( Ghi theo lời kể của Văn Cao )
- Như vậy là ông đã cầm súng? –Võ An Ninh hỏi.
Và không ai khác, chính Phạm Duy đã nhảy lên bục, cướp micro để hát vang bài “Tiến quân ca”...
Không biết tập khi nào, chuẩn bị khi nào, mà trên tay nhiều người đều có tờ nhạc bài “Tiến quân ca”. Cả rừng người hát theo Phạm Duy, nó vang lên như quả bom trung nổ...
…Hôm đó, khi lên đến động Người Xưa, sau khi tham quan, nghe thuyết minh về hang động có mộ người xưa cách đó cả vạn năm… Văn Cao ra đứng ở góc cửa hang có nhiều cây nguyên sinh và nghe chim hót… Ông vẫy tay gọi cụ Võ An Ninh và tôi lại gần, hỏi: “Các ông có nghe bản nhạc của rừng không? Đó, tiếng ve kêu, tiếng chim hót, tiếng rì rào của gió và cây… Đã không?” Ngừng một chút, ông nói tiếp: “Không có gì đáng thưởng cho chúng ta lúc này hơn là một ly rượu. Đúng không cụ Võ?”
- Nhưng lấy đâu ra rượu bây giờ? – Cụ Võ hỏi lại.
Văn Cao cười mỉm:
- Muốn thì ắt phải có.
Và
ông luồn tay vào túi áo ngực trong của áo vest, lấy ra một bình rượu dẹp kiểu
Tây và móc ra từ túi một cái cốc nhỏ:
- Nào, một ngụm chứ? – Ông cười. Cụ Võ An Ninh và
tôi cùng cười vui tán thưởng.
- Xin bái phục. Xin bái phục. – Cụ Võ An Ninh đáp
lời Văn Cao.
Thế
là ba chúng tôi mỗi người một ngụm rượu giữa rừng già Cúc Phương. Văn Cao uống
thêm một lần rót và như tỉnh ra, ông nói chuyện vui vẻ suốt quảng đường xuống
núi. Và chúng tôi trở thành thân thiện như đã quen biết lâu ngày.
Chúng
tôi cùng nghỉ trong căn nhà sàn rộng của Vườn quốc gia cất rất khang trang, nằm
giữa rừng già. Đêm xuống, trời se se lạnh, cái lạnh của núi của rừng như thấm
nhanh vào da thịt hơn. Một số người quấn mền ngủ sớm. Có người đọc, viết. Mấy
chúng tôi ngồi quanh bếp lửa đun nước uống trà. Văn Cao nói:
- Trà là khúc dạo đầu, có phần hai chứ?
Biết
ý Văn Cao, tôi nhờ anh em ở Vườn quốc gia chuẩn bị rượu gạo và thịt khô để
nướng lửa hồng. Chúng tôi quây quần bên nhau, rượu vào lời ra. Đêm đó, tôi mới
biết được thêm một góc khuất của Văn Cao. Thú thật, tôi cứ nghĩ ông là lớp nhạc
sĩ, thi sĩ tiền chiến chắc sẽ rất lãng tử, rất mềm yếu như thân hình yếu ớt của
ông. Nhưng không, thời trẻ ông tập võ, đấu võ đài, rất mạnh mẽ. Bên cạnh một
nhạc sĩ với những bài ca đi vào lòng người như: Buồn tàn thu, Thiên thai, Suối
mơ, ông là người đã lập ra đội Việt Minh đặc biệt – như một lực lượng biệt động
hoạt động giữa nội thành mà ông gọi là đội “biệt động ngày ấy”.
Ông
kể: “Sau khi viết bài “Tiến quân ca” năm 1944, tôi trở thành người của Việt Minh
và những ngày ấy, để chuẩn bị cho Cách mạng Tháng 8, lực lượng nội thành hoạt
động rất khó bởi bọn Việt gian phản động chỉ điểm. Tổ chức giao cho tôi lập ra
đội Việt Minh đặc biệt. Ngày đó, tôi còn thanh niên tráng kiện, được giao nhiệm
vụ phiêu lưu này, tôi khoái lắm. Năm ấy tôi còn ở 45 Nguyễn Thượng Hiền. Trên
căn gác nhỏ đó, tôi tập hợp được số anh em để lập ra đội “biệt động”. Tôi tập
võ thuật, tập bắn súng ngắn cho anh em và kéo được cả một cậu giỏi hóa
trang”.
- Như vậy là ông đã cầm súng? –Võ An Ninh hỏi.
- Không chỉ cầm súng mà còn chỉ huy người cầm súng
– Văn Cao tợp một ngụm rượu và khẳng định – Không những thế, tôi đã nổ súng và…
đã giết một tên phản quốc.
Câu
chuyện trở nên ly kỳ. Tất cả chúng tôi đều bị cuốn vào và bán tín bán nghi bởi
vì bàn tay nhỏ bé kia là bàn tay gảy trên phím đàn, viết lên những bản tình ca,
viết lên những bài ca cách mạng nhiệt huyết, viết nên những bài thơ và hơn thế,
còn vẽ nên những bức tranh. Bàn tay của một nghệ sĩ và người nghệ sĩ ấy đang bị
dính vào một vụ án nhân văn giai phẩm… có thể có không?
- Ông nói hay rượu nói đó? – Võ An Ninh hỏi.
- Ông này hay nhỉ? Rượu chỉ giúp cho người ta nói
thật và làm cho người ta dễ nói ra sự thật – Văn Cao trả lời và khẳng định đó
chỉ mới là một phần của sự thật.
Quả
như vậy. Đội “biệt động” Việt Minh của ông đã răn đe, cảnh cáo nhiều tên Việt
gian, chỉ điểm và đã làm chúng chùn tay. Ông kể lại hai vụ án rất ly kỳ hấp
dẫn:
Đó
là lần thực hiện chỉ thị của Xứ ủy phải trừng trị tên Võ Văn Cẩm cầm đầu tổ
chức thanh niên Đại Việt, rất độc hại, thường phục kích cán bộ nội thành của
ta. Sau cả tuần lễ trinh sát, đã lập phương án và chọn ngày hành động, Văn Cao
là tổ trưởng một tổ ba người vũ trang. Hai đồng chí kia có nhiệm vụ hỗ trợ, bảo
vệ Văn Cao. Tổ Văn Cao bám theo tên Cẩm từ phố Nhà thờ, qua nhiều phố xá đến
gần chợ Hôm. Tên Cẩm ngồi trên xe kéo, tên cận vệ đạp xe theo. Văn Cao phục
sẳn, chỉ cần chờ tín hiệu của đồng đội là xông ra dí súng bóp cò. Nhưng hôm đó
đồng đội của ông hăng hái quá, muốn lập công đã nổ súng trước, nhưng lại bắn
không trúng, nên hắn chạy thoát. Tên hộ vệ quay súng đuổi theo đồng đội của
ông, một đồng đội khác đã bắn hạ hắn.
- Trận ấy – Văn Cao kể - chúng tôi không giết được
hắn và tôi cũng chưa nổ súng nhưng tiếng vang rất lớn. Bọn Việt gian run sợ, co
vòi…
- Anh kể vụ anh nổ súng đi, chuyện hấp dẫn quá –
Một biên tập viên nhà xuất bản Thanh Niên đề nghị.
- Nào, tất cả làm một ly rồi muốn kể gì thì kể -
Một người đề nghị.
Thịt
nai nướng lên thơm phức, mọi người nhâm nhi và uống rượu nghe Văn Cao kể
chuyện.
- Ông nói chí phải – Văn Cao nói và giơ cao ly
rượu. Mọi người vui vẻ hưởng ứng.
Sau
một chầu rượu, Văn Cao tiếp tục:
Lần
này là việc hạ sát tên Đỗ Đức Phin ở Hải Phòng. Hắn là một tên Việt gian nguy
hiểm đã phá nhiều cơ sở Cách mạng ở Hải Phòng. Cấp trên ra lệnh phải hạ sát
hắn.
Văn
Cao xuống Hải Phòng, cải trang thành một ông già quê đạp xe vào thành phố. Sau
khi tiếp cận cơ sở cùng với một tổ để trinh sát. Ngày G đến, Văn Cao cải trang thành
một nhà thầu khoác áo măng tô, đầu đội mũ phớt, trong ngực áo giắt một khẩu
Bronin và ở thắt lưng giắt một khẩu côn đạn đã lên nòng.
Văn
Cao kể:
“Anh
em ta biết cuối giờ chiều y thường tới tiệm hút thuốc phiện ở đường Phan Bội
Châu. Chúng tôi quyết hạ hắn ở đây. Một cậu cảnh giới, một cậu đạp xe đèo mình
đi. Đến góc đường, chúng mình thấy một cậu bé (là cơ sở của ta) đang nhảy cò cò
một chân. Đó là dấu hiệu có tên phản động đang hút trên lầu. Tôi xuống xe đạp,
đi thẳng lên lầu. Bên bàn hút có 2-3 người. Tên Phin và cận vệ của hắn đều hút,
đang phê. Tôi rút khẩu côn dí thẳng vào hắn và nói to:
- Mọi người nằm im. Việt Minh đây. Chúng tôi tuyên
bố xử tử tên Việt gian Đỗ Đức Phin bán dân hại nước, chống phá cách mạng.
Tên
cận vệ run quá lăn xuống gầm giường. Tên Phin quay lại ngơ ngác. Tôi hét to:
“Phin, mi phải đền tội!” và bóp cò. Nhưng quỷ ôn, súng côn bị hóc không nổ, tôi
bình tĩnh nhét súng vào túi áo và móc ngay khẩu Bronin ra nổ luôn hai phát kết
liễu đời hắn và nhanh chóng lao xuống gác, nhảy lên xe đạp của đồng đội…
- Chuyện ly kỳ quá. Không ngờ.
Mọi
người thán phục người nhạc sĩ tài ba đã từng là một chiến sĩ biệt động ngoan
cường… Nhưng vì lúc đó đang thời kỳ vụ án nhân văn giai phẩm còn chưa giải tỏa
nên cũng không ai dám viết về ông, chỉ thương ông và để trong lòng…
Phạm Duy hát Tiến quân ca gây hiệu ứng như bom nổ ngày 17/8/1945
Sáng
hôm đó, theo yêu cầu tha thiết của tôi, ông kể cho tôi đôi nét về lịch sử bài
Quốc Ca.
“Chuyện
đó phải nói như thế này:
Những
năm 1940-1943, tôi viết nhiều bản tình ca và bài hát hướng đạo. Thanh niên rất
thích. Ngày đó Phạm Duy hoạt động cách mạng trước tôi, mỗi lần từ Hải Phòng
xuống ga anh lại về căn gác của tôi, nay là số 45 Nguyễn Thượng Hiền nhưng hồi
đó là phố Mongrand và mang số nhà 171. Một hôm, Phạm Duy hỏi tôi:
- Có chứ. - Vũ Quý trước hay tập bơi, thi bơi với
chúng tôi ở Hải Phòng nên tôi rất nhớ. Tôi hỏi Phạm Duy:
- Anh ấy vẫn ở Hải Phòng à?
- Không, anh ấy đang ở Hà Nội. Văn thích gặp
không?
- Tớ thích anh ta, nhất là cái đoạn mật thám Pháp
phục mãi mà không bắt được làm tớ rất phục.
Vậy
là trưa hôm sau, tại một tiệm ăn trước ga Hàng Cỏ, tôi gặp lại Vũ Quý. Sau mới
biết anh ấy là Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội. Anh ấy hỏi tôi có thích hoạt động
không. Thế là từ đó tôi đi theo cách mạng.
Một
lần giữa năm 1944, Vũ Quý bảo tôi:
- Lực lượng ta thiếu bài hát, khóa quân chính
kháng Nhật sắp mở, anh soạn vài bài hát cách mạng cho quân đội ta nhé.
Vũ
Quý dặn tôi viết phải hùng hồn hơn những bài hành khúc Đống Đa, Thăng Long tôi
đã soạn trước đây.
Nhiệm
vụ được giao. Viết thế nào đây? Tôi thả mình đi bộ quanh hồ Hoàn Kiếm, rảo trên
các phố, trong đầu tôi suy nghĩ lung tung. Ở bờ hồ, tôi lại gặp những người đói
và rách, cả những em bé… Một câu hỏi vụt đến: làm sao hết cảnh lầm than đói
rách bần hàn này? Tôi trở về căn gác nhỏ. Giữa đêm đông, đói và rét, tôi lấy
giấy đốt để sưởi ấm, ngồi vào bàn và viết.
Tôi
miệt mài mấy ngày, viết lời trước, phổ nhạc sau. Lời viết mấy lần vẫn không vừa
ý. Ngày thứ ba, tôi viết xong, đang hát một mình thì Phạm Duy về. Anh ta hát và
khen được. Sau đó Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đến, tôi và Phạm Duy hát cho hai
anh nghe. Cả hai có vẻ vừa lòng. Vũ Quý vỗ vai tôi: “Được lắm Văn ơi!”. Tôi lấy
đề bài ca là “Tiến quân ca”. Vậy thôi, đâu có nghĩ là mình viết Quốc ca. Sang
năm 1945, tôi viết tiếp bài “Chiến sĩ Việt Minh”. Hai bài này được phổ biến lan
truyền khá nhanh, nhưng họ hát bài “Tiến quân ca” nhiều hơn”.
Theo Văn cao kể, trước Đại hội Quốc dân ở Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 16-17/8/1945, Nguyễn Đình Thi đến lấy hai bài “Tiến quân ca” và “Bài ca Việt Minh” của Văn Cao mang đi. Nguyễn Đình Thi tổ chức hát hai bài này cùng với bài “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi để cho Bác Hồ nghe. Nghe đi nghe lại xong, Bác gọi vài người nữa, trong đó có Huy Cận cùng nghe và Bác chọn bài “Tiến quân ca” làm bài hát chính thức của ngày ra mắt Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam tại mái đình Tân Trào. Văn Cao nói: “Lúc đó, lời bài hát theo tình hình đất nước nên khác với bây giờ, như:
Thề
phục quốc, tiến lên Việt Nam
Lập
quyền dân, tiến lên Việt Nam
Đài
hạnh phúc, đắp xây tự do
Việt
Nam tranh đấu, chống quân ngoại xâm
Hoặc
như câu cuối là:
Tiến
lên, cùng thét lên
Chí
trai là đây nơi ước nguyền
…”
Bài
hát được chính thức hát làm quốc ca trong ngày 2/9/1945, ngày khai sinh ra Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lời
bài hát này giữ mãi đến sau ngày hòa bình 1955 mới sửa lại và được Quốc hội
thông qua.
Văn
Cao nói một câu rất vui: “Tôi nói thật với ông, hồi đó tôi đâu biết là mình
viết Quốc Ca. Ngày 2/9/1945, nghe mọi người hát chào cờ tôi sung sướng vô cùng,
hồn mình như bay lơ lửng dưới ánh cờ đỏ sao vàng”.
Tôi
xin ông kể vài kỉ niệm đặc biệt về bài “Tiến quân ca”. Ông trầm ngâm uống một
ngụm rượu rồi nói: “Nhiều nhiều lắm. Từ ngày đó đến bây giờ nhiều lắm. Nhưng có
lẽ lần đầu tiên là ở quảng trường Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội”. Ông đưa tôi tờ
tạp chí Sông Hương số tháng 7/1987. Ông lật lật và bảo tôi: “Đọc đi, hồi ký của
mình đấy”. Nói vậy nhưng ông vẫn kể:
“Ngày
đó, Nhật đầu hàng đồng minh. Khâm sai đại thần Phan Kế Toại (sau này được cử
giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đã tổ chức cuộc mít
tinh để biểu thị sự yêu độc lập. Cuộc mít tinh dưới cờ vàng ba sọc của chính
phủ Trần Trọng Kim. Có lẽ Thành ủy biết nên đã chuẩn bị kỹ. Một lá cờ đỏ sao
vàng to từ bao lơn nhà hát buông xuống phủ kín cờ vàng ba sọc. Và không ai
khác, chính Phạm Duy đã nhảy lên bục, cướp micro để hát vang bài “Tiến quân
ca”. Không biết tập khi nào, chuẩn bị khi nào, mà trên tay nhiều người đều có
tờ nhạc bài “Tiến quân ca”. Cả rừng người hát theo Phạm Duy, nó vang lên như
quả bom trung nổ. Tôi xúc động quá không giữ nổi, nước mắt trào ra. Thế là bỗng
chốc biến thành cuộc mít tinh của Mặt trận Việt Minh. Đó là ngày 17/8/1945”
GS-TS Trình Quang Phú.
(Trích từ “MỘT
THOÁNG VĂN CAO” của Trình Quang Phú-Tạp chí Nhà văn văn Tác phẩm số 2/2017)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét