Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Chuyện tình nhà văn Phan Tứ: Uẩn khúc nào cản trở trách nhiệm của một người đàn ông?


BLA (Trần Hồng Phong): Hôm nay tôi tình cờ đọc trên trang Facebook của cô giáo dạy văn, nguyên hiệu trưởng một trường trung học phổ thông tại miền Trung vừa nghỉ hưu (vì lý do tế nhị, xin không nêu tên), dẫn lại một bài viết vừa đăng trên báo Giáo dục thời đại ngày 24/8/2016 có tiêu đề "Nỗi buồn Út Phận". Bài viết nói về số phận buồn tủi thiệt thòi của hai mẹ con một người phụ nữ có tên là Võ Thị Phận. Thật bất ngờ khi đây chính là một "nhân vật" trong tác phẩm văn học thuộc dòng văn học cách mạng rất nổi tiếng của cố nhà văn Phan Tứ: Mẫn và Tôi. Mẫn và Tôi là cuốn tiểu thuyết về tình yêu nam nữ và/trong lý tưởng cách mạng, từng làm say mê cả một thế hệ ở miền Bắc XHCN trước năm 1975, với hai nhân vật chính là người con gái tên Mẫn và "tôi" tên Thêm - chính là một phần chân thực của mối tình "lén lút" (có thể nói như vậy) giữa bà Võ Thị Phận và nhà văn Phan Tứ trong giai đoạn khói lửa chiến tranh. 

<- Bà Võ Thị Phận với chiếc nhẫn mà theo lời bà là của nhà văn Phan Tứ (ảnh báo Quảng Nam)

Theo thông tin trong bài báo, được biết mối tình giữa bà Võ Thị Phận và nhà văn Phan Tứ từng có một thuở thật sự đắm say, đẹp. Mà kết quả là hai người đã có với nhau một mụn con (nay là anh Phan Thế Huẫn). Thế nhưng nhà văn Phan Tứ, cho đến khi qua đời vào năm 1995, tức là mãi 20 năm sau ngày đất nước thống nhất, đã/vẫn không chính thức công khai và nhận/thừa nhận con trai và người yêu của mình.

Tìm hiểu thêm, tôi được biết câu chuyện của bà Võ Thị Phận thực ra không phải tới năm 2016 này mới lần đầu được công khai trên báo chí, mà đã từng được nhắc đến từ những năm 2009, 2011, 2014 ... trên nhiều tờ báo khác. Chẳng hạn như hai bài (link) dưới đây:
Đọc xong bài báo này, tôi thấy lòng thẫn thờ một lát và ... buồn quá!

Vẫn biết rằng chắc chắn phải có uẩn khúc gì đó, mà nhà văn Phan Tứ đã không chính thức nhận con, nhận người yêu, không thực hiện trách nhiệm của một "người đàn ông" như lẽ ra phải vậy (Nếu xét về mặt pháp luật thuần túy, thì nhà văn Phan Tứ phải có trách nhiệm này: trách nhiệm nhận và nuôi dưỡng con).

Chúng ta hiện nay không trực tiếp trải qua và sống trong hoàn cảnh chiến tranh, nên chắc chắn không cảm nhận hay thấu hiểu hết thế nào là lý tưởng cách mạng, thế nào là sự "hy sinh" cho đất nước, tổ quốc tại thời điểm những năm 1960-1970. Trên thực tế, đã có trường hợp mẹ phải giết con để bảo vệ bí mật, an toàn cho người khác. Đây là thời mà chỉ cần yêu một cô gái biết ăn mặc đẹp, bôi son môi ... cũng có thể bị quy chụp là "biến chất", "tiểu tư sản" và bị đồng chí khinh rẻ (như chuyện tình yêu vừa chớm nở giữa chàng trai Paven và cô "tiểu thư" xinh đẹp Tonia, trong tác phẩm văn học Nga Thép đã tôi thế đấy). Do vậy, tôi không nghĩ và cũng không có quyền quy kết hay nhận định theo hướng bất lợi cho nhà văn Phan Tứ.

Tuy nhiên trong lòng mình, tôi cho rằng nhà văn Phan Tứ đã hành động (hay không hành động) không/chưa tương xứng với tư cách của một người đàn ông thực sự. Tôi cho rằng 20 năm sau chiến tranh, không có lý do khách quan nào có thể ngăn cản việc ông nhận con, nhận người yêu một cách chính thức, công bằng và hợp đạo lý. Vì sao? Vì nhà văn Phan Tứ là một CON NGƯỜI chứ không phải bậc thần tiên. Vậy thì việc ông yêu và có con với một phụ nữ, bất luận thế nào, là chuyện hết sức bình thường, bản năng, và chỉ làm cho ông thật hơn, người hơn mà thôi.

Tôi cũng chép lại dưới đây những lời bình luận từ trang facebook của cô giáo văn hiệu trưởng mà tôi giới thiệu ở phần đầu, để mọi người có cái nhìn toàn diện hơn.

Cuối cùng, tôi muốn nói Phan Tứ là một nhà văn mà tôi từng yêu thích. Hầu hết các tác phẩm của ông tôi đều đã đọc và hiện đang có trong tủ sách gia đình tôi. Tuy nhiên sau khi đọc bài báo dưới đây, tình cảm mà tôi đã dành cho ông giảm đi khoảng 50% hay thậm chí nhiều hơn nữa.

.................


Nỗi buồn Út Phận

Thứ Tư, 24/8/2016 07:07 GMT+7

Bà Võ Thị Phận (sinh năm 1939, thôn Tịnh Sơn, xã Tam Mỹ Tây, H.Núi Thành, Quảng Nam) được biết đến là nguyên mẫu nhân vật Mẫn trong tiểu thuyết “Mẫn và Tôi” của nhà văn Phan Tứ. 

Nhờ duyên may, chúng tôi được ông Nguyễn Tám (sinh năm 1938, thôn 9, Tam Hiệp, Núi Thành) đưa đến thăm bà. Trên đường đi, khi nói chuyện về bà, ông Tám đều gọi bằng cái tên Út Phận, như ngày còn chiến chinh cũ…

“Cây chò xanh một gốc hai thân”

Năm 1961, nhà văn Phan Tứ được điều về Ban Tuyên huấn khu ủy khu V, hoạt động tại Tứ Mỹ - Kỳ Sanh. Ông Tám khi ấy là Bí thư chi bộ của xã giải phóng đầu tiên ở Quảng Nam này. “Lúc căn cứ đóng tại khu Thượng, tôi có dựng cho anh Bốn Gương (biệt danh của Phan Tứ) một cái chòi để anh có chỗ viết văn.

Tôi nhớ có lần, anh Bốn nhận được thư của người thân từ Bắc gửi vô, dài 21 trang pơ-luya, tôi nói anh cho tôi đọc với, anh bảo một viên đạn từ Bắc gửi vô tốn bảy ký gạo, thì một lá thư của người thân không thể tính được bao nhiêu giá trị, nên muốn đọc thư anh, phải cho anh đọc nhật ký của tôi, để anh có thêm tư liệu viết văn” – ông kể.

Hồi đó, Út Phận là cán bộ phụ nữ xã, gặp Phan Tứ giữa đường cáng thương; một tháng sau, ông Tám dẫn Phan Tứ vào nhà cha bà, nói xã gửi nhờ một thời gian. Cuối năm 1961, Út Phận học lớp đào tạo cán bộ hợp pháp tại Quảng Ngãi, đầu năm 1962 học tiếng Mỹ tại xã, Phan Tứ là người đứng điểm dạy. Cùng gắn bó hoạt động và công tác, tình yêu nảy nở giữa hai người lúc nào không hay, trong thầm lặng, giữa chiến tranh..

Những địa danh Tam Sa, Tam Trân, Lộc Chánh, làng Cá... trong tiểu thuyết “Mẫn và Tôi” đều in dấu ấn vùng đất Tứ Mỹ, Tam Mỹ… và khu vực giáp ranh Chu Lai bây giờ. Nhân vật Thiêm cũng mang hình ảnh của chính Phan Tứ. Nhân vật bé Hoàn có nguyên mẫu là đứa em nuôi của Út Phận, tên là Võ Sầm.

Út Phận không tin nổi Phan Tứ ghi chi tiết về bà như vậy, trong đó có chuyện Mẫn tính khi nào Thiêm đi xa, sẽ chặt đốt ngón tay út cho Thiêm làm kỷ niệm. Tình yêu như “cây chò xanh một gốc hai thân” (chữ Phan Tứ) ấy được Phan Tứ nâng niu: “Người yêu tôi thích nhất bông bạc, cô khuyên tôi đừng bao giờ ngắt, nó chỉ đẹp khi vùng vẫy giữa nước chảy xiết”.

Ai biết, khi gắn hình ảnh Út Phận với bông bạc, Phan Tứ đã vô tình ghép thành hai chữ “bạc phận”.

Bông bạc giữa dòng

Cũng như trong tiểu thuyết, Phan Tứ đâu nhắc đến chuyện 2 người có với nhau một đứa con. Đấy là vào năm 1963. Út Phận nhớ: “Sinh con ra, ảnh bảo tui đặt họ cho con là Phan hay Lê chi cũng được; tui chọn Phan còn tên là Uẩn do cha tui đặt, bởi nó là đứa con uẩn khúc, sau khó kêu quá nên đặt là Huẩn.”

Con được 6 tháng, Út Phận cùng chị hàng xóm bế lên cho Phan Tứ gặp, Phan Tứ gắn vào ngón chân cái của con một chiếc nhẫn vàng, dặn: “Em giữ, khi nào khó quá thì bán”; bảo thêm: “Nếu không gặp lại, anh sẽ làm một cái gì đó để người ta biết chuyện chúng mình”.

Đoạn cuối tiểu thuyết: “Dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình lại gặp nhau, có phải lúc này em đang quấn quýt bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ đẩy ngón tay đặt lên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa dòng” – độc giả sẽ không ngờ đấy là cái vẫy tay của vĩnh biệt, chứ đâu phải cái vẫy tay của chào nhau. Để lần nhìn mặt tiếp theo, Út Phận chỉ được nhìn Phan Tứ qua di ảnh.

Năm 1995, tang lễ của Phan Tứ tổ chức tại Đà Nẵng, phía gia đình Phan Tứ có mời Út Phận cùng con ra dự. Một vành khăn tang chuẩn bị sẵn cho Phan Thế Huẫn - con trai của Phan Tứ và Út Phận. Huẫn cầm di ảnh cha mình theo đoàn người tiễn cha…

Năm 1969, Út Phận chuyển qua Ban Binh vận tỉnh. Từ giữa năm 1967 đến đầu năm 1971, bị địch bắt, đày tại nhà lao Quảng Tín. Ra tù tiếp tục hoạt động.

Nhưng vào ngày 25/2/1975 xảy ra sự kiện: Một cán bộ cách mạng bị địch mật phục sát hại tại địa phận Tứ Mỹ. Út Phận bị nghi làm tay trong cho địch, bà bị bắt giam. May nhờ có các lãnh đạo sáng suốt và một số đồng chí, đồng đội hoạt động cùng, hiểu rõ Út Phận nên đã đứng ra minh oan cho cô.

Ông Lê Tư Đặng (hiện trú tại thị trấn Núi Thành), thời đó là Chủ tịch UBND kiêm Trưởng ban An ninh huyện Nam Tam Kỳ, người chịu trách nhiệm bắt giam Út Phận, kể lại: “Hiểu rõ oan ức của Út Phận không ai bằng tôi. Mấy đồng chí cơ sở cấp báo lên nên tôi phải tạm giam, nhưng qua điều tra kỹ lưỡng, mới hay đã giam nhầm người.

Hồi đó, địch ráo riết dùng thủ đoạn để làm phía ta nghi kị lẫn nhau. Phần nữa Út Phận không hề mở miệng khẳng định cha của con mình là ai, nên nhiều người mặc định sẵn ý nghĩ cô có quan hệ với ngụy quân từ trước đó. Tôi quyết định ngay thả Út Phận, và tôi không nhầm. Sau giải phóng tôi lục hồ sơ của địch có ghi Út Phận là tay cộng sản cứng đầu”.

Đã được giải oan ngay, nhưng đến nay, Út Phận đã hơn 15 lần làm đơn hồ sơ đề nghị xét thành tích tham gia hoạt động kháng chiến chống Mỹ tại UBND xã Tam Mỹ mà không được giải quyết; trong hồ sơ có xác nhận của ông Can, ông Đặng, ông Tám cùng rất nhiều người nữa là đồng chí của bà.

Ngay cả công an huyện Núi Thành, vào năm 2001, đã có văn bản xác nhận bà hoàn toàn trong sạch. Ấy thế, trong hồ sơ lí lịch, Út Phận vẫn bị ghi là kẻ hai mang; cậu con trai mấy chục năm công tác ngành GD vẫn rất vất vả về lý lịch, lại chưa được bên nội công nhận là con, là cháu.

Cả ông Tám, ông Đặng khi nói về chuyện của bà đều rưng rưng cảm xúc, thậm chí đôi lúc nghẹn lời. Còn bà, bà chỉ ngồi lặng lẽ như nghe chuyện của ai.

Chiếc nhẫn ngày xưa Phan Tứ trao cho được bọc trong mấy lớp vải, bà đem ra cài vào ngón tay, nói: “Theo cách mạng là tôi tự nguyện, cũng không đòi hỏi gì. Tuổi gần đất xa trời, chỉ mong chính quyền cho tui cái giấy chứng nhận tui đã tham gia cách mạng, để tui chứng minh với mọi người tui không phải kẻ hai mang”.

Rồi bà như nói với chính mình: Sau giải phóng hai năm, Bốn Gương có về Tứ Mỹ, đã đến gần đầu con dốc cách đây mấy cây số, không hiểu sao quay ra, biệt luôn”, nói đến đây, bà bật khóc…

Có phần tiếp theo nào của tiểu thuyết có thể ghi ra những tiếng thổn thức này. Có câu ca nào buồn hơn câu ca mà Mẫn từng hát cho Thiêm nghe: Ngó qua chín bãi mười đồng/ Biển xanh xanh lắm mà không thấy người/ Mênh mông con nước xa vời/ Biết ai còn nhớ những lời ngày xưa...

Thành Dũng

...............

Thông tin tham khảo:

Ý kiến trên facebook:

- “Cuốn này em đọc ít nhất 5 , 6 lần vì thời đó không có gì đọc . Hình ảnh cô du kích Mẫn và a Thiêm rất sâu đậm đến giờ . Thật là đáng buồn cho cách xử sự của đồng đội một thời với nhau”.

- “Giận nhiều nhất là cái "anh Thiêm" ấy em à. Lẽ ra ông ấy phải có trách nhiệm làm rõ uẩn khúc”


- “Chị nghĩ " Cô Mẫn" lỡ yêu rồi thì biết làm sao, lai chiến tranh nữa...Cô lặng lẽ khi " anh Thiêm" không làm rõ cho cô thật sự là rất tự trọng... Chắc là cô chỉ buồn vì một thời trong sáng...”.


- “Đọc xong thấy buồn quá! Uẩn khuất và tình người”


- “Thực ra, nhà văn Phan Tứ cũng như Mẫn và Tôi của ông không phải là thần tượng văn học mà mình ngưỡng mộ. So với các nhà Văn, nhà Thơ cách mạng khác thì Phan Tứ cũng như Mẫn và Tôi không xuất sắc lắm của văn học Việt Nam về mảng đề tài này, và càng không thể so được với những tác phẩm văn học khác trên thế giới, nhất là văn học Nga - Xô viết như: Thép đã tôi thế đấy, Chúng tôi sẽ sống như đã chết, Con đường đau khổ, hoặc Ruồi Trâu... Song. Đây là cuốn tiểu thuyết về đề tài chiến tranh đọc được bởi sự tác động của nó đối với thế hệ thanh niên miền Bắc lúc bấy giờ, nói riêng và thanh niên Việt Nam, nói chung đối với cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam. Mẫn và Tôi đã góp phần làm cho hàng vạn thanh niên trí thức miền Bắc gác lại nhưng giấc mơ giảng đường đại học để cầm súng chiến đấu với một quyết tâm sắt đá là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Công lao của nhà văn Phan Tứ đã được cách mạng ghi nhận, được nhiều thế hệ thanh niên ngưỡng mộ. không ít người đã thần tượng. Nhưng với việc chối bỏ một mối tình cách mạng (đẹp và có thật của chính bản thân mình và kể cả việc có một đứa con trai, kết quả của một tình yêu đẹp như thế) - mình coi là rất đẹp với bà Út Phận như trong bài viết. Trong khi ông hoàn toàn có quyền, có điều kiện để đến đáp lại cho Bà và chăm xóc cho người con của chính mình một cách bình thường mà ai cũng ủng hộ. Nhưng ông đã không làm điều này. Một thần tượng của bao người đã không còn, mình cũng rất giận, tiếc cho ông quá. Giờ ông đã mất, không thể phỏng vấn ông để giải mã câu hỏi vì sao. Nhưng với tư cách là một người đàn ông, thì riêng việc này thôi mình không thể chấp nhận được. Thương cho bà Út phận, cũng là thần tượng của bao người, đã hy sinh cả tuổi xuân cho cách mạng, yêu và thương, thậm trí có con với nhà văn và chính mình làm hình mẫu cho một trong hai nhân vật chính của một tác phẩm văn học thành công lại có một kết cục quá đắng cay”.


- “Thất vọng quá anh nhỉ. Vậy mà cô ấy không trách một lời. Thương và cảm phục cô ấy quá anh ạ”


- « Thương và yêu cô! »


- « Khi Phan Tứ mất, người con trai của Út Phận có ra và đc người cô cho để tang cha chị ạ , còn sau đó em cũng đọc nhiều mà kg thấy thông tin gì. cuốn tiểu thuyết mỗi lần đọc là 1 lần đẫm nước mắt. cũng một phận người mà sao khổ vậy chị nhỉ »


- “Đau lòng quá em à”


- “Ai ngờ Phan Tứ tệ thế ! Mà ...có lẽ có chết ông ấy cũng không thành ma được . Mình cũng một thời ...mê cặp đôi này ...”


- “Buồn và thương quá”


- “Thật là trớ trêu. Trách cái ông nhà văn quá. Viết hay mà làm dỡ. Tội nghiệp một đời Út Phận”

“Một sự thật quá đau lòng !. Giá nhà văn Phan Tứ sống lại để sám hối về việc thiếu trách nhiệm với một người con gái mà một thời ông đã yêu và sống? . Cô Út Phận sau đó có gia đình riêng của mình ko hả các bạn ?”


- “Em đã đọc cuốn này nhiều lần, yêu nhân vật này lắm, vẫn nhớ câu "má em thơm mùi mít chín", cảm nhận một tình yêu nồng nàn. Vậy mà.. thương bà thật nhiều”.

.....................

bài trên báo Quảng Nam:

Hoài thương một phận người

Thứ Bảy, 28/03/2015, 10:08 [GMT+7]

Nước mắt không còn chảy nữa. Nó đã khô hay lặn sâu vào nếp mặt già nua. Trọn cuộc đời, người phụ nữ ấy bươn bả đi tìm cho mình một danh phận. Tôi vẫn ước, giá nước mắt bà có thể rơi thêm, có lẽ cuộc đời này đỡ đau hơn…

Ở ngay trên một ngọn đồi, bao bọc xung quanh đồng bãi, ngôi nhà - đã từng một thời ông Bốn Gương ăn ở, đánh giặc và cả viết văn. Ở cái tuổi lặng lẽ của một kiếp người, bà Võ Thị Phận – vẫn rắn rỏi từng câu từ, mỗi khi nhắc chuyện xưa, cái thời bà vác súng tham gia đánh giặc ở vành đai Chu Lai - Núi Thành. Vùng đất ác liệt Tứ Mỹ - Kỳ Sanh thuở nào, giờ đã tươi màu sự sống, với cánh đồng xanh và những dòng nước trong, không phải “những con sông không tên, màu nâu, đỏ bầm, vàng đất sét lần lượt thu hình, chảy chậm dần, tan trong biển nước gạo đang cạn dần, đứt thành nhiều vũng bùn sền sệt, để lại từng bãi đá duỗi về phía Đông”… (Mẫn và tôi, Phan Tứ)


Chuyện xưa, của hơn 50 năm về trước. Năm 1971, “Mẫn và tôi” ra đời. Nhưng cuộc gặp của Mẫn và Thiêm, là ông Bốn Gương và cô Phận ngoài đời, thì đã bắt đầu từ năm 1960. Nhiều người nói, “Mẫn và tôi” là mối tình đẹp nhất của thời kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Nhiều người cắc cớ, lấy cái gì chứng minh Mẫn là Phận và Thiêm là Phan Tứ. Lịch sử có cách lý giải để tìm căn nguyên, dù sớm hay muộn. Phải hơn 10 năm sau ngày cuốn sách ra đời, theo lời bà Phận, bà mới biết mối tình của mình đã đi vào văn chương. Và cũng chỉ biết loáng thoáng vậy thôi. Bởi những người nhận ra Út Mẫn – chính là cô Phận của Tam Mỹ Tây, cũng đồng thời nhận ra những cái tên như Tam Sa, Tam Trân, Lộc Chánh… chính là quê hương của vành đai Chu Lai – Núi Thành, là khu Tứ Mỹ - Kỳ Sanh ác liệt thuở nào. Những đồng đội cùng thời với ông Bốn Gương – Phan Tứ, với bà Phận, cũng là chứng nhân để người đời sau khẳng định chắc nịch nguyên mẫu Út Mẫn – là Võ Thị Phận. Nhưng mãi từ thuở còn là cô gái tuổi 18, kinh qua bao nhiêu lằn ranh sinh tử, đến bây giờ, tuổi đã gần 80, bà Phận - vẫn một mình trong những cơn bão đến từ quá khứ.

Năm 1960, Phan Tứ vào chiến trường Tứ Mỹ - Kỳ Sanh. Mãi đến năm 1965, ông mới đi hẳn, theo điều động của cấp trên. Tình yêu nảy nở trên miệng hầm tránh địch ngay trong ngôi nhà cha mẹ bà. Tình yêu của trai gái thời chống Mỹ, lúc nào cũng đặt Tổ quốc lên đầu. “Khi sinh thằng Huẩn, ổng nói với tôi muốn lấy họ gì. Tôi nói anh còn đó, thì theo họ anh. Chừng nào anh bỏ tôi đi hẳn, anh không coi tôi tồn tại, thì con mới lấy họ tôi. Ổng nói, rứa họ Phan và Lê đó, chọn họ nào cũng được”. Rồi bà cười. Lại nói tiếp: “Mà công nhận ổng nhớ dai thiệt. Ổng bu mấy chị tui hỏi chuyện thời kháng chiến, đánh giặc ra sao, rồi ngồi viết. Tui đọc “Mẫn và tôi”, có nhiều chi tiết mình không nghĩ ổng nhớ tới vậy”, bà lại cười. Nụ cười làm sáng bừng gương mặt người già. Tôi đồ rằng, nụ cười này đến từ những kỷ niệm hạnh phúc. Tình yêu ấy, có lẽ đủ mặn mà để bà Phận, bất chấp bao nhiêu gian truân, một mình nuôi con. Người con duy nhất sinh năm 1963, khoảng thời gian Phan Tứ vẫn còn ở Kỳ Sanh.

“Số phận tôi sao, ai cũng nói ông Bốn Gương khó trần ai. Vậy mà ổng lại ưa mình”. Cô Út Mẫn – của thuở ấy, với gương mặt trái xoan trắng xanh, thân hình dẻo và thon, hơi mảnh khảnh… và bây giờ, đã 79 tuổi, vẫn giữ lại những nét đẹp thiên phú thời trẻ. Duy chỉ có đôi mắt, thăm thẳm buồn. Bà nói chuyện với chúng tôi, giọng sắc sảo, miệng cười, nhưng sao cái khóe miệng và khóe mắt chẳng ăn nhập gì với nhau. Những sóng gió đời bà, chừng như ai mê “Mẫn và tôi” đều biết. Bởi cái nguyên mẫu văn học đẹp như thơ ấy, vin vào cuộc đời, lại gặp nhiều bất trắc. Chiếc nhẫn ông Bốn Gương lén đeo vào ngón chân cái con trai, giờ bà còn giữ. Giữ như một kỷ vật của cuộc đời mình. Giữ còn hơn giữ sự sống cho mình. Nhưng đã hơn 50 năm, bao lần bà cùng con trai nuôi hy vọng bằng những chuyến kiếm tìm, cho tới ngày ông mất, bà vẫn chưa một lần nhìn lại được gương mặt ấy. Ông Huẩn, con trai bà Phận, đã chít vành khăn tang cha, ngày Phan Tứ mất. Nhưng danh phận của người phụ nữ này, vẫn là một nỗi hoài mong, từ thẳm sâu lòng bà. “Con trai với 2 đứa cháu nói, không cho bà nội làm gì nữa hết. Thằng Hoàng nói, con cố gắng học thật giỏi, để người ta biết tên con, rồi con kể chuyện bà nội. Thôi thì rứa…” - nghe giọng, chừng vẫn quạnh quẽ lắm!


SONG ANH

Theo Báo Quảng Nam, ngày 12.5.2014, thì bà Võ Thị Phận hoàn toàn có đủ điều kiện được hưởng chế độ chính sách đối với người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công cách mạng và Nghị định số 31/2013/NĐCP ngày 9.4.2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Tuy đã nhiều lần gửi đơn kiến nghị đến các cấp tổ chức, nhưng đến nay, bà Phận vẫn chưa nhận được bất cứ chế độ chính sách nào đối với người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày.
.....................

Phan Tứ 

Nhà văn Phan Tứ (1930-1995) là một nhà văn Việt Nam và đã được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học đợt II năm 2000.

Ông tên thật là Lê Khâm, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1930 tại thị xã Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông là người con thứ tư và cũng là người con trai duy nhất trong gia đình có 7 người con. Thân sinh ông là ông Lê Ấm (1897-1976), từng làm Đốc học ở trường Quốc học Huế. Mẹ của ông là bà Phan Thị Châu Liên (1901-?), tục gọi là cô Đậu, vốn là con gái đầu của nhà Chí sĩ Phan Châu Trinh.

Sự nghiệp văn chương

Tuy sinh ở Bình Định nhưng suốt thời niên thiếu, Phan Tứ lại sống ở quê cha ở Quế Phong, Quế Sơn, Quảng Nam. Vốn sinh trong gia đình có truyền thống học giỏi, ông từ nhỏ đã khá giỏi về môn văn và tiếng Pháp. Năm 15 tuổi, ông đã tham gia hoạt động trong đội tuyên truyền xung phong của tỉnh Quảng Nam và tham gia cướp chính quyền ở địa phương trong Cách mạng tháng Tám.

Năm 1950, ông nhập ngũ, theo học Trường lục quân Trần Quốc Tuấn, phân hiệu Trung Bộ (Cồn Kênh, Thọ Xuân, Nông Cống, Như Xuân, Thanh Hóa). Cuối năm 1951, sau khi tốt nghiệp, ông được phân công theo đội quân tình nguyện Việt Nam sang chiến đấu ở chiến trường Hạ Lào. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Năm 1958, ông theo học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cũng năm này, ông đã viết cuốn "Bên kia biên giới" với bút danh Lê Khâm, viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam tại Hạ Lào. Năm 1960, ông lại giới thiệu cuốn "Trước giờ nổ súng" với cùng đề tài trên. Cả 2 quyển sách được đánh giá cao, và ông trở thành một nhà văn tên tuổi thời bấy giờ khi mới vừa tròn 30 tuổi.

Sau khi tốt nghiệp năm 1961, ông được phân công trở lại công tác tại chiến trường Miền Nam, làm phái viên tuyên truyền khu ủy Liên khu V, ủy viên đảng đoàn Văn nghệ khu 5, và viết văn dưới bút danh Phan Tứ. Bút danh này trở nên nổi tiếng gắn liền với các tác phẩm của ông về sau này. Do sức khỏe yếu và chịu ảnh hưởng bởi tác động của chất độc hóa học, năm 1966 ông được rút ra Bắc để chữa bệnh, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, sau đó giữ chức quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Năm 1970, ông được kết nạp làm hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Sau năm 1975, ông về sinh sống và làm việc tại quê hương Quảng Nam. Ông từng là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn, Ủy viên Ban Thư ký (Ban thường vụ) Ban chấp hành Hội Nhà văn khóa III.

Ông qua đời đột ngột lúc 10 giờ 5 phút ngày 17 tháng 4 năm 1995 tại thành phố Đà Nẵng, khi còn dang dở bộ tiểu thuyết "Người cùng quê".

Ông từng là Đại biểu Quốc hội khóa 8, và đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng:

Huân chương Độc lập hạng Ba
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba,
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất

Các tác phẩm tiêu biểu

Bên kia biên giới (tiểu thuyết, 1958, tái bản 1978)
Trước giờ nổ súng (tiểu thuyết, 1960)
Trở về Hà Nội (truyện ngắn, 1960)
Trên đất Lào (bút ký, 1961)
Nhật ký chiến trường (di cảo, viết bằng 4 thứ tiếng Việt, Lào, Pháp, Nga)
Về làng (1964)
Trong đám nứa (truyện ngắn, 1968)
Gia đình má Bảy (tiểu thuyết, 1968, tái bản 1971, 1972, 1975)
Măng mọc trong lửa (bút ký, 1972, 1977)
Mẫn và tôi (tiểu thuyết, 1972, 1975, 1978, 1987, 1995)
Trại ST 18 (tiểu thuyết, 1974)
Trong mưa núi (hồi ký, 1984, 1985)
Sông Hằng mẹ tôi (dịch từ tiếng Pháp, tiểu thuyết Ấn Độ, 1984, 1985)
Người cùng quê (tiểu thuyết 3 tập, 1985, 1995, 1997, chưa hoàn thành)

Các giải thưởng

Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu
Giải thưởng 30 năm (1945 - 1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng;
Giải thưởng văn học loại A mười năm (1985 - 1995) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.

(Theo Wikipedia)

Không có nhận xét nào: