Cập nhật lúc 19:03, Thứ năm, 06/08/2020 (GMT+7)
(Thanh tra) - Chiều ngày 6/8, Thanh tra Chính phủ (TTCP) công bố kết luận thanh tra một số nội dung đối với Dự án Nhà máy Nhiệt điện (D.A NMNĐ) Thái Bình 2 và việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại số 69 Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.
Dự án NMNĐ Thái Bình 2. Ảnh: Internet
Hàng loạt sai phạm tại D.A
Theo TTCP, D.A NMNĐ Thái Bình 2 được Thủ tướng Chính phủ giao Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) làm đầu mối đầu tư theo Văn bản số 913/VPCP-CN ngày 14/02/2008 của Văn phòng Chính phủ.
Sau khi PVN là chủ đầu tư D.A, ngày 11/10/2011, PVN và Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) đã ký hợp đồng tồng thầu EPC D.A, giá trọn gói là 1.200 triệu USD.
Ngày 26/5/2011, Hội đồng Thành viên (HĐTV) PVN có Quyết định số 4626/QĐ-DKVN phê duyệt điều chỉnh D.A, tổng mức đầu tư (TMĐT) theo phê duyệt D.A điều chỉnh là 34.295,1 tỷ đồng. Sau khi D.A được bổ sung vào danh mục các D.A nguồn điện cấp bách giai đoạn 2013 - 2020, ngày 04/10/2016, HĐTV PVN có Quyết định số 6175/QĐ-DKVN phê duyệt TMĐT điều chỉnh (lần 2) với giá trị là 41.799,1 tỷ đồng; ngày 16/7/2017, PVN và Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) đã ký Phụ lục hợp đồng số 26 điều chỉnh giá trị hợp đồng là 948,6 triệu USD và 10.709.879 triệu đồng.
Ngày 5/8/2020, Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 6393/VPCP-VI thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình đối với Kết luận thanh tra một số nội dung đối với D.A NMNĐ Thái Bình 2 và việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại số 69 Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.
Đồng ý với kiến nghị tại Kết luận thanh tra số 1325/KL-TTCP ngày 4/8/2020 của TTCP, Phó Thủ tướng Thường trực chỉ đạo Bộ Công thương, Bộ Tài chính, UBND TP Hà Nội, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, PVN, PVC theo chức năng, nhiệm vụ tổ chức triển khai kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định pháp luật đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có những vi phạm, khuyết điểm được chỉ ra.
TTCP chuyển kết luận thanh tra đến Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng để xem xét, xử lý theo thẩm quyền đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến khuyết điểm, vi phạm được nêu tại kết luận.
|
Trong quá trình thanh tra, TTCP đã chỉ ra hàng loạt sai phạm cụ thể như việc thông qua chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư D.A NMNĐ Thái Bình 2, PVN và Bộ Công Thương lại đề xuất Thủ tướng Chính phủ quy đổi TMĐT D.A về mặt bằng giá năm 2006 là 18.495,5 tỷ đồng để không trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao Hội đồng Quản trị (HĐQT) PVN quyết định đầu tư D.A trong khi D.A NMNĐ Thái Bình 2 được Hội đồng Thẩm định của PVN thẩm định có TMĐT 31.505,4 tỷ đồng tại thời điểm quý II/2010, trong đó vốn chủ sở hữu là 30%; trước ngày 1/8/2010, đây là D.A, công trình quan trọng quốc gia, do Quốc hội xem xét, thông qua chủ trương đầu tư.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2, Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 66/2006/QH11, ngày 29/6/2009 của Quốc hội: D.A, công trình có quy mô vốn đầu tư từ 20.000 tỷ đồng trở lên, trong đó sử dụng từ 30% vốn Nhà nước trở lên là D.A, công trình quan trọng quốc gia; Quốc hội xem xét và thông qua nghị quyết về chủ trương đầu tư đối với D.A, công trình quan trọng quốc gia.
Về thẩm định, phê duyệt quyết định đầu tư D.A, trước ngày 1/8/2010, D.A là công trình quan trọng quốc gia, do đó thẩm quyền thẩm định phê duyệt, quyết định đầu tư D.A thuộc Thủ tướng Chính phủ sau khi được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư.
Thế nhưng, trong khi D.A chưa được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, HĐQT PVN lại căn cứ Công văn 800/TTg-KTN do Phó Thủ tướng Chính phủ ký và hồ sơ thẩm định D.A của PVN để phê duyệt quyết định đầu tư D.A (sau thời điểm Quốc hội ban hành Nghị quyết số 49/2010/QH12 ngày 19/6/2010 và trước thời điểm Nghị quyết này có hiệu lực).
Ngoài ra, trong quá trình đầu tư D.A, PVN có Quyết định 4626/QĐ-DKVN ngày 26/5/2011 phê duyệt điều chỉnh D.A lần 1 với TMĐT từ 31.505,4 tỷ đồng thành 34.295,1 tỷ đồng và Quyết định 6175/QĐ-DKVN ngày 04/10/2016 phê duyệt điều chỉnh TMĐT D.A lần 2 là 41.799,1 tỷ đồng.
Quá trình thực hiện trình tự thủ tục điều chỉnh D.A lần 1, PVN chưa báo cáo Thủ tướng Chính phủ nhưng PVN đã thẩm định và quyết định điều chỉnh D.A với TMĐT 34.295,1 tỷ đồng là thực hiện không đúng quy định tại Khoản 2 Điều 10, Khoản 2 Điều 14 Nghị định 12/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
Đối với việc điều chỉnh TMĐT lần 2 lên 41.799,1 tỷ đồng, do việc điều chỉnh Hợp đồng EPC không đúng Điểm a Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ, thực hiện không đúng Quyết định 2414/QĐ-TTg ngày 11/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ, nên việc điều chỉnh TMĐT này là không đúng quy định.
Chưa hết, mặc dù chưa xác định các điều kiện để được chỉ định thầu đối với Gói thầu EPC D.A theo quy định của pháp luật nhưng PVN đã đề xuất, được Bộ Công Thương đồng ý, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ủy quyền cho HĐQT PVN quyết định việc chỉ định thầu D.A NMNĐ Thái Bình 2.
PVN chưa xác định các điều kiện để được chỉ định thầu đối với Gói thầu EPC D.A, chưa thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định nhưng ngày 18/6/2010 HĐQT PVN đã căn cứ vào Văn bản số 978/TTg-KTN ban hành Nghị quyết số 5392/NQ-HĐQT-DKVN đồng ý về chủ trương giao PVC thực hiện gói thầu EPC D.A theo hình thức chỉ định thầu.
Ngày 21/02/2011, HĐTV PVN ban hành Quyết định số 1409/QĐ-DKVN phê duyệt kế hoạch đấu thầu D.A, trong đó gói thầu EPC có thời gian thực hiện là 45 tháng và ngày 6/10/2011, Tổng Giám đốc PVN ban hành Quyết định số 9108/QĐ-DKVN phê duyệt chỉ định PVC là Tổng thầu EPC D.A với thời gian thực hiện gói thầu 45 tháng là không đúng quy định của pháp luật về đấu thầu.
Đến thời điểm được chỉ định thầu, PVC chỉ thực hiện xây dựng công trình dân dụng, hạ tầng, tuyến ống dẫn khí... và thi công một số hạng mục của một số NMNĐ... chưa làm Tổng thầu EPC các D.A lớn tương tự như D.A NMNĐ Thái Bình 2, hồ sơ năng lực của PVC chưa đáp ứng hồ sơ yêu cầu để thực hiện gói thầu EPC, nhưng PVN vẫn chỉ định PVC làm tổng thầu EPC.
Sau khi ký kết hợp đồng Tổng thầu EPC, PVC đã thực hiện không đúng cam kết là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến D.A chậm tiến độ, phát sinh tăng chi phí, trong đó có chi phí trả lãi tiền vay từ năm 2016 đến 2019 là 81,867 triệu USD.
Việc chỉ định PVC làm Tổng thầu EPC D.A như trên là không đúng quy định tại Điều 20 Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và Điểm e Khoản 3 Điều 40 Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ.
TTCP cũng chỉ ra các sai phạm trong việc việc bổ sung D.A NMNĐ Thái Bình 2 vào danh mục các D.A nguồn điện cấp bách để được thực hiện theo cơ chế, chính sách đăc thù quy định tại Quyết định số 2414/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là thực hiện không đúng Quyết định 2414/QĐ-TTg ngày 11/12/2013.
Khu đất vàng tại 69 Nguyễn Du, Hà Nội. Ảnh: Internet |
Trong quá trình thực hiện hợp đồng EPC, sau khi PVN có Quyết định số 6175/QĐ-DKVN ngày 04/10/2016 điều chỉnh TMĐT (lần 2) là 41.799.131 triệu đồng, PVN và PVC đã ký Phụ lục bổ sung số 26 ngày 06/7/2017, theo đó giá trị hợp đồng tạm tính trước thuế VAT là 948.644.684 USD và 10.709.879 triệu đồng, tăng 27,708 triệu USD và 4.835.697 triệu đồng (tương đương tăng 5.456.780 triệu đồng, tỷ giá 1USD = 22.415 VND), chủ yếu do điều chỉnh khối lượng, đơn giá thuộc phạm vi Hợp đồng EPC đã ký là không đúng quy định.
Trách nhiệm của các sai phạm trên thuộc về PVN, Bộ Công thương, các cơ quan, đơn vị và cá nhân tham mưu, đề xuất, chỉ đạo đối với chủ đầu tư D.A.
Chuyển hồ sơ nhà đất 69 Nguyễn Du sang cơ quan điều tra nếu 31/10/2020 chưa thu hồi được
Liên quan đến nhà đất tại 69 Nguyễn Du, theo TTCP, cơ sở nhà, đất tại 69 Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng là tài sản Nhà nước do Công ty Quản lý và Phát triển nhà thuộc Sở Xây dựng Hà Nội quản lý cho PVN thuê làm trụ sở, đến thời điểm 01/01/2008 hợp đồng thuê hết hạn sau đó chưa ký lại; PVC (công ty con của PVN) trước đó không trực tiếp thuê cơ sở nhà, đất tại 69 Nguyễn Du.
Theo Quyết định số 09/QĐ-TTg ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp lại, xử lý nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước thì thẩm quyền quyết định việc bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất này thuộc UBND TP Hà Nội. Việc PVC, PVN, UBND Hà Nội có văn bản gửi Bộ Tài chính trình Phó Thủ tướng Chính phủ cho phép UBND TP Hà Nội bán chỉ định cơ sở nhà, đất tại số 69 Nguyễn Du cho PVC (đơn vị đang thuê) để xây dựng trụ sở làm việc là không đúng thực tế.
Sau khi mua, PVC không tiến hành đầu tư xây dựng trụ sở làm việc mà đề xuất và được PVN đồng ý thông qua chủ trương cho phép PVC chuyển nhượng cơ sở nhà đất trên. Sau đó PVC thuê Công ty CP Sông Đà Toàn Cầu tư vấn đấu giá, phê duyệt giá khỏi điểm và ủy quyền cho Công ty Tư vấn bán đấu giá trong khi UBND TP Hà Nội chưa có quyết định giao đất cho PVC là không đúng quy định của pháp luật về đất đai và đấu giá.
Ngày 31/12/2009 PVC ký hợp đồng (không số) chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Công ty CP Đầu tư và Khoáng sản Hợp Thành.
Khi tổ chức đấu giá, công nhận kết quả trúng đấu giá, PVC chưa được UBND TP Hà Nội giao đất, vì vậy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại 69 Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng là không có cơ sở pháp lý, sai quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 106 Luật Đất đai 2003; Điểm a, Khoản 2, Điều 8; Điểm a, Khoản 2, Điều 9 Nghị định số 05/2005/NĐ -CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
TTCP khẳng định, trách nhiệm thuộc về PVC, PVN, UBND TP Hà Nội, Bộ Tài chính và cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc tham mưu, đề xuất, chỉ đạo và bán chỉ định tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại số 69 Nguyễn Du.
Từ đó, TTCP đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao UBND TP Hà Nội phối hợp với PVN rà soát để thu hồi và xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thu hồi cơ sở nhà đất này.
Đến thời điểm 31/10/2020 chưa thực hiện được việc thu hồi thì chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.
Lê Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét