúng ta cũng không nỡ đổ hết trách nhiệm, lỗi lầm cho các chính khách tinh hoa của thời kỳ đó như: Ngô Đình Nhiệm, Ngô Đình Nhu, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp…; Không nên quá trách họ không tìm cách tránh được cho dân tộc cái họa binh đao…Lỗi lầm này không do họ không yêu nước, yêu dân tộc; họ bị cộng sản Nga Tàu, bị giới diều hâu Mỹ chi phối, dắt mũi…
Họ không tránh được cho dân tộc cuộc chiến tranh “Việt-Mỹ” mà vào thời điểm này ngay bên thắng cuộc cũng cảm thấy một chiến thắng vô duyên và quá đắt: hàng triệu người vui bên cạnh hàng triệu người buồn.
Nếu như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu vào đầu những năm 60 bắt tay được với nhau, hai miền bắc nam thiết lập nhà nước liên bang theo tinh thần: Giào làm chị khó làm em; đảm bảo Việt Nam sẽ có những đột biến và sẽ không kém hơn Đài Loan và Hàn Quốc. Đầu những năm 60, Sài Gòn đã được trầm trồ là “ hòn ngọc Viễn Đông”. Tưởng Giới Thạch, Lý Thừa Vãn nhìn nhận Ngô Đình Diệm như một “đại ca” của châu Á…Có liện hệ như vậy mới thấy tội ác của Mao Trạch Đông, chính y đã kéo lùi sự phát triển của Việt Nam hàng trăm năm.
Do đó, đến bây giờ ai đó vẫn còn “ ngu trung” tụng ca: tình hữu nghị Việt-Trung do Mao Trạch Đông dày công vun đắp là là mộ sự tụng ca phản lại sự thật lịch sử, phản lại lợi ích dân tộc. Sự tụng ca đó là có tội với vong linh của hơn 3 triệu con dân đất Việt đã bị ngã xuống trong chiến tranh Việt-Mỹ…
Tai họa chiến tranh Việt-Mỹ do một phần quan trọng do chính giới Bắc Kinh xô đẩy, chi phối như một thứ “định mệnh” bởi cái nước nhỏ buộc sống cạnh một nước lớn như Trung Hoa: một quốc gia tồn tại ngàn năm nay cái “văn hóa ăn thịt người- ăn thịt lẫn nhau” (thuật ngữ thời thượng hiện tại: mổ cướp nội tạng) như nhà văn Lỗ Tấn đã đúc kết…
P.V.Đ.

Rút từ trong biên khảo:" VỊ XUYÊN & THÉ SỰ VIỆT-TRUNG"

Liên hệ chia sẻ với tác giả qua email: Hoanghtham9@gmail.com
ĐT: 0382598746

Mời xem biên khảo dày 800 trang:
"VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG"


Công trình 10 năm của Phạm Viết Đào gồm các nội dung:

Phần 1: "VỊ XUYÊN KHÚC CA BI TRÁNG"-250 tráng; Nhiều hồi ức, hồi ký, ghi chép về các trận đánh tại chiến trường Vị Xuyên do các Tướng lĩnh, CCB Vị Xuyên, các phóng viên trong và ngoài nước viết...
Phần 2:"TƯ LIỆT MẶT TRẬN VỊ XUYÊN" -250 trang...

Thu thập từ Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước viết, đưa tin về cuộc chiến khốc liệt: Việt Nam huy động 20 vạn quân ( trên 15 sư đoàn) đánh trả, đẩy lui quyết liệt 50 vạn quân Trung Quốc xâm lược( quãng trên 30 sư đoàn của 8/10 đại quân khu) trong giai đoạn 1984-1989

-Phần 3: "THẾ SỰ VIỆT TRUNG" gần 300 trang

Bàn, bình luận về quan hệ Việt-Trung trong 70 năm qua khi hai nước được dẫn dắt bới chủ nghĩa Cộng sản...

 

 

 


Không có nhận xét nào: