Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

Bộ quy tắc COC sẽ do Trung Quốc sắp đặt ?Kyodo: ASEAN, TQ ra bản thảo khung pháp lý đầu tiên về an ninh Biển Đông; Trung Quốc thật sự muốn gì ở Biển Đông?




Thanh Phương


mediaBản đổ Biển Đông.DR
Theo hãng tin Kyodo của Nhật, hôm qua, 30/03/2017, các giới chức cao cấp ASEAN và Trung Quốc vừa đưa ra dự thảo khung đầu tiên cho Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trong một cuộc họp ở Seam Reap, Cam Bốt.





Toàn bộ các nước thành viên của ASEAN và Trung Quốc sẽ đem bản dự thảo khung đó về để nghiên cứu, sau đó các quan chức cao cấp sẽ tiếp tục thảo luận tại một cuộc họp vào tháng 5 ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nội dung của bản dự thảo COC hiện vẫn chưa được tiết lộ.
Sau nhiều năm tìm mọi cách để trì hoãn, vào năm ngoái, Trung Quốc đột nhiên tỏ ý muốn hoàn tất các cuộc thương thuyết về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông ngay trong sáu tháng đầu năm nay, nhằm giảm bớt căng thẳng giữa Bắc Kinh với ASEAN do tranh chấp chủ quyền ở vùng biển này.
Bộ quy tắc COC sẽ là một văn bản mang tính ràng buộc pháp lý, để thay thế cho bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC, mà ASEAN đã ký với Trung Quốc từ năm 2002, nhưng không mang tính ràng buộc pháp lý.
Trang mạng của tờ nhật báo đứng hàng thứ hai của Singapore, tờ Today, hôm nay, 31/03, có đăng một bài nhận định về bộ quy tắc COC. Tác giả bài viết là tiến sĩ Termsak Chalermpalanupap, thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore.
Việc Trung Quốc đột nhiên muốn hoàn tất việc soạn thảo bản dự thảo COC trước cuối tháng 6 năm nay đã khiến các nước ASEAN rất hào hứng. Nhưng cái mà Trung Quốc gọi là « dự thảo » thật ra chỉ mới là một khung sườn của thỏa thuận, có thể được trình bày trong vòng chưa tới 60 phút. Phía Trung Quốc hiện chưa cho biết là họ sẽ bổ sung cho khung sườn đó như thế nào để bộ quy tắc COC thật sự có thực chất. Hiện có ít nhất năm câu hỏi chưa có lời giải đáp :
 COC sẽ được áp dụng cho những khu vực nào ?
Đây chính là câu hỏi đã từng khiến các quan chức ASEAN và Trung Quốc « nhức đầu » ngay từ những năm 2001-2002, khi họ bắt đầu bàn về việc soạn thảo COC. Việt Nam đã muốn là phạm vi địa lý áp dụng bộ quy tắc ứng xử này phải bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, nhưng Bắc Kinh cho rằng quần đảo này không còn là nơi tranh chấp chủ quyền nữa, kể từ khi bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm từ tay quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 01/1974.
Lúc đó hai bên đã tạm thời giải quyết bất đồng nói trên thông qua bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông, vì bản tuyên bố này không xác định rõ phạm vi địa lý áp dụng.
Nay vấn đề phạm vi áp dụng lại nổi lên như là một vấn đề nan giải trong cuộc đàm phán về COC. Không phải nơi nào ở Biển Đông cũng cần bộ quy tắc ứng xử. Những quốc gia ven biển được phép làm gì và không được phép làm gì trong phạm vị 12 hải lý và trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý theo quy định của luật pháp quốc tế hiện hành, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ( UNCLOS )?  Cũng không cần những điều luật gì mới cho các vùng biển quốc tế trên Biển Đông.
Phạm vị áp dụng của COC lại càng bị thu hẹp vì các nước tranh chấp nay thỏa thuận với nhau là các tranh chấp song phương có thể được giải quyết bởi hai bên có liên quan trực tiếp. Chẳng hạn như Hoàng Sa là quần đảo chỉ có tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc, hay bãi cạn Scarborough chỉ là nơi tranh chấp giữa Trung Quốc với Philipoines. Cho nên hai nơi này không cần có COC. Bộ quy tắc này có thể sẽ chỉ được áp dụng cho những khu vực và những thực thể nằm chồng lấn lên các vùng có hơn hai bên đòi chủ quyền.
Quy chế của COC sẽ như thế nào ?
Từ lâu ASEAN vẫn muốn là bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông phải là một thỏa thuận mang tính ràng buộc pháp lý quốc tế. Điều này có nghĩa là sau khi ký COC, 10 nước ASEAN và Trung Quốc phải phê chuẩn văn bản này. Sau khi có hiệu lực, bộ quy tắc COC còn phải được đăng ký tại Ban Thư ký Liên Hiệp Quốc. Tiến trình này sẽ kéo dài bao lâu, chưa ai biết được. Hiện giờ, ASEAN thậm chí chưa biết là Trung Quốc có thật sự muốn một bộ quy tắc COC mang tính ràng buộc pháp lý hay không.
Nếu Bắc Kinh thật sự chấp nhận COC mang tính ràng buộc pháp lý, thì họ sẽ đòi có những điều kiện gì và những ngoại lệ nào cho bộ quy tắc ứng xử này ? Nên nhớ rằng khi thông qua Công ước LHQ về Luật Biển, Trung Quốc đã đưa vào đó những ngoại lệ, chẳng hạn như không chấp nhận những điều khoản liên quan đến giải quyết tranh chấp về ranh giới lãnh hải và các hoạt động quân sự, v.v…
COC có các điều khoản dành cho các nước khác ?
Cho tới nay, Trung Quốc vẫn dứt khoát không chấp nhận cho các nước ngoài Biển Đông, nhất là Hoa Kỳ và Nhật Bản, can thiệp vào tranh chấp này. Để cho các nước « bên ngoài »tham gia vào COC chẳng khác gì công nhân những lợi ích chính đáng của các nước khác về hòa bình và an ninh tại các vùng tranh chấp ở Biển Đông.
COC sẽ có những nội dung nào ?
Cả hai bên đều đồng ý là COC phải được soạn thảo dựa trên bản tuyên bố DOC, nhưng không thay thế hoàn toàn DOC. Nếu như thế thì COC phải được xây dựng làm sao để có thể giải quyết những vấn đề mới, chẳng hạn như vấn đề quân sự hóa các thực thể đang tranh chấp. Liệu ASEAN và Trung Quốc có sẽ đồng ý phi quân sự hóa toàn bộ các khu vực và thực thể đang tranh chấp ở Biển Đông ? Nếu được như thế quả là không uổng công của ASEAN từ gần hai thập niên.
Thế nhưng, xác định thế nào là việc quân sự hóa nguy hiểm và không thể chấp nhận được không phải là điều dễ dàng. Trung Quốc có đầy lý lẽ để biện minh cho việc xây các phi đạo cho máy bay quân sự và triển khai các vũ khí  hiện đại trên các đảo nhân tạo. Đối với Bắc Kinh, đó không phải là một « vấn đề ». Theo quan điểm của Trung Quốc, « vấn đề » thật sự ở Biển Đông, đó là việc Hoa Kỳ tiến hành các chiến dịch bảo đảm tự do hàng hải đến sát các đảo mà Bắc Kinh đang chiếm giữ.
Về phần ASEAN thì chắc là sẽ vẫn muốn đưa vào COC cam kết về việc không sử dụng vũ lực, giống như trong COC. Thật ra thì vào năm 2003, Trung Quốc đã gia nhập Hiệp ước An ninh và Hợp tác ở Đông Nam Á, mà hiệp ước này bao gồm các nguyên tắc không sử dụng vũ lực và giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình. Việc Bắc Kinh gia nhập hiệp ước có thể cho thấy là họ không thật sự xem Biển Đông là lợi ích cốt lõi ngang tầm với Đài Loan, Tây Tạng hay Tân Cương, tức là có thể họ sẳn sàng cam kết không dùng vũ lực và giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình.
Một vấn đề mới khác có thể được đưa vào COC, đó là cùng phát triển các vùng tranh chấp ở Biển Đông.
Làm thế nào để buộc các bên thi hành COC ?
Rất có thể là mọi quyết định trong khuôn khổ bộ quy tắc COC sẽ được đưa ra dựa trên đồng thuận giữa ASEAN và Trung Quốc. Điều này có nghĩa là phía Trung Quốc phải hợp tác để bảo đảm cho COC được tuân thủ bộ quy tắc. Nhưng nếu Bắc Kinh vi phạm thì ASEAN có thể làm được gì ?
Về phần Hoa Kỳ thì chắc là họ sẽ tiếp tục tiến hành các chiến dịch bảo đảm tự do hàng hải ở Biển Đông gần sát đảo tranh chấp, vì đối với họ, đó là vấn đề lợi ích cốt lõi. Như vậy là COC sẽ không giúp chấm dứt đối đầu Mỹ - Trung ở vùng biển này.
Tác giả bài viết cũng cảnh báo các nước Đông Nam Á rằng, dù có COC hay không, Bắc Kinh vẫn sẽ tiếp tục làm mọi cách để củng cố vị thế chiến lược của họ ở Biển Đông đối với Hoa Kỳ. Khi nào Trung Quốc đạt được thỏa thuận với Mỹ để trở thành đối tác hữu hảo, họ sẽ chẳng cần đến COC, lẫn tình hữu nghị với ASEAN.

Kyodo: ASEAN, TQ ra bản thảo khung pháp lý đầu tiên về an ninh Biển Đông

Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-China lần thứ 19 diễn ra ở Vientiane, Lào 7/9/2016.
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-China lần thứ 19 diễn ra ở Vientiane, Lào 7/9/2016.
Các quan chức cao cấp của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc hôm thứ Năm đã đưa ra bản dự thảo đầu tiên của một khung pháp lý về bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông, theo các nguồn tin ngoại giao ASEAN nói với hãng tin Kyodo.
Campuchia sẽ chủ trì cuộc họp lần thứ 20 giữa ASEAN-Trung Quốc nhằm thúc đẩy thảo luận thêm về Tuyên bố Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) từ đó có thể dẫn đến việc hoàn thiện khuôn khổ Bộ Quy tắc Ứng Xử (COC).
Kyodo cho biết nội dung của bản dự thảo, vốn được bàn luận trong cuộc họp kéo dài nguyên ngày ở Siem Reap, Campuchia, không được công bố.
Bộ Quy tắc ứng xử sẽ mang lại sức mạnh ràng buộc pháp lý cho Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, được ký kết bởi Trung Quốc và ASEAN năm 2002, trong đó cấm sử dụng vũ lực ở Biển Đông.
Kyodo trích dẫn các nguồn tin ASEAN cho biết trong cuộc họp hôm thứ Năm, Trung Quốc đã đi đầu trong việc trình bày bản phác thảo của riêng mình, tạo nên trãnh cãi nảy lửa từ phía Philippines, Việt Nam và Singapore.
Philippines và Việt Nam, hai nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, bất đồng về một số phần trong nội dung này, theo các nguồn tin.

Trung Quốc thật sự muốn gì ở Biển Đông?

31/03/2017
Tác giả: Bill Hayton
Dịch giả: Song Phan
29-3-2017
Biển Đông. Ảnh: Reuters
Huyền thoại lịch sử, chiến lược quốc phòng và lợi ích kinh tế, tất cả đều có vai trò
Câu hỏi Trung Quốc thực sự muốn gì ở biển Đông ít được nghiên cứu một cách đáng ngạc nhiên ở phương Tây. Có quá nhiều nhà phân tích quốc tế dường như bằng lòng khi đưa ra các giả định về động cơ chiến lược và chiến thuật của Trung Quốc mà không đối chiếu các tuyên bố hay tài liệu của Trung Quốc.
Mối quan tâm của các chiến lược gia Mỹ, đặc biệt về tự do đi lại, an toàn của các đồng minh và duy trì một trật tự dựa trên luật pháp chi phối hầu hết các bài viết/ sách vở tiếng Anh về tranh chấp. Họ rất thường quy chiếu cùng những động lực đó lên “thứ khác” và diễn giải các hành động của Trung Quốc trên cơ sở đó.
Một số tài liệu chính thức của Trung Quốc có thể đọc được, vẽ ra một hình ảnh khác biệt. Sách trắng của Trung Quốc về chiến lược quân sự công bố tháng 5 năm 2015, xác định các mối đe dọa lớn nhất đối với Trung Quốc là “chủ nghĩa bá quyền, chính trị quyền lực và chủ nghĩa can thiệp mới”, và nêu rằng, ưu tiên hàng đầu của quân đội là “bảo vệ sự thống nhất quốc gia [của Trung Quốc], toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của sự phát triển.”
Trong khi các nhà phân tích Mỹ tập trung vào quyền đi lại trên biển Đông như là một phần của “khu vực dùng chung của toàn cầu”, Trung Quốc tập trung vào việc bảo vệ biển Đông như là một phần của lãnh thổ vốn có của Trung Quốc. Nghiên cứu của tôi dấy lên mối nghi ngờ nghiêm trọng về các kể lể lịch sử này, nhưng các nhà phân tích phương Tây cần nghiêm túc hơn nữa, nếu họ muốn hiểu những gì đang thúc đẩy các tranh chấp ở đó.
Mặc dù tiến trình chính trị mờ đục của Trung Quốc gây khó khăn cho việc đánh giá cách lãnh đạo của quốc gia “thật sự” coi biển Đông như thế nào, các văn bản và các tuyên bố chính thức chắc chắn cung cấp một số hiểu biết sâu sắc. Như Ryan Martinson của trường Cao đảng Hải chiến Hoa Kỳ nhận xét, hồi tháng 6 năm 2014 Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định rằng, Trung Quốc phải đặt ưu tiên cao nhất vào việc xây dựng “một bức tường bất khả xâm phạm đối với việc bảo vệ biên giới và đại dương.”
Michael Swaine, thuộc Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, đã lưu ý rằng, Tập Cận Bình đã nhiều lần tập trung vào “sự cần thiết phải duy trì vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, các quyền và lợi ích trên biển và đoàn kết dân tộc, và xử lý đúng đắn các tranh chấp lãnh thổ và hải đảo”.
Danh sách của đô đốc
Trong hồi ký năm 2004 của mình, Đô đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), được xem như là cha đẻ của hải quân Trung Quốc hiện đại, đã liệt kê 6 mục tiêu về biển trong chiến lược của ông về “phòng thủ tích cực vùng biển gần”, bao gồm việc tái thống nhất Đài Loan với đại lục; lấy lại lãnh thổ biển bị mất và có tranh chấp; bảo vệ tài nguyên biển quốc gia; bảo đảm các tuyến đường liên lạc chiến lược của Trung Quốc; ngăn cản hoặc đánh bại bất kỳ cuộc tấn công bằng đường biển nào của nước ngoài; và xây dựng rào cản hạt nhân chiến lược đủ tầm.
Điều có vẻ có ý nghĩa nhất là ba mục tiêu đầu liên quan đến việc “lấy lại” lãnh thổ và kiểm soát tài nguyên biển quốc gia. Đây là bằng chứng cho sự ám ảnh lâu dài của lãnh đạo Trung Quốc với việc làm chấm dứt mối “quốc sỉ” của đất nước.
Mặc dù vậy, phân tích quốc tế về các hành động của Trung Quốc tại biển Đông đã chú trọng quá nhiều vào ba mục tiêu sau – các chủ đề cổ điển của các nghiên cứu hải quân truyền thống và quan hệ quốc tế – nhưng không đúng mức cho ba mục tiêu đầu. Những phân tích như vậy không hiểu được những động cơ chính thúc đẩy chính sách của Trung Quốc.
Hành động của Trung Quốc được dựa vào cảm nhận về quyền nước này được làm chủ (sense of national entitlement) đối với các đảo, các rạn san hô và vùng biển của biển Đông, dựa trên các tài liệu lịch sử khu vực theo chủ nghĩa dân tộc. Cảm nhận về quyền được làm chủ này có thể dẫn Trung Quốc tới việc thực hiện các động thái quyết đoán hơn trong khu vực trong những năm tới – việc sáp nhập mỗi lần một ít các khu vực chiến lược và có nhiều tài nguyên – sẽ dẫn tới đối đầu nhiều nữa.
Những cân nhắc chiến lược rõ ràng là rất quan trọng đối với Trung Quốc. Đối với một nước phụ thuộc vào thương mại, việc tiếp cận đại dương mở thông qua biển Đông là vấn đề có tính sống còn của quốc gia. Nhìn qua ống kính này, có thể dễ dàng lập luận rằng, việc xây dựng đảo của Trung Quốc là một phản ứng phòng thủ trước một chiến lược chiến tranh có thể có trong tương lai của quân đội Mỹ ngăn chận con đường thương mại trên biển.
Trung Quốc đã là nước chuyên nhập khẩu lương thực thực phẩm từ năm 2007, và năm 2013 Trung Quốc đã vượt Mỹ để trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Ngoại thương chiếm khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc, tuy nhiên nước này không có đường ra biển mà không bị cản trở.
Một yếu tố thứ hai cho chương trình “phòng vệ” này là tăng cường chiến lược “chống truy cập / từ chối khu vực” đối với các nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc hậu thuẫn Đài Loan trong trường hợp có xung đột. Các căn cứ trên đảo mới của Trung Quốc gia tăng lớn việc giám sát qua các hệ thống cảnh báo sớm của Trung Quốc, tạo điều kiện dễ dàng theo dõi các mục tiêu tiềm năng hơn và cung cấp những khu trú ẩn phân tán cho tàu chiến và máy bay.
Yếu tố thứ ba là Trung Quốc dự kiến sẽ sử dụng các vùng nước sâu của biển Đông làm căn cứ cho tàu ngầm tên lửa đạn đạo mới, lớp Jin [Tấn]. Sẽ rất dễ dàng để Trung Quốc xây dựng “pháo đài” cho những tàu ngầm này nếu họ có thể kiểm soát bãi cạn Scarborough.
Việc lắp đặt “các trại trên không” lớn và tháp radar trên các đảo nhân tạo mới mà Trung Quốc đang xây dựng, cho thấy chúng sẽ được sử dụng làm cơ sở cho các hoạt động giám sát trên không, trên biển và dưới mặt biển, nhằm tăng cường khả năng bảo vệ tích hợp cho tàu ngầm bên trong pháo đài. Việc xây dựng đảo của Trung Quốc cũng phản ánh mục tiêu ngăn chặn không cho các bên yêu sách Đông Nam Á thực hiện bất kỳ hành động nào có thể ngăn chặn Trung Quốc khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đó.
Người ta đã lập luận rằng hành động của Trung Quốc ở biển Đông là kết quả của một chiến lược lớn, được cấp cao nhất của chính hệ thống chính trị sau khi Tập Cận Bình trở thành lãnh đạo của Trung Quốc vào năm 2012, cho phép. Nhưng có rất nhiều dấu hiệu cho thấy, một số quan chức Trung Quốc ủng hộ một chính sách quyết đoán hơn ngay trước khi Tập Cận Bình nắm quyền.
Điều này dường như phản ánh sự cạnh tranh giữa nhiều bên, trong đó có lực lượng vũ trang trên biển, các ngành công nghiệp đánh bắt cá và các công ty năng lượng nhà nước, vốn được hưởng lợi từ một chính sách biển Đông quyết đoán. Mặc dù những nhóm vận động này đôi lúc đấu đá lẫn nhau, nhưng sức mạnh của các nhóm lợi ích đó rất to lớn khi họ bắt tay với nhau. Một điều mà tất cả bọn họ có thể đều đồng ý là, dù vì lý do dân tộc, an ninh, lợi nhuận hay việc làm, Trung Quốc phải tiếp cận được không gian và các nguồn lực của biển Đông.
Quyền “lịch sử”
Bên dưới các động cơ “phòng thủ” và quan liêu là một phiên bản lịch sử đặc biệt, sô vanh nước lớn. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy ngược lại, quan điểm chính thức của Trung Quốc là chỉ có các tàu thuyền Trung Quốc từng sử dụng biển Đông xưa nay và do đó Trung Quốc có “quyền lịch sử” đối với các vùng biển bên trong đường chữ U. Hồi tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague kết luận rằng, không có cơ sở chính đáng để Trung Quốc khẳng định “quyền lịch sử”, tuy nhiên, lập luận này tiếp tục là nền tảng cho cuộc xung đột đang diễn ra giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á láng giềng.
Nghiên cứu gợi ra mạnh mẽ rằng, yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông đã được phát triển trong nửa đầu thế kỷ 20, như là một phản ứng chính trị trong nước để chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật và châu Âu. Nó xuất hiện ở các giai đoạn trong thời kỳ khủng hoảng năm 1909, 1933 và Thế chiến II. Sự phát triển của yêu sách đó, một phần, là một hành động kháng cự có tính biếu tượng và chính khía cạnh này trong lịch sử của họ vẫn làm cho nó thành một vấn đề đầy cảm xúc hiện nay.
Mỹ và các chính phủ khác đã khôn ngoan giữ trung lập về vấn đề lãnh thổ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ nên bỏ qua nó. Nếu các nhà phân tích bỏ bớt các yếu tố lãnh thổ và chỉ tập trung vào các câu hỏi về chiến lược lớn thì họ sẽ đi tới việc trả lời câu hỏi sai, làm vấn đề biển Đông càng tệ hại hơn. Kết quả cuối cùng, như khu vực đã nhiều lần nhìn thấy, là tranh chấp. Tranh chấp này không thể giải quyết được bằng các biện pháp xây dựng lòng tin hoặc việc phô trương lực lượng hải quân. Nguyên nhân gốc rễ của cảm nhận về quyền được làm chủ của Trung Quốc cần phải được giải quyết.
Chính sách của Trung Quốc đối với biển Đông phản ánh một cảm xúc bất bình mà những đấu thủ khác trong các tranh chấp thường không đánh giá cao. Trung Quốc tin rằng họ đang chỉnh lại cho đúng những sai trái gây ra cho họ trong những thập kỷ trước. Theo quan điểm của Bắc Kinh, những bước lấn tới của họ ở biển Đông là biện minh được bởi vì họ đang đòi lại lãnh thổ “bị mất”.
Hoang tưởng lịch sử
Bắc Kinh tin rằng bất kỳ hành động của một cường quốc nước ngoài cố cản trở việc thống nhất lãnh thổ quốc gia – dù đó là một cuộc tuần tra hải quân hay một toà trọng tài quốc tế, phải bị chống lại, bởi vì đó chỉ đơn giản là một màn diễn khác trong một lịch sử lâu dài về mưu toan của nước ngoài chia cắt tổ quốc Trung Quốc.
Mặc dù những kể lể lịch sử chính thức của Trung Quốc rõ ràng là có nhiều vấn đề, điều quan trọng là phải nhận ra rằng ý thức về sự chính đáng mà nó tạo ra cho việc hoạch định chính sách của Trung Quốc có thể dẫn đến xung đột hơn nữa. Nếu các nhà hoạch định chính sách ở Hoa Kỳ và những nơi khác không nhận ra được sức mạnh thúc đẩy của những kể lể lịch sử và tính mệnh lệnh về lãnh thổ của Trung Quốc, thì họ sẽ không hiểu được các mục tiêu của Trung Quốc.
Cả ngoại giao lẫn đối đầu đều sẽ không làm giảm động lực thúc đẩy phía sau các hành động của Trung Quốc ở biển Đông. Mặc dù việc sử dụng vũ lực có thể cản trở những bước lấn tới của Trung Quốc, nó cũng sẽ làm tăng cảm giác thất vọng và kích động những đòi hỏi bên trong Trung Quốc về một phản ứng quyết đoán hơn. Các tranh chấp chỉ có thể được giải quyết thật sự qua việc làm suy yếu ý thức chính đáng của Trung Quốc và điều đó đòi hỏi phải vạch trần việc sử dụng gian lận các bằng chứng lịch sử và thách thức phiên bản lịch sử sai lệch của họ.
Lý do chiến lược của việc Trung Quốc duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ ở biển Đông – bảo vệ bờ biển, các tuyến đường biển và ngăn chặn hạt nhân – sẽ còn bền vững. Nhưng các lập luận của họ cho việc kiểm soát độc quyền các nguồn tài nguyên biển và quyền điều chỉnh giao thông thì lại dựa trên các kể lể lịch sử lệch lạc và có thể bị thách thức.
Vì đây là hai vấn đề có nhiều khả năng gây xung đột, thách thức chúng, hơn là đáng [để cân nhắc]. Hoàn toàn có thể giữ trung lập về mặt chính trị đối với vấn đề lãnh thổ, trong khi vẫn khẳng định rằng, các yêu sách của Trung Quốc thiếu những bằng chứng có thể kiểm chứng được. Tất cả các nước có lợi ích trong việc giải quyết hòa bình, các tranh chấp biển Đông cần phải xem xét một cách nghiêm túc hơn về mặt lịch sử và khẳng định rằng những yêu sách thiếu hậu thuẫn không phải là cơ sở để đối thoại và giải quyết xung đột.
Đối với khu vực châu Á và trên thế giới, sự tham gia không thể thiếu của các chuyên gia về Trung Quốc và các nhà hoạch định chính sách về cơ sở của các kể lể của họ về biển Đông là bước thiết yếu đầu tiên. Các nhà đối thoại với các quan chức Trung Quốc phải tự vũ trang mình các bằng chứng đó, để thách thức các kể lể lịch sử không có thật và sẵn sàng sử dụng chúng trong các cuộc thảo luận. Trong 20 năm qua, tất cả các bằng chứng này ngày càng dễ dàng tìm thấy. Đã đến lúc sử dụng chúng.
Bill Hayton là một nhà nghiên cứu tại Chatham House và là tác giả của cuốn sách The South China Sea: The Struggle for Power in Asia” (Biển Đông: Cuộc tranh cho giành quyền lực ở châu Á) Bài báo này dựa trên một bài giảng sẽ trình bày tại Đại học Tokyo ngày 6 tháng 4.

Không có nhận xét nào: