Nhà thơ Ngọc Bái
(Nguyên
Chủ nhiệm Văn hóa-Văn nghệ Quân khu 2)
Cuộc chiến này được ví như hai kẻ bí mật trùm chăn đánh nhau, không trong cuộc không thể biết tường tận. Cuộc chiến tại chiến trường Vị Xuyên nhiều năm không được phép tuyên truyền…Đấy là điều khó hiểu?!
Cuộc chiến này được ví như hai kẻ bí mật trùm chăn đánh nhau, không trong cuộc không thể biết tường tận. Cuộc chiến tại chiến trường Vị Xuyên nhiều năm không được phép tuyên truyền…Đấy là điều khó hiểu?!
Cuối năm 1985, tôi làm Chủ nhiệm Văn hóa
Văn nghệ Quân khu 2; Là cán bộ thuộc phòng Tuyên huấn, tôi được phân công lên
trực chiến ở tiền phương Hà Giang. Sống ở ngay bản doanh Quân khu 2 mới thấy
nhiều chuyện khá phức tạp. Cán bộ tập hợp từ khắp nơi. Trình độ hiểu biết không
đồng đều. Có người từ bộ đội địa phương tới, chưa va chạm với chính quy. Có
người điều động từ Tổng cục Cục chính trị về…
Không có gì đáng nói nếu không được
chứng kiến “chiến tranh” ngay trong giai đoạn đất nước đang hòa bình. Không
nhiều người biết về cuộc chiến tranh ở Vị Xuyên (trừ những người lính thuộc
Quân khu 2).
Trung Quốc đã tấn công cao điểm 1509 vốn
là lãnh thổ Việt Nam từ 28/4/1984. Năm 1984 là năm lính Trung Quốc tấn công
khắp các huyện biên giới Hoàng Xu Phì, Vị Xuyên, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn và
Mèo Vạc thuộc tỉnh Hà Giang. Chúng chiếm một phần xã Thanh Thủy, thượng nguồn
sông Lô. Rồi chúng bắn pháo thường xuyên vào huyện Vị Xuyên và nhiều nơi khác.
Nghi chỗ nào có quân ta là chúng bắn!
Từ cây số 4 trở về trung tâm thị xã Hà
Giang “tương đối” thanh bình, vì có lần chúng bắn cả vào chân cầu Yên Biên.Vừa
tới Hà Giang, tôi và anh Phạm Ngọc Đoàn đã có chuyến đi lên cao điểm 1.100,
chứng kiến trận giữ chốt của một đại đội chống trả quân Tàu khi chúng tràn từ
cao điểm 1.200 xuống. Lính ta có người bị thương, nhưng lính Tàu một số chết
nằm dưới hẻm núi Yên Ngựa. Đấy là trận giữ chốt tiêu biểu, dập tắt ý đồ lấn
chiếm của quân Tầu.
Bộ đội mình thiếu thốn quá. Anh em phải
chui vào hầm chốt để mót từng sái thuốc lào. Tôi đã viết bài ghi chép tại trận
với tựa đề: “Trên đỉnh cao nghìn mốt”
in báo Quân đội Nhân dân ngày 27/2/1987. Tôi chạnh nghĩ: Máu xương chả tiếc, mà
sao vẫn có những người “xử ác” với
chiến sĩ thuộc cấp? Đã khổ đã đói, còn bị hành tỏi đủ thứ, có bao giờ họ hối
hận không?
Tôi đã nhiều lần chứng kiến những tình
huống thật sự bi thương cả lúc thường và cả lúc xảy ra chiến trận. Có lần, cùng
anh Nguyễn Đác, Cục phó Chính trị và anh Phạm Ngọc Đoàn lên đồn biên giới Bạch
Đích. Ô tô u-oát đi trong mù sương, mò mẫm giỏi lắm là 12 cây số một giờ. Chúng
tôi nói với nhau: Nếu bị phục kích thì chắc chẳng ai thoát chết. Có lần, đi
cùng phóng viên AFP của Pháp và phóng viên Asahi Shimbun của Nhật, đến làng
Pinh, để họ tận mắt thấy cảnh đạn pháo của quân Tàu bắn sang đất Việt Nam.Có lần, chứng kiến cảnh tai nạn khủng
khiếp, xe chở đạn làm sập cầu Gạc Đì, các lái xe đều chết trong buồng lái giữa
sông, chiều ngày 1 Tết (1987).
Có lần, lên chốt 812 cùng nhà báo Nguyễn
Thắng Lợi, được Tiểu đoàn trưởng Thắng (người Nghệ An) chỉ dẫn cho từng vị trí
quân Tàu, đối mặt với cầu Thiên Bảo. Vậy mà nửa tiếng sau, Thắng bị một quả
pháo bắn ép xác vào hào bê tông, chết ngay tại chỗ. Vợ con Thắng ở Nghệ An đâu
có hay cảnh tượng ấy.
Nhưng hú vía nhất là chuyện tôi suýt bị
đạn pháo ở Cầu Chéo, đi từ Làng Pinh ra. Trời tối, lái xe Văn Hồng đưa tôi đi. Xe
không được bật đèn pha, chợt lù lù trước mặt là chiếc xe Gát chạy ngược chiều
của Trung đoàn 266 chở đấy ắp lính, cách khoảng 10 mét mới nhận ra nhau. Lái xe
Văn Hồng theo phản xạ nháy đèn, thế là pháo của Trung Quốc bắn sang ngay tức
khắc. Hồng lái xe liều mạng nhấn ga, về tới cây số 4 chắc an toàn mới dám bật
đèn.
Những ngày ở tiền phương Vị Xuyên-Hà
Giang, tôi không thể quên những buổi giao ban chỉ huy, khắp các đơn vị báo về
những tổn thất, những sự cố khó lường, những tai ách mà người lính phải trải
qua. Có lần lính ở hậu cứ ban đêm đang tập quân sự, nghe tiếng suối lũ đổ, chỉ
huy vừa lệnh cho bộ đội ngừng tập thì lũ quét tràn tới, mấy chiến sĩ đi sau
chưa kịp qua suối đã bị lũ cuốn mất tích mang theo cả súng đạn.
Có lần được thay quân, về hậu cứ sửa lại
lán trại, phải trèo những cây cọ cao để lấy lá lợp lán trại, chả may có chiến
sĩ ngã chết ngay tại gốc cây. Có lần xe chở thương bị lật…Chỉ người lính âm
thầm biết những tình huống đau đớn ấy.
Ở chốt H 1-H3: Ta và lính Tàu thỏa thuận không bắn nhau
Có câu chuyện khó tin mà là sự thật: Ở
giữa nơi chiến sự ác liệt, hai bên hở ra là bắn nhau chí tử, vậy mà ở chốt H1
và H3 lính ta và lính Tàu “chơi” với nhau “hòa bình”.
H1 và H3… là mật danh quân sự chỉ lính
ta mới biết. Lính Tàu thường gửi cho lính ta thuốc lá, bia giải khát “Vạn Lực”
và cả mì trứng nữa. Lính ta thì gửi cho lính Tàu hộp cá nhãn hiệu Ô-đét-xa
(Liên Xô cũ giúp). Lính Tàu rất thích ăn loại cá này. Hai bên “chơi” với nhau
thời gian hàng tháng, chỉ huy tiểu đoàn, trung đoàn mới biết.
Lúc ấy, Đại tá Trần Văn Vững, Cục phó
Chính trị đang trực ở tiền phương, bảo tôi phải nghiên cứu hiện tượng này. Tôi
cùng thiếu úy Văn Thanh, người Phú Thọ, vừa tốt nghiệp khóa tiếng Trung, mới
điều về làm trợ lý Tuyên truyền đặc biệt (địch vận). Chúng tôi lên Cốc Nghè,
gặp Sư đoàn phó Nguyễn Đức Cam và anh Nguyễn Văn Được- Sư đoàn trưởng 356 (sau
này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng). Các anh hướng dẫn tôi và Thanh
đến gặp Trung đoàn trưởng Hoàng Đình Năng (người Y Can-Trấn Yên-Yên Bái) để cử
người đến chốt H3.
Anh Năng cử trinh sát viên tên là Nguyễn
Văn Hiền (quê Phú Thọ) hướng dẫn tôi lên chốt. Hiền bảo: Lính Tàu rất ghét quân
ta mặc áo chít gấu (loại áo sĩ quan hay mặc thời ấy) và quần áo rằn ri. Các chú
phải mặc quần áo chiến sĩ nhem nhuốc như cháu, thì bọn Tàu không bắn.
Tôi và Thanh mượn quần áo chiến sĩ và
thực hiện đúng chỉ dẫn của Hiền. Khoảng 5 giờ chiều, qua “cửa tử”, rồi lội qua
con suối lính đặt tên là “suối oan hồn”; Chúng tôi đi qua một dông núi, đến
vùng núi đá lởm chởm, qua khúc quành, chúng tôi đến H5 là nơi chỉ huy của Tiểu
đoàn trưởng. Gặp một chiến sĩ gác ở cửa hang đá, tôi hỏi: “Tiểu đoàn trưởng chỗ
nào?”. Anh chiến sĩ chỉ tay xuống cửa hang nhỏ, hướng dẫn tôi: “Chú dùng tay bấu vào phía trên mấu đá, co
người lại, dùng chân dò đường, thấy ánh sáng đèn tù mù, Tiểu đoàn trưởng của
cháu đang ở đó!”.
Vào hang, tôi gặp Tiểu đoàn trưởng xưng
tên là Nguyễn Văn Hà, tóc dài đến vai, râu ngang ngực, trông thật dữ tướng. Tôi
bảo: Sao râu tóc ghê thế?
Tiểu đoàn trưởng phân trần: “Mỗi ngày chúng em có 4 lít nước, lấy từ
suối, lính leo dốc ngót chục cây số mới thồ được nước về. Vừa dùng làm nước nấu
ăn, nước uống, vừa đánh răng rửa mặt, chả đủ nước tắm giặt, cho nên chờ mấy
tháng nữa, xuống hậu cứ tắm gội, cắt tóc cạo râu cả thể”.
Tôi ở trên chốt ba ngày. Tại chốt, tôi
được Hà nói cho biết: H1 vốn là đất của Việt Nam, bọn Tàu chiếm, chỉ cách H3
chừng 5 mét. Sáng đầu tiên, tôi bảo Hà cho tôi quan sát trực tiếp cảnh lính
mình liên lạc với lính Tàu.
Tiểu đoàn trưởng Hà hướng dẫn tôi nấp
sau mỏm đá, nhìn rõ chốt H1 bọn Tàu chiếm giữ. Tôi thấy khá rõ một lính (bên
ta) vòng ra sau chốt H3, ném một viên đá lên chốt H1. Chỉ lát sau, hai tên lính
Tàu, đều mặc quần lót và cũng cởi trần nhem nhuốc như lính ta, nhô đầu lên.
Lính Tàu và lính ta ném thức ăn cho
nhau. Tôi bảo Thanh viết cho lính Tàu mấy câu, nội dung là: “Chào các bạn! Hôm nay là ngày “bát nhất”. Bộ
đội Việt Nam chúc ngày “kỷ niệm” của các bạn. Nhưng các bạn có biết rằng các
bạn đang đóng chiếm trên đất Việt Nam không?”.
Lá thư được lính H3 gói vào viên đá, ném
lên H1. Lúc sau, lính Tàu trả lời: “Chào các bạn! Cảm ơn các bạn chúc ngày “bát
nhất” của chúng tôi. Chúng tôi biết đây là đất Việt Nam, nhưng chừng nào quân
đội Việt Nam rút quân khỏi Cam-pu-chia thì chúng tôi rút quân khỏi đây!”.
Rất tình cờ, khi xuống làng Pinh, gặp
ngay Thiếu tướng Văn Duy, Cục trưởng Cục Tuyên truyền đặc biệt, và Đại úy –
dịch giả Vũ Công Hoan (người Thái Bình, Hội viên dịch thuật của Hội Nhà văn VN
sau này), các anh chăm chú nghe tôi kể về chuyện lên chốt. Tướng Văn Duy nói
đại ý, chủ trương ta cần làm dịu tình hình ở mặt trận Hà Giang, làm sao bộ đội ta
bớt đổ xương máu. Những điều tôi cung cấp rất kịp thời, để Cục Tuyên truyền đặc
biệt có căn cứ báo cảo Tổng cục Chính trị cân nhắc.
Anh Vũ Công Hoan dịch cho tôi những bài
thơ và truyện ngắn đăng ở tạp chí Côn Lôn và tạp chí Quân Giải phóng Trung Quốc
của các tác giả Lưu Gia Khôi và Trần Đào, các bài viết mang giọng điệu phản
chiến. Tôi nghĩ, ở Việt Nam mình những bài văn, bài thơ nội dung như thế rất
khó in, dù rằng viết trung thực!
Tôi có phận sự báo cáo những thu hoạch
khi đến H3. Tôi nói với Đại tá Vững và Thiếu tướng Lê Duy Mật, phó Tư lệnh phụ
trách Tiền phương rằng: “Không có chuyện
chính trị gì ở trên chốt H3 đâu. Chốt H1 và H3 chỉ cách nhau gang tấc. Lính ta
và lính Tầu đều là con em lao động. Gần cái chết quá thì họ phải tìm cách tồn
tại. Đấy là bản năng. Họ tấn công mình thì họ chết. Ngược lại cũng vậy…”
Tôi nói với tướng Lê Duy Mật, nghiên cứu
tâm lý lính Tầu, họ cũng có bộ phận ghét chiến tranh, ta thử không thèm bắn họ,
xem họ ứng xử thế nào. Quả nhiên, chốt nào ta không bắn họ, họ cũng không bắn
ta. Dẫu sao vẫn phải đề phòng bản tính lá mặt lá trái của người Tàu. Cảnh giác
không bao giờ thừa, đấy là điều thực tế đã chứng tỏ. Giữa năm 1988, tình hình
mặt trận Vị Xuyên bớt căng thẳng. Cũng là dịp tôi trở về Yên Bái.
Khi xuống hậu cứ gần Vĩnh Tuy (Hà Giang)
thay quân, gặp Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Hà, đầu tóc gọn gàng, tôi thấy anh
thật trẻ trung. Tôi hỏi lính chốt H3 vì sao lại liên lạc với lính Tầu? Chiến sĩ
H3 trả lời rằng: “Ở quê có người em trai
bị bệnh vừa câm vừa điếc, làm gì đều phải ra hiệu. Hôm ra ngoài sửa công sự H3,
gặp lính Tầu, anh ra hiệu đừng bắn. Hắn gật, thế rồi hắn gửi cho mấy chai bia,
thử không thấy độc. Vậy là cho nhau ăn. Không bắn nhau”…
Là người đã từng ở Vị Xuyên, tôi biết
nhiều chuyện tử tế, nhưng cũng biết nhiều người thâm hiểm độc ác. Chẳng hạn, có
người triệt để tận dụng sức lính để làm lợi cho mình. Có những người nghiễm
nhiên thu hái chiến công của người khác. Nếu không có cuộc chiến tranh ngoài
mong muốn, thì con người ta đỡ đi nhiều những điều vô nhân tính, để lại di
chứng có hại sau này…
Kết thúc đời lính của tôi, vào tháng
9/1988, ngày 21/6/1988, tôi đã chọn về Hoàng Liên Sơn, sau khi đã tham khảo ý
kiến của vợ. Tôi lang bang trong quân ngũ đủ rồi. Cũng phải về với quê hương,
sau gần 24 năm làm lính. Trước khi ra quân, tôi viết bài thơ “Đôi điều về người lính”, Nhạc sĩ Văn
Dung phổ nhạc: “…Trên mọi yêu thương và
mọi buồn lo/ làm sao anh có thể vượt qua cái chết/ tất bật và ung dung như một
lần về phép/ chen chúc ga tàu bình thản như không”.
Chiến tranh lâu dài nhiều người chết
thảm, hao tiền tốn của, kiệt quệ tài chính, khủng hoảng tinh thần. Hậu quả
chuốc thù gây oán, thói xấu nảy nở, tranh đoạt thành thói quen, con người không
còn sợ máu đồng loại. Sau cuộc chiến càng rõ. Độc lập Tự do là chuyện lớn lao,
còn cụ thể có bao kẻ cơ hội hưởng hết phần những người tử tế.
Lý giải sự chịu đựng những năm khoác áo
lính, tôi nghĩ mình cũng là người “bội
thực lý tưởng” như bao bạn bè khác. Chỉ tiếc thời gian nhiều lúc bị phung
phí, không lấy lại được. Viết những điều sự thật, không phải ai cũng thấu hiểu.
Biết rằng chỉ nói được một phần nhỏ đời người, nhưng tôi không muốn làm mất
thời giờ người đọc. Có thể coi đây là tư liệu riêng, chả ích gì cho ai. Nhưng
tôi viết cho tôi. Viết sự thật. Không ngại gì thô tháp…
N.B.
VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG
bạn đọc có nhu cầu chia sẻ xin liên hệ với tác giả qua:
Email: Hoanghtham9@gmail.com
ĐT 0382598746
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét