Phạm Viết Đào.
Bài liên quan:
>SỰ THẬT VỀ SỰ “VIỆN TRỢ” ÁC ĐỘC CỦA TRUNG QUỐC DÀNH CHO VIỆT NAM ( Phần 1)
Vai trò của Trung Quốc
với cuộc chiến tranh Việt-Mỹ
Hiện nay, rất nhiều các tài liệu đã
công bố đề cập tới sự tác động và can thiệp của Trung Quốc sâu vào cuộc chiến
tranh Việt-Mỹ. Khi Mỹ mở rộng chiến tranh, dùng không quân đánh phá ra miền
bắc, cả triệu dân Bắc Kinh xuống đường, hô vang khẩu hiệu: “800 trăm triệu dân Trung Quốc là hậu phương
vững mạnh của nhân dân Việt Nam”; Song song với khẩu hiệu này, Trung Quốc
lại đưa thêm một khẩu hiệu khác: “Mi
không đụng đến ta thì ta không động đến mi”…
Mặc dù, Mỹ chưa làm gì đụng tới Trung Quốc, thế nhưng, do được
thỏa thuận với miền bắc Việt Nam, Trung Quốc đã đưa vào miền bắc Việt Nam có
giai đoạn 32 vạn quân. Trong tác phẩm “Trung
Quốc lâm chiến”- Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả
Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong
chiến tranh Việt Nam:
“Mặc dù đang mạnh
dần, Trung Quốc vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng của Mỹ tại Đông Nam
Á. Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Cộng
bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM),
phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung
Cộng điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng
và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung
Cộng giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam
đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn,
gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có
170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Nội dung
này cũng phù hợp với con số do hãng tin Reuter loan đi ngày 16 tháng Năm, 1989
dựa theo tin của China News Service “Hãng
tin bán chính thức của Trung Quốc trong một thông báo được theo dõi tại Hong
Kong cho biết Trung Cộng đã gởi 320 ngàn quân sang Việt Nam trong thập niên
1960”.
Cuộc chiến Việt-Mỹ là một cuộc chiến mà cho đến bây giờ,
giới bình luận thế sự, giới sử học của hai phía nhất là phía Mỹ có nhiều ý kiến
trái chiều nhau. Một số ý kiến cho rằng: Đó là một sai lầm lịch sử của phía Mỹ,
cuộc chiến đã mang tai họa cho cả hai dân tốc Việt-Mỹ. Mới đây, Tổng thống Mỹ
Trump cũng đã công khai lên tiếng cho rằng: Mỹ đáng ra không nên nhảy vào cuộc
chiến này; gây cản trở tiến trình thống nhất, hòa hợp giữa hai miền Nam- Bắc
Việt Nam.
Chính giới Mỹ và Việt Nam không ít người sau mấy chục năm
đã nhìn nhận lại: Hai miền bắc-nam Việt Nam hoàn toàn có khả năng thống nhất
được với nhau, hòa hợp được với mà không nhất thiết phải qua một cuộc chiến tranh máu lửa, tổn thất nhiều
nhân mạng của hai dân tộc Việt-Mỹ...
Sở dĩ nổ ra cuộc chiến tranh đẫm máu đáng tiếc này, được
thể hiện qua số thương vong của cả 3 phía và số lượng bom đạn ném xuống chiến
trường Việt Nam lớn hơn thế chiến thứ 2; Tai họa này có thể tránh được, nếu
không có sự can dự, sự “viện trợ-lập trình” ác độc từ Trung Hoa cộng sản. Đây
là một vấn đề cần được lịch sử bình tâm xem xét lại.
Theo WikiPedia: “Cho tới nay, Chiến tranh Việt Nam vẫn giữ kỷ lục là cuộc chiến có số lượng bom được ném nhiều nhất trong lịch sử thế giới. Tổng số bom mà máy bay Mỹ ném xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn,[32] gấp gần 3 lần tổng số bom mà tất cả các nước đã sử
dụng trong Chiến tranh thế
giới thứ hai và tương đương sức
công phá của 250 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima. Tính bình quân mỗi người Việt Nam thời đó phải chịu đựng
khoảng 250 kg bom ném xuống từ máy bay Mỹ.[33][34]. Đó là chưa kể tới 7,5 triệu tấn đạn
dược được Mỹ sử dụng trên mặt đất (gồm lựu đạn, mìn, thuốc nổ, đạn súng pháo
các loại)[35] và 45.260 tấn (khoảng 75 triệu
lít) chất độc hóa họcđược Mỹ rải xuống[36][37] “n
( Chiến tranh Việt Nam-WikiPedia)
Rất nhiều giới nghiên cứu cho rằng:
Một trong những nguyên nhân sâu xa đẩy tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là do:
Trung Quốc âm mưu, chủ động “lập trình,
nuôi cấy” cuộc chiến tranh từ
trong và sau hội nghị Giơ-ne-vơ… Điều này có thể đọc thấy trong các phát biểu
của Lê Duẩn, thời điểm 1954 đang phụ trách chiến trường Nam Bộ; Phạm Văn Đồng,
Trưởng đoàn của Việt Nam tại hội nghị này báo chí chính thống đã đăng.
Việc phân
vùng giới tuyến bắc-nam Việt Nam trong Hiệp định Giơ-ne-vơ, người chủ động áp
đặt giới tuyến chia cắt thành 2 miền tại vĩ tuyến 17 là Chu Ân Lai, Trưởng
đoàn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc thời điểm đó.
Sự áp đặt
giới tuyến nam-bắc tại vĩ tuyến 17 đã được Trung Quốc tính toán, cân nhắc kỹ cả
về phương diện địa chính trị lẫn quân sự. Có ý kiến cho rằng Chu Ân Lai áp đặt
giới tuyến hai miền nam-bắc Việt Nam tại vĩ tuyến 17 là để tạo “cơ sở pháp
lý-địa chính trị” cho cuộc xâm lược Hoàng Sa năm 1974. Bởi nếu giới tuyền
nam-bắc Việt Nam ở 13 hoặc 15 thì Trung Quốc khó lòng đưa quân xâm lược Hoàng
Sa trắng trợn vào năm 1974, bởi quan hệ 2 nước Việt Nam-Trung Quốc đang được
tiếng: Vừa là đồng chí vừa là anh em.
“Bàn tay” của Trung Quốc cộng sai lầm của chính giới Mỹ
làm bùng nổ chiến tranh
Theo Hiệp
định Giơ-ne-vơ về Việt Nam ký tháng 7-1954, sau hai năm, hai miền nam-bắc sẻ tổ
chức tuyển cử tự do để thống nhất bầu chọn ra một chính quyền thống nhất.
Trong một
bài viết cho BBC dịp 30/4/2015, sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt-Mỹ với
tiêu đề “Hậu quả của sự cuồng tín và sự
cuồng chiến, Phạm Viết Đào đã đưa ra các kiến giải đáng chú ý sau đây:
“Rất nhiều
người của cả 3 phía (Mỹ, Việt Nam Cộng hoà và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), sau
40 năm bắt đầu ngộ ra rằng trong cuộc chiến vừa qua, chính mình bị áp, bị lôi,
bị ném vào cuộc chiến bởi những chính kiến chính trị cuồng tín của kẻ khác.
Sự cuồng
tín chính trị được thể hiện qua việc quá tin vào những điều vu vơ, không có
thật hoặc tin vào những sự thật bị phóng đại, kích động bởi những động cơ chính
trị vụ lợi, đen tối.
Từ sự cuồng
tín về chính trị đã xô đẩy hàng triệu người vào những hành vi bất chấp mạng
sống của mình, của đồng loại, của đồng bào mình, thậm chí người thân của mình.
Trong cuộc
chiến Việt-Mỹ vừa qua, có rất nhiều gia đình Việt Nam anh em họ hàng ruột thịt
trong một gia đình đã bị đẩy vào các chiến tuyến đối địch nhau, thậm chí bắn,
giết trực diện nhau chỉ vì những chính kiến chính trị chẳng liên quan gì tới
mình...”
“Trước hết,
về phía chính giới Mỹ, sự cuồng tín thứ nhất bắt nguồn từ tín điều cho rằng:
làn sóng cộng sản từ miền bắc Việt Nam đang lan tràn xuống miền nam, sẽ tràn
sang khu vực Đông Nam Á, như đã tràn vào Đông Âu.
Nếu Mỹ
không trực tiếp ra tay ngăn chặn được, theo tín điều này, thì an ninh của chính
nước Mỹ sẽ bị đe doạ và sẽ có một cuộc “cách mạng đỏ” lan sang tận Mỹ và Tây
Âu; thách thức cơ nghiệp của giới tài phiệt Mỹ...
Đây là một
ý tưởng chính trị cuồng tín mà vì nó mà căn cứ vào dó, chính giới Mỹ đã phát
động một cuộc chiến tổng lực; nước Mỹ đã huy động toàn bộ sức người, sức của
cao nhất; có thời điểm Chính phủ Mỹ đưa vào Việt Nam cả triệu quân để nhằm mục
đích ngăn chặn, đẩy lùi cộng sản tại Việt Nam.
Chính kiến
chính trị cuồng tín này là nguyên nhân dẫn tới nhiều hành vi cuồng chiến của
quân đội Mỹ: ném bom rải thảm B52 vào một số thành phố đông dân ở miền bắc, ném
bom rải thảm chất độc da cam vào rừng, ở mức độ được cho là lạm dụng khi nhiều
khu vực dân sự và đối tượng tấn công không liên quan tới các lực lượng cộng
sản.
Tóm lại,
cuộc chiến Việt-Mỹ cách đây 40 năm là cuộc chiến giữa một bên thì đem bom đạn,
chất độc ra huỷ diệt bất cứ chỗ nào vì nỗi sợ ý hệ về làn sóng đỏ; một bên thì
tuyên bố “sẵn sàng đốt cháy cả Trường Sơn” nếu không đuổi được Mỹ ra vì sự nhầm
lẫn bị xâm lược vĩnh viễn như một nghìn năm Bắc thuộc, hai một trăm năm thực
dân bóc lột của người Pháp v.v...
Cả hai bên
rút cuộc đã ném vào ván bài tất cả: một bên thẳng tay chống, một bên thì đem
tất cả xương máu ra để bảo vệ… những giá trị ảo?!”
Tới thế kỷ XXI, lịch sử đã cho thấy: sự cuồng tín đó là
phi thực tiễn!
Trung Quốc “giải tỏa mặt bằng” bắc Việt Nam để bị “ươm trồng” chiến tranh…
Sau Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ hai 1951, sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Trung Quốc đã nhúng
tay can thiệp sâu vào nội tình Việt Nam. Sự can thiệp không chỉ trong lĩnh vực
quân sự, kinh tế, chính trị và tới nhiều quyết sách lớn nhỏ.
Để cho sự can thiệp có hiệu lực, thứ nhất: Trung Quốc sử
dụng con bài viện trợ kinh tế; “Phóng tiền tài thu nhân tâm”; Từ “ viện trợ”
kinh tế, bước tiếp sau là thọc sâu vào công tác cán bộ Việt Nam…
Ngay trong đợt “chỉnh phong” năm 1953, nhiều cán bộ nhất
là cán bộ quân đội có tài năng đã bị loại ra khỏi bộ máy của Đảng do dính thành
phần giai cấp. Xin lấy 2 ví dụ: đại tá Lê Trọng Nghĩa Trung tá Đặng Văn Việt,
“con hùm xám” vùng Đông Bắc là hai trong số những sĩ quan trẻ có tài, có triển
vọng. Song do sự tham mưu của cố vấn Trung Quốc nên họ bị loại ra khỏi các
cương vị, trọng trách được giao.
Võ Nguyên Giáp chỉ bảo vệ được Lê Trọng Nghĩa, sử dụng
ông làm Cục trưởng Cục phản gián trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hòa bình Đại
tá Lê Trọng Nghĩa bị vu cho bán bí mật cho Liên Xô xét lại, bị giam cứu 6 năm.
Trung tá Đặng Văn Việt, người mà ông Hồ Chí Minh chứng
kiến tài cầm quân trong trận đáng đồn Đông Khê; ông Hồ Chí Minh trực tiếp ra
đốc chiến “Chiến dịch Biên Giới”, sự việc này được ghi trong một bức ảnh của Vũ
Năng An và bài thơ Đăng Sơn của ông Hồ Chí Minh: ”Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu’.
Từ sau trận Đông Khê, sau 1951, Đặng Văn Việt, một “Hàn
Tín” của Việt Nam phải ngồi chơi xơi nước, vào cái thời điểm Việt Nam đang rất
cấn những sĩ quan trẻ có tài thao lược…
Dùng chiêu bài “chỉnh Đảng, chỉnh phong”, thanh lọc giai
cấp do Trung Quốc “viện trợ”, Trung Quốc đã tìm cách phân hóa đội ngũ cán bộ
trẻ Việt Nam; Trung Quốc tìm cách đưa, nâng đỡ những người có tư tưởng thân
Trung Quốc, sùng bái Trung Quốc như Nguyễn Chí Thanh; Nếu ai không có khả năng
lôi kéo được do tài năng, do phẩm chất trung kiên thì Trung Quốc tìm mọi cách
để gạt bỏ thông qua chiêu bài “chỉnh đảng, chỉnh phong”.
Sau khi miền bắc bước qua giai đoạn hòa bình, Trung Quốc
đã áp đặt Việt Nam: phải phát động cải cách ruộng đất, một chính sách tàn ác
thất nhân tâm, phá nát cơ sở hạ tầng xã hội tại nông thôn.
Cùng với chủ trương, chính sách đấu địa chủ ở nông thôn;
tại các thành phố lớn, do sự tham mưu của cố vấn Trung Quốc: Việt Nam đã thi
hành cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại địa bàn vừa ra khỏi sự
chiếm đóng của Pháp. Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, lấy
cớ thanh lọc giai cấp, tạo điều kiện cho giai cấp vô sản nắm vũ đài lịch sử;
thực chất dùng chính sách này để trưng thu, sung công nhà máy, túi tiền của
họ…Mà trong số những người thuộc tầng lợp vô sản này, có rất nhiều người từng
bỏ ra hàng ngàn lượng vàng cho Chính phủ Hồ Chí Minh mua súng đánh Pháp…
Công cuộc cải tạo này thật sự là một đòn trí mạng đánh
vào sống lưng tầng lớp, giai cấp tư sản, bản chất chỉ là những ông chủ nhỏ, vừa
mới nho nhe nhú ra sau chiến tranh, đang hăng say lao vào kiến quốc. Ở Hà Nội,
ông chủ có tiếng tăm như Nhà máy da dày Thụy Khuê có trong nhà máy có 300 công nhân; phần lớn số lượng chỉ ở
mức vài chục tới vài trăm.
Tất cả giới chủ vừa mới hình thành, lập tức được gom nhốt
vào trong cái tổ hợp “công tư hợp doanh”, tài sản, công nhân, vốn liếng do mồ
hôi bao đời nay cha ông họ và bản thân họ gom góp được bổng chốc phải sung
công. Các nhà tư sản thực chất là các tiểu chủ đã phải cắn răng chịu cướp mất
tài sản, phương tiện làm ăn, bị hủy hoại kinh nghiệp quản lý. Nhiều nhà tư sản
đã cho phá máy, bán tống bán tháo, có người cõn dỡ máy ra để bán sắt vụn vì
không chịu nổi sự áp bức của cái chủ trương “công tư hợp doanh” bất lương, phi
đạo lý này…
Còn tại nông thông, những địa chủ, thực chất là những
nông dân cày sâu cuốc bẫm, chăm chỉ và có kinh nghiệm với đồng áng, gom góp
được một lượng ruộng đất từ 5 mẫu ruộng đất trở lên, nếu bình quân đầu trong gia
đình chia ra vượt 8 sao/người đều bị quy là địa chủ, bị tịch thu nhà cửa,
phương tiện và ruộng đất, bị đẩy ra bên lề xã hội nông thôn.
Còn tầng lớp văn nghệ sĩ, trí thức tại thành phố thì bị
giáng những đòn trí mạng trong sự kiện “nhân văn giai phẩm”; Sự kiện “nhân văn
giai phẩm” thực chất là do một số văn nghệ sĩ từng tham gia kháng chiến, từng
nếm mật nằm gai, lấy tiếng hát, tài làm thơ ra để động viên quân đội lao vào
chiến đấu đánh đuổi quân Pháp. Trong chiến tranh giữa văn nghệ sĩ và những nhà
lãnh đạo họ thì người ở lán trên, lán dưới, nhà phên vách đất như nhau; Cùng
nhau “ chia củ sắn lùi; bát cơm sẻ nửa
chăn sui đắp cùng”…
Hòa bình rồi, khi về thành phố người thì ở nhà lầu xe
hơi:”Con đi đánh giặc mười năm; Vonga con
cưỡi, gà hầm con xơi”; “Tông Đản là chợ vua quan; Vỉa hè là chợ nhân dân anh
hùng”; Trong khi đó thì phần đông cán bộ, công chức, văn nghệ sĩ được chia
cho mấy mét vuông nhà mỗi gia đình, hàng tháng phải sống chế độ tem phiếu, hơn
chục km gạo, 5 met vải, mấy lạng đường, mấy lạng thịt…Từ thực tế này mà làm nảy
sinh tư tưởng, thế là tuôn ra thơ ca hò vè… Để bịt miệng cái đám lắm lời này,
thế là dựng lên vụ “ nhân văn giai phẩm” để chụp cho họ cái mũ “phản động”, chống phá đảng và nhà
nước…Và thế là họ bị đánh, bị bỏ tù, bị bỏ đói…
Nếu sau chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ đổ tiền cho châu
Âu, Nhật, Hàn Quốc để giúp họ tìm đường làm ăn thì ngược lại tại Việt Nam,
Trung Quốc đã viện trợ, cầm tay chỉ việc đế
“giải tỏa mặt bằng” sâu rộng
toàn miền bắc để chuẩn bị nhân lực cho một cuộc chiến tranh.
Với sự viện trợ và cố vấn của Trung Quốc, họ đã kiến tạo,
thổi miền bắc lên thành “tiền đồn” và “thành trì” của phe XHCN ở Đông Nam Á: “Nếu được làm hạt giống để mùa sau: Nếu lịch
sử chọn ta làm điểm tựa: Trong đêm tối tim ta là ngọn lửa; Vui gì hơn làm người
lính đi đâu…”:
Giai đoạn 1954-1964, Trung Quốc đã tìm mọi cách phá nát
các nền tảng hạ tầng kinh tế xã hội, biến bằng được miền bắc thành “một trại
lính” khổng lồ, trại lính đó có sứ mạng chuẩn bị đúc rèn lên những người lính,
nhân sự tiếp quản một cuộc chiến tranh một mất một còn với “đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước”. Những người bị coi là “tay sai bán nước” ấy, thực ra họ là anh
em ruột thịt của mình, có cùng huyết thống, có người có huyết thống gần gũi
trong 2-3 đời; Thậm chí quan hệ: cha-con; anh em ruột thịt, quan hệ vợ- chồng?
Có nhiều tác phẩm văn học nói về sự éo le: vợ là lính phía giải phóng; vợ con
lại tham gia quân đội, chính quyền Sài Gòn…
Hậu quả của sự cài đặt, viện trợ của Trung Quốc
Việc cài đặt, đẩy hai miền nam bắc Việt Nam vào lò lửa
chiến tranh, buộc quân đội Mỹ nhảy vào tham chiến và tạo cơ hội cho Trung Quốc
“giây máu ăn phần” là điều chúng tôi muốn bàn trong phần này.
Do sự tác động của các chủ trương, chính sách du nhập từ
Trung Quốc, các chính sách đã khiến cho các cột trụ về chính trị-kinh tế-văn
hóa xã hội miền bắc bị giáng những đòn nặng nề, làm cho xã hội miền bắc trở nên
lệ thuộc vào Trung Quốc…
Âm mưu thâm độc của Trung Quốc: “xuất khẩu, viện trợ” các
thiết chế maoist đó nhằm đạt mục đích biến xã hội miền bắc thành một trại lính;
và trại lính đó đã trui rèn những người lính miền bắc bị yểm bùa, bị cương tỏa,
dẫn dắt bởi chiến thuật “đốt thuyền, đánh chìm thuyền” sau khi đưa “8000 nghìn
tráng sĩ vượt sông Trường Giang” của Hạng Vũ trong Hán Sở tranh hùng.
Người lính miền bắc khi bị đưa vào chiến trường miền nam,
họ buộc phải chiến đấu đến cùng, bởi vì sau lưng họ không có chỗ lùi: đất đai
vườn tược đã là của HTX; thành phố thì cũng không còn cơ sở tư doanh cả từ hiệu
cắt tóc, tiệm bán phở. Người lính nếu đảo ngũ, bỏ chiến trường có quay về thì
cũng không còn đất sống…Điều này khác với những người lính của quân đội Việt
Nam cộng hòa hay thanh niên Mỹ, có thể trốn lính bằng cách chạy sang Canada như
Bill Clinton. Chúng ta có thệ nhận biết phẩm chất của người lính miền bắc Việt
Nam qua một bài thơ của Hữu Thỉnh:
Năm anh em mỗi
đứa một quê
Đã lên xe ấy là cùng một hướng
Nổ máy lên ta một dạ xung phong
Trước quân thù là chỉ biết có tiến công.
Năm anh em ta mang năm cái tên
Ấy khi lên xe không còn tên riêng nữa
Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa
Năm quả tim chung nhịp đập rộn ràng
Đã lên xe ấy là cùng một hướng
Nổ máy lên ta một dạ xung phong
Trước quân thù là chỉ biết có tiến công.
Năm anh em ta mang năm cái tên
Ấy khi lên xe không còn tên riêng nữa
Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa
Năm quả tim chung nhịp đập rộn ràng
Xin đưa một thông tin đáng chú ý trên báo Nhân Dân phát
hành tại Hà Nội, số 2021 ra ngày 28 tháng Chín 1959 nhân dịp kỷ niệm 10 năm
thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Bài báo được dịch sang tiếng Anh và
lưu trữ trong Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Libray of Congress):
“Trong năm năm qua,
Trung Quốc đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ nhiệt tình. Chỉ riêng tiền bạc,
trong đó Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, đã lên đến 900 triệu Yuan, đây là
số lượng bằng thu nhập nội địa của ngân sách Việt Nam trong ba năm 1955, 1956,
1957 cộng lại… Trong công nghiệp, Trung Quốc đã giúp chúng ta trong lãnh vực
khai thác hầm mỏ, sản xuất điện khí, cải thiện sản phẩm nông nghiệp, công
nghiệp thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp
sản xuất phân bón và hóa chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp dầu
khí, công nghiệp sắt thép… Mặc dù trong mười năm xây dựng, Trung Quốc đạt được
nhiều thành quả vật chất, vẫn còn là một nước nghèo. Dù sao, Trung Quốc đã hết
lòng viện trợ chúng ta. Do đó, chúng ta càng biết ơn sự trợ giúp đó”.
Trong khi Trung Quốc dồn tiền của “viện trợ” cho Việt Nam
thì tại Trung Quốc, tại nhiều vùng nông thôn đang phải trải qua nạn đói khủng
khiếp nhất trong lịch sử loài người. Nạn đói bắt nguồn từ chủ trương do Mao
Trạch Đông gây ra trong thời kỳ “ Đại nhảy vọt” và “Công xã nhân dân” từ năm
1958 đến năm 1962.
Chưa có con số chính xác số người chết đói tại Trung
Quốc, thế nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đã đồng ý con số lên đến vài chục
triệu người. Tác giả Peng Xizhe dự đoán thấp nhất với 23 triệu người và Frank
Dikötter, giáo sư môn Lịch sử Trung Quốc Hiện đại, dự đoán ít nhất có 45 triệu
người chết, trong đó khoảng 2 đến 3 triệu chết vì tra tấn. Phần lớn các nhà
nghiên cứu còn lại cho rằng khoảng 30 triệu người đã chết đói. Viết trên New
York Times, giáo sư Frank Dikötter trích dẫn lá thư viết tay của viên Giám đốc
Sở Anh Ninh Công Cộng tỉnh Tứ Xuyên báo cáo lên cấp trên tỉnh của y có 10.6
triệu người chết đói. Ở Cam Túc có 50 trường hợp ăn thịt người. Nhà báo Daniel
Southerland viết trên Washington Post, tại công xã Fengyang có 63 trường hợp
người ăn người và tại công xã Damiao hai vợ chồng Chen Zhangying và Zhao Xizhen
luộc chín đứa con 8 tuổi của mình để ăn. Riêng tại công xã Wudian có cả trường
hợp bán thịt của chính mình như bán thịt heo. Nói chung, những năm cuối thập
niên 1950 cho đến đầu 1960 là những năm dân số Trung Cộng giảm thấp nhất nhưng
không phải vì hạn chế sinh đẻ nhưng chết quá nhiều.
Miền bắc Việt Nam giai đoạn đó dân số quãng 17 triệu
người…Vậy thì Mao Trạch Đông cam tâm để cho vài chục triệu người dân Trung Quốc
chết đói, dành tiền của đó để “viện trợ” cho Việt Nam, không thể coi số tiền
của đó sự giúp đỡ vô tư, trong sáng được không? Không thể coi đó là sự giúp đỡ
trên tinh thần “ quốc tế vô sản không”?
Thực chất, sự viện trợ của Trung Quốc nhằm thực hiện một
dã tâm chính trị thâm hiểm: dùng tiền của viện trợ để cột chặt số phận của 17
triệu người dân Bắc Việt Nam vào Trung Quốc, sau khi đã bằng các chính sách
kinh tế-xã hội-quân sự làm cho què cụt, thương tích, tan hoang các “đầu tàu”
kinh tê-xã hội miền bắc? Sự dồn tiền của này của nhân dân Trung Quốc để nuôi
cấy cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?!
Âm mưu thâm hiểm của Trung Quốc: rắp tâm biến miền bắc
Việt Nam thành trại lính, biến hang vạn thành niên miền bắc Việt Nam làm người
lính xung kích để tấn công đế quốc Mỹ để giữ yên ổn cho hậu phương 800 triệu
dân Trung Quốc, yên ổn, thoát hiểm sau những chính sách quan liêu rồ dại, độc
tài như đại nhảy vọt, ba nhất, toàn dân làm gang thép, công xã nhân dân của Mao
Trạch Đông…
Đất nước Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Trung
Quốc, sau mười năm đã chồng chồng chất những hiểm họa, tai ương, những mâu
thuẫn giữa người dân với chính quyền, mâu thuẫn giữa các phe phái trong Đảng;
mâu thuẫn giữa ý chí độc tài của Mao và các lãnh đạo cao cấp khác do các chủ
trương chính sách sai lầm, duy ý chí trong phát triển kinh tế-xã hội của Mao…
Do vậy, nếu không tìm cách đẩy xung đột chiến tranh ra
ngoài biên cương, xa biên cương Trung Quốc, rất có thể cái “thùng thuốc nổ”
Trung Hoa sẽ bị dây, bén lửa, Trung Quốc sẽ đại loạn, dẫn tới tiêu vong Đảng CS
Trung Quốc vừa danh được chính quyền…
Chúng ta lật giở lại một số bài thơ của Tố Hữu làm vào
năm 1960-1961 để thấy nguỗn cảm xúc của các bài thơ đó mang hơi hướng của “nhân
dân tệ” tới mức nào:
Anh chị em
ơi
Ba mươi năm
đời ta có Đảng
Hôm nay ôn
lại chặng đường dài
Ngọt búi
nhớ lúc đắng cay
Ra sông,
nhớ suối có ngày nhớ đêm
Mùa xuân đó
con chim én mới
Rộn đồng
chiêm chấp chới trời xanh
Đời ta
gương vỡ lại lành
Cây khô cây
lại đâm cành nở hoa…
( Ba mươi năm đời ta có Đảng…)
Chào 61
đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây
mắt nhìn bốn hướng
Trông lại ngàn xưa trông tới mai sau
Trông bắc trông nam trông nam trông cả địa cầu…
( Chào 61)
Bài thơ « Chào 61 » của Tố Hữu với cảm xúc của
kẻ đang đứng ở « đỉnh cao muôn trượng » được cóp từ bài Từ
« Tuyết » đẫy tự mãn của Mao Trạch Đông. Trong bài Từ
« Tuyết », Mao coi Tần Thủy Hoàng, Hãn Vũ đế, Đường tông, Tống tố,
Thành cát tư Hãn cũng chĩ là kẻ chỉ biết giương cung bắn ó diều, Mao Trạch Đông
ta đây mới là kẻ phong lưu thời nay:
Non sông xinh đẹp dường bao
Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
Kém phần văn vẻ
Đường tông, Tống tổ
Thiếu mực phong tao
Khét tiếng một thời
Thành Cát Tư Hãn
Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
Xưa đã khuất
Nhìn trời nay hẳn thấy
Nhân vật phong lưu…
Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
Kém phần văn vẻ
Đường tông, Tống tổ
Thiếu mực phong tao
Khét tiếng một thời
Thành Cát Tư Hãn
Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
Xưa đã khuất
Nhìn trời nay hẳn thấy
Nhân vật phong lưu…
( Hoàng Trung Thông dịch)
Nếu không có sự
viện trợ của Trung Quốc trong giai đoạn 1955-1959, số tiền vật chất viện trợ bằng
thu nhập của Việt Nam trong cả 3 năm 1955-1956-1957, liệu Tố Hữu có được những
cảm tác viết nên những câu thơ dâng trào : «Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng »… thấy mình đang ở « đỉnh cao muôn trượng » kia không?
Xin nhắc lại một
vài tư liệu từ nhiều nguồn cho thấy, trước khi Mỹ cho đảo chính, lật đổ và bắn
chết anh em Ngô Đình Diệm 1963, nhiều nhân chứng cho rằng: Tổng thống Ngô Đình
Diệm không tán thành cho phép đưa quân đội Mỹ vào miền Nam. Ngô Đình Diệm nhận
thức được: nếu ông chấp nhận để Mỹ đưa quân tham chiến tại miền Nam sẽ làm mất
cái chính nghĩa của chủ trương chống cộng của ông.
Đối với Việt
Nam, sau hàng ngàn năm bắc thuộc, sau 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, việc đưa
quân đội nước ngoài vào sẽ tạo nên những phản ứng, hệ lụy, là hành động đi ngược
với nguyện vọng của cả dân tộc…Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu rất hiểu được hệ lụy
lợi bất cập hại của việc cho phép quân Mỹ vào miền nam. Thực tế đã chứng minh
được dự cảm đó của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là đúng. Mỹ tổng động viên lần
lượt 3 triệu quân đổ vào chiến trường miền nam, đỉnh điểm cao nhất là nửa triệu
quân cuối cùng lại phải rút ra bằng giải pháp danh dự: Ký hiệp định Pari 1973 để
đưa quân Mỹ về nước…
Qua nhiều nhân
chứng, khi ông Ngô Đình Diệm chấp chính, quân đội Sài Gòn chưa có cuộc hành
quân diệt cộng nào quân số quá sư đoàn. Tổng thống Ngô Đình Diệm chủ trương xua
đuổi Việt Cộng là chính. Mặt khác Ngô Đình Diệm cho thi hành chính sách ấp chiến
lược để cô lập, không cho tiếp tế cho Việt Cộng. Quân miền bắc vào bị đói khát,
thiếu thốn, chính quyền Sài Gòn sẽ dùng tiền của chiêu hồi họ để họ từ bỏ lý tướng
CS, để họ quay về làm ăn sinh sống bình thường…
Nếu chính quyền
Mỹ tin theo chính sách này của ông Diệm, Mỹ không bị giới Phật tử bị Việt Cộng
gây rối gây nên các cuộc bạo loạn ở Huế, sau này nhiều nhân chứng cho thấy có
bàn tay của Việt Cộng phía sau, gây áp lực thay đổi chính quyền Diệm-Nhu.
Trong giai đoạn
này, có nguồn tin cho hay: đã có cuộc tiếp xúc bí mật giữa Ngô Đình Nhu và Phạm
Hùng ở khu rừng Tánh Linh, Định Quán, Đồng Nai; có thiếp trao đổi chúc tết của
ông Hồ Chí Minh gửi Ngô Định Diệm cùng với một cành đào Nhật Tân được gửi từ Hà
Nội vào Sài Gòn như một sự nhắc nhở giữ linh hồn dân tộc…Đã có sự trao đổi
thông tin qua lại giữa Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm, thông qua trung gian là
Trưởng đoàn quốc tế về Hiệp nghị Giơ-ne-vơ về Việt Nam người Ba Lan.
Có nguồn tin
cho biết: do vị này phản thùng, bán bí mật các thông tin này cho CIA nên buộc Mỹ
phải ra tay, tổ chức đảo chính. Theo một số nguồn tin: Hiện nay vị trưởng đoàn
người Ba Lan này đã xin sang tị nạn chính trị tại Mỹ?
Có nguồn tin
cho rằng: bản thân Tướng Giáp cũng không muốn giải quyết vấn đề thống nhất bắc-nam
bằng một cuộc chiến tranh; Do quan điểm đó mà sau năm 1964, Tướng Giáp bị vô hiệu
và thậm chí còn bị chụp cho cái mũ « xét lại », theo chủ trương « chung
sống hòa bình » của Liên Xô. Tướng Giáp nhiều phen suýt mất mạng vì cánh
thân Trung Quốc trong chính quyền Hà Nội.
Đại tá Lê Trọng
Nghĩa, thư ký, là Cục trưởng Cục 2, người thân tín của Tướng Giáp, Lê Trọng
Nghĩa đã bị bắt và bị ép cung khai ra bằng chứng tố cáo các hành vi theo chủ
trương xét lại Liên Xô của Tướng Giáp, nhưng Lê Trọng Nghĩa đã không phản lại
Tướng Giáp…
Qua một số nhân chứng, sự kiện đó
cho thấy: từ sau năm 1959-1960 không phải không có những nhóm, những bộ óc
trong bộ máy chính quyền của cả nam và bắc có chủ trương: không để chiến tranh
hai miền bắc nam nổ ra, nếu chiến tranh nổ ra sẽ tạo cớ cho Mỹ, Trung Quốc,
Liên Xô nhảy vào, biến Việt Nam thành bãi thử vũ khí húy diệt, tàn phá đất
nước...
Sau năm
1960, thế giới thật sự có sự sự giằng co, vật lộn giữa “phe bồ câu” và “diều
hâu”. Phái bồ câu chủ trương chung sống hòa bình, thi đua hòa bình, chứng minh:
ai thắng ai giữa hai hệ thống chính trị; còn phái kia chủ trương dùng liệu pháp
sốc, ăn ngay bằng sức mạnh của súng đạn…
Do sự hình
thành, xung đột giữa phái nên phía Liên Xô, Khơrutsov bị hạ bệ; ở Mỹ Tổng thống
Kennedy bị ám sát; tại Việt Nam TT Ngô Đình Diệm bị đảo chính; Còn Tướng Giáp
thì ngồi chơi xơi nước…
Trước những
diễn biến của thế sự thế giới, theo người viết bài này, những cái đầu tầm cỡ
như Ngô Đình Diệm, Ngô Đĩnh Như, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp họ có ý thức và
nhận thức nhận ra nguy cơ chảo lửa chiến tranh bị hất vào đầu cổ dân tộc mình,
nhưng họ không làm cách nào thoát ra được như một thứ định mệnh, trước các ván
cờ chính trị bạo tàn, quái ủy của các nước lớn…
Nếu nhìn
nhận như vậy thì chúng ta cũng không nỡ đổ hết trách nhiệm, lỗi lầm cho các
chính khách tinh hoa của thời kỳ đó như: Ngô Đình Nhiệm, Ngô Đình Nhu, Hồ Chí
Minh, Võ Nguyên Giáp…; Không nên quá trách họ không tìm cách tránh được cho dân
tộc cái họa binh đao…Lỗi lầm này không do họ không yêu nước, yêu dân tộc; họ bị
cộng sản Nga Tàu, bị giới diều hâu Mỹ chi phối, dắt mũi…
Họ không
tránh được cho dân tộc cuộc chiến tranh “Việt-Mỹ” mà vào thời điểm này ngay bên
thắng cuộc cũng cảm thấy một chiến thắng vô duyên và quá đắt: hàng triệu người
vui bên cạnh hàng triệu người buồn.
Nếu như Hồ
Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu vào đầu những năm 60 bắt
tay được với nhau, hai miền bắc nam thiết lập nhà nước liên bang theo tinh
thần: Giào làm chị khó làm em; đảm bảo Việt Nam sẽ có những đột biến và sẽ
không kém hơn Đài Loan và Hàn Quốc. Đầu những năm 60, Sài Gòn đã được trầm trồ
là “ hòn ngọc Viễn Đông”. Tưởng Giới Thạch, Lý Thừa Vãn nhìn nhận Ngô Đình Diệm
như một “đại ca” của châu Á…Có liện hệ như vậy mới thấy tội ác của Mao Trạch
Đông, chính y đã kéo lùi sự phát triển của Việt Nam hàng trăm năm.
Do đó, đến
bây giờ ai đó vẫn còn “ ngu trung” tụng ca: tình hữu nghị Việt-Trung do Mao
Trạch Đông dày công vun đắp là là mộ sự tụng ca phản lại sự thật lịch sử, phản
lại lợi ích dân tộc. Sự tụng ca đó là có tội với vong linh của hơn 3 triệu con
dân đất Việt đã bị ngã xuống trong chiến tranh Việt-Mỹ…
Tai họa
chiến tranh Việt-Mỹ do một phần quan trọng do chính giới Bắc Kinh xô đẩy, chi
phối như một thứ “định mệnh” bởi cái nước nhỏ buộc sống cạnh một nước lớn như
Trung Hoa: một quốc gia tồn tại ngàn năm nay cái “văn hóa ăn thịt người- ăn
thịt lẫn nhau” (thuật ngữ thời thượng hiện tại: mổ cướp nội tạng) như nhà văn
Lỗ Tấn đã đúc kết…
P.V.Đ.
Rút từ trong biên khảo:" VỊ XUYÊN & THÉ SỰ VIỆT-TRUNG"
Liên hệ chia sẻ với tác giả qua email: Hoanghtham9@gmail.com
ĐT: 0382598746
Mời xem biên khảo dày 800 trang:
"VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG"
Công trình 10 năm của Phạm Viết Đào gồm các nội dung:
Phần 1: "VỊ XUYÊN KHÚC CA BI TRÁNG"-250 tráng; Nhiều hồi ức, hồi ký, ghi chép về các trận đánh tại chiến trường Vị Xuyên do các Tướng lĩnh, CCB Vị Xuyên, các phóng viên trong và ngoài nước viết...
Phần 2:"TƯ LIỆT MẶT TRẬN VỊ XUYÊN" -250 trang...
Thu thập từ Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước viết, đưa tin về cuộc chiến khốc liệt: Việt Nam huy động 20 vạn quân ( trên 15 sư đoàn) đánh trả, đẩy lui quyết liệt 50 vạn quân Trung Quốc xâm lược( quãng trên 30 sư đoàn của 8/10 đại quân khu) trong giai đoạn 1984-1989
-Phần 3: "THẾ SỰ VIỆT TRUNG" gần 300 trang
Bàn, bình luận về quan hệ Việt-Trung trong 70 năm qua khi hai nước được dẫn dắt bới chủ nghĩa Cộng sản...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét