26/08/2016
26-8-2016
7h tối 18/8, bão số 3 đổ về đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội mưa trắng
trời. Tôi chống nạng xuống tầng một, thấy nước… cống hòa nước mưa đã ngấp nghé
dềnh đến nửa đùi, tất cả các xe máy đậu bên tường khu tập thể đều ngập bánh
trong làn nước đen. Rác trôi lều bều.
Yên chí rằng không có nhân viên an ninh hay dân phòng nào dại gì
đội mưa giờ này để theo dõi “phản động”, tôi lội ra đường gọi taxi. Trời mưa
vốn là dịp để taxi hốt khách, nhưng cũng lại là những lúc rất nguy hiểm cho tài
xế, vì gió mạnh, mưa xối xả làm mờ kính, rất khó nhìn đường, cây đổ bất ngờ, và
người đi xe máy thì phóng nhanh vượt ẩu. Phải mất tới 45 phút tôi mới gọi được
một chiếc taxi, và mất thêm một tiếng vòng vèo nữa mới đến được nhà Đình Hà,
đón thằng em. Hai chị em hối hả ra bến xe buýt, mua vé vào Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Tội
nghiệp thằng em lỉnh kỉnh máy móc, ba-lô. Đồ gì nó cũng phải cầm hết, vì bà chị
hai tay hai nạng, không tự mang được cái gì.
“Chuột bạch” Hoàng Thành thì đến tối hôm sau mới vào tới nơi,
lúc bão đã tan, nên thoát được trận mưa thối đất thối cát.
Mưa suốt đêm, gió ào ào thổi bên ngoài, cửa kính ô-tô nhòe nước.
Nếu theo “tiêu chuẩn Mỹ”, thì chắc những chuyến xe như thế này là rất nguy
hiểm, người dân được khuyến cáo không nên đi đâu cả. Nhưng đây là Việt Nam, nơi
tính mạng con người vốn bị coi là chẳng đáng giá (ông tướng công an Nguyễn Văn
Hưởng còn răn là nhân quyền Việt Nam khác nhân quyền Mỹ kia mà). Và chúng tôi
cũng muốn tranh thủ vào khu vực Vũng Áng ngay lúc mưa bão, để tránh bị những kẻ
mà ai-cũng-biết-là-ai theo dõi, quấy rầy. Thật ra, theo dõi hay bắt về đồn ngồi
cả ngày đều quá nhẹ; chỉ phiền nhất là những kẻ đó hay có thú bẻ tay, giật lấy
máy ảnh, điện thoại chụp hình và máy ghi âm của chúng tôi, thậm chí cả laptop,
rồi đập máy, hoặc cướp sạch thẻ nhớ. Mỗi lần như vậy là coi như mất hàng chục
triệu đồng; đồ càng chuyên nghiệp càng mất nhiều tiền, chưa kể nỗi đau xót lớn
nhất là mất tư liệu.
Chúng tôi vào Vũng Áng còn vì một lý do nữa: Đã bỏ lỡ dịp ở đó
vào những ngày căng thẳng nhất của thảm họa cá chết (cuối tháng 4, đầu tháng 5
năm 2016), là nhà báo, chúng tôi không muốn và không thể tiếp tục ở lì Hà Nội
để nghe thông tin qua nền truyền thông méo mó của Việt Nam thời mạt. Một khối
truyền thông đầy định kiến và những quan niệm sai lệch, chỉ cam phận hết minh
họa đường lối chính sách lại làm công cụ cho các phe phái đánh đấm. Kèm với hai
thứ đó là những thông tin vỉa hè, cái mà người ta truyền miệng, rỉ tai cho
nhau, kể cả tán oang oang ngoài quán cóc cũng có, sặc sụa mùi thuyết âm mưu,
kiểu như: Dự án Formosa rồi sẽ bị mua lại bởi một bọn còn kinh khủng hơn bọn
Formosa Đài Loan bây giờ, bọn này có đủ lực chi phối cả Bộ Chính trị cơ, lúc
đấy dân Việt mới chết đấy!
Đến khi người nghe hỏi: “Bọn ấy là bọn nào?”, thì câu trả lời
luôn là: “Tuyệt mật. Không nói được đâu”.
Tôi khá khó chịu mỗi khi bị những thông tin kiểu đó lọt vào tai,
và luôn phải cố gắng để kiềm một câu muốn bùng khỏi miệng: “Cảm ơn vì tất cả
các thông tin tuyệt mật. Tôi chỉ thắc mắc, tại sao những thông tin đó lại là
tuyệt mật, tại sao chúng không được công bố trên báo chí Việt Nam?”.
Nhưng biết đâu họ đúng? Cũng như điều này luôn luôn đúng: Ở bất
cứ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào, nếu báo chí bị bóp nghẹt, thì thông tin vỉa
hè sẽ lên ngôi. Đừng trách người dân “bầy đàn”, “cảm tính”, “không hiểu biết”.
KỲ SAU: NỖI BUỒN CỦA BIỂN
Kỳ 2: NỖI BUỒN CỦA BIỂN
27/08/2016
27-8-2016
Tiếp theo kỳ 1: CÁ CHẾT VÀ NỖI ÁM ẢNH
VỀ TƯƠNG LAI
Khoảng 7h sáng hôm sau (19/8), chúng tôi tới xã Kỳ Lợi, Kỳ Anh,
Hà Tĩnh. Cảnh tượng ngay lập tức đập vào mắt tất cả mọi người đến nơi đây, là
khu kinh tế Vũng Áng rộng mênh mông chạy dọc chân trời, với những ống khói
trắng-đỏ đang nhả khói vào mây. Đó là ban ngày, còn xế chiều, khi Vũng Áng lên
đèn, bạn sẽ thấy hàng chuỗi hàng chuỗi đèn điện hồng xen lẫn với ráng hồng của
bầu trời. Đến đêm tối thì Formosa thật sự trở thành một “vương quốc” sáng rực
ánh điện, đèn lấp lánh, chi chít như sao sa, tương phản với bên kia đường là
đồng cỏ và khu nhà dân tiêu điều, tối mò. Nếu bạn vào xóm Cũ, nơi 183 hộ dân
vẫn cương quyết trụ lại, không chịu di dời, thì sẽ thấy cảnh tượng còn hoang
tàn nữa, với những đống gạch vụn, những nhà cửa đã bị đập bỏ chỉ còn trơ cột
kèo, khung sắt…
Nói Formosa Vũng Áng đã trở thành một “vương quốc”, một xứ sở tự
trị, cũng không sai. Dân địa phương phản ánh, kể từ tháng 5/2014 sau khi xảy ra
bạo loạn Vũng Áng (mà cho đến giờ, thủ phạm thực sự – kẻ giật dây tất cả – là
ai, vẫn là một bí mật), công nhân viên người Đài Loan, Trung Quốc không ra khỏi
khuôn viên Formosa nữa. Họ ở luôn bên trong, nơi có đầy đủ siêu thị, trung tâm
mua sắm, khu ăn uống, thể thao, giải trí… và nhà máy nhiệt điện riêng để cung
cấp hệ thống điện riêng. Bao xung quanh, ngăn với bên ngoài là dãy tường dài
hàng kilomet, trên có gắn mảnh chai, sành, và nhất là một hàng rào điện. Nội
bất xuất, ngoại bất nhập, người ra vào Formosa phải có thẻ quẹt, mà sau 15 ngày
không tác động gì vào thẻ thì nó sẽ tự hủy.
Nhân viên làm việc bên trong không được phép quay phim, chụp
hình. Đó là lý do chúng tôi không có được bức ảnh nào về Formosa nhìn từ phía
trong, dù đã gặp một số người từng làm nhân viên cho các nhà thầu của tập đoàn
này. Tất nhiên, vẫn luôn tồn tại khả năng cho việc những nhân viên người Việt
của Formosa bí mật tuồn dữ liệu ra bên ngoài, tuy rất nguy hiểm cho họ. Nguyên
tắc “bảo vệ nguồn tin” cần được các blogger, các nhà báo công dân tuân thủ chặt
chẽ.
Trong khuôn viên Formosa, có hàng chục tòa nhà cao tầng, được
cho là văn phòng cũng như nhà ở của nhân viên. Tại một tòa nhà như thế, nằm sát
tường rào, gần mặt đường, người ta thấy cả dàn radar trên mái. Một chiến sĩ
đóng quân trên địa bàn Kỳ Anh, với chuyên môn về tác chiến điện tử, nói với
chúng tôi rằng tầm nhìn của radar này có thể vươn tới 80 hải lý (khoảng 145
km). Người lính này cũng bảo, ở trong tầm nhìn của radar, “mình làm bất cứ cái
gì, Formosa cũng thấy hết”. Nhưng ngược lại, chẳng một ai biết họ đang làm gì
trong cái vương quốc của họ.
Hoàng Thành ngạc nhiên: “Thế là mình phải chịu thế à?”.
Cậu lính trẻ đáp: “Thì phải chịu chứ sao. Không ai được vào
trong đó hết. Chắc khi nào có chuyện gì cần giúp đỡ thì Formosa sẽ nhờ, nhưng
cũng chỉ công an là được phép vào bên trong thôi, bộ đội thì không”.
Mấy người dân địa phương nhiệt tình cho chúng tôi ngồi vào
thuyền thúng, chèo ra nơi đậu ghe, rồi đưa ghe ra sát khu vực cảng Sơn Dương và
kè đá chắn sóng của Formosa. Sơn Dương là cảng nước sâu, độ sâu 11m, nước một
màu xanh thẫm, không thấy đáy. Chiếc ghe trở nên rất mỏng mảnh. Sóng to, dâng
cao cả mét, bọt biển liên tục bắn vào ống kính. Đình Hà và Hoàng Thành cứ phải
loay hoay đứa chụp ảnh, quay phim, đứa che chắn nước, và cố để không làm ghe
mất thăng bằng. Vẫn theo “tiêu chuẩn Mỹ”, lẽ ra không ai được lên thuyền mà
không có áo phao. Nhưng ở đây là Việt Nam; cả ba đứa chúng tôi đều im tiệt, coi
như không có chuyện gì xảy ra. Đến chỗ này, vào thời điểm này mà còn hỏi ngư
dân về áo phao và trang thiết bị an toàn lao động thì thật là lố bịch.
Công trình cảng Sơn Dương vẫn đang được xây dựng giữa biển, gần
đảo Sơn Dương. Còn trên bờ, bãi cát vắng hiu hắt, không một bóng người. Hàng
chục con thuyền phủ vải nằm trơ. Cách đây mới nửa năm, nơi đây còn vui lắm. Mỗi
chiều khi tàu cá về, bà con ào ra đón, hò nhau kéo ghe lên bờ cát, có trông
thấy mới hiểu thế nào là niềm vui “cá bạc đầy khoang”. Trẻ con thì ríu rít chơi
đùa, đá bóng.
Bây giờ khác rồi.
Xế chiều, khi ghe của chúng tôi trở về, một vài phụ nữ ở trong
xóm trên bờ cũng chạy ra đón, giúp kéo ghe lên bãi. Nhưng trong khoang… trống
huếch trống hoác. Không có gì cả. Và chúng tôi cảm thấy đắng ngắt: Vẫn tiếng hò
ấy, vẫn những giọng nói chào đón ấy, vẫn những động tác quen thuộc ấy của dân
biển ngàn đời nay, song có cái khác hoàn toàn, là không còn niềm vui “thuyền
anh mãi về cho cá bạc đầy khoang” (*) nữa. Những nụ cười trở nên vô cùng gượng
gạo.
Sao biển buồn đến thế?
Đến lúc này tôi mới phát hiện có một vết rách ở bàn chân phải,
và nó đang rỉ máu, sưng lên. Vài tiếng sau thì nó nhiễm trùng, sưng húp, mỗi
lần lỡ chạm phải quai dép đều đau điếng người. Không hiểu vì sao chỉ từ một chỗ
trầy xước mà nó thành ra như vậy. Đình Hà kết luận chắc nịch: “Hoặc do nước
cống Hà Nội, hoặc do nước biển nhiễm chì, bác chọn đi!”.
Lại báo hại người dân địa phương chở tôi ra trạm xá, để y sĩ –
soeur Vân – sát trùng và băng vết thương lại. Soeur nói nước biển ở đây rất
bẩn, độc, nhiều người lặn về thấy khó thở, nhức đầu, ít nhất cũng thấy mệt mỏi.
“Thôi thì chắc cũng như nước cống Hà Nội” – tôi nghĩ.
Chúng tôi ăn chiều cùng bà con. Mâm cơm có trứng, rau, một đĩa
tôm và một bát canh đầu cá. Ai cầm bát đũa lên cũng nói như phân trần: “Không
phải tôm, cá Vũng Áng đâu nhé”, ý là bảo chúng tôi đừng lo phải ăn hải sản
nhiễm độc. Nhưng làm gì còn tôm cá nào ở vùng này nữa mà lo. Cả hai thứ đều là
đồ nhập khẩu. Chỉ biết thở dài khi ở giữa xứ làm nghề biển, ở ngay sát bờ biển,
mà phải ăn hải sản nhập từ nước ngoài.
(Còn nữa...)
———
(*) Lời bài hát nổi tiếng của dòng nhạc đỏ, “Tình ta biển bạc đồng
xanh”, do nhạc sĩ Hoàng Sông Hương (bố đẻ ca sĩ Mỹ Lệ) sáng tác năm 1973
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét