Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016

PTT Phạm Bình Mình xô quốc tế ra khỏi Biển Đông; Chủ tịch Trần Đại Quang kêu gọi quốc tế vào chặn đứng tham vọng lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông-Sao lại" ông chẳng bà chuộc" vậy?; Cho rằng Nguyễn Cơ Thạch chống Trung Quốc là sai lầm

(An ninh quốc phòng) - “Chúng ta đã rút ra bài học, không để bất cứ lực lượng nào lôi kéo vào sự cạnh tranh. Đường lối của chúng ta là độc lập, tự chủ, không để bị lôi kéo vào bất cứ liên minh nào”.


Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh.
Không để Việt Nam bị lôi kéo vào bất cứ liên minh nào
Sáng nay (18/8), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã có những trao đổi với phóng viên báo chí xung quanh nhiều vấn đề liên quan tới công tác đối ngoại, quan hệ với các nước, vấn đề Biển Đông, vụ kiện của Philippines với Trung Quốc.
PV: Thời gian qua có một số ý kiến là Việt Nam có thể bị cuốn vào cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc trong khu vực. Trong nước thì xuất hiện tâm lý “bài Trung Quốc” và ủng hộ Mỹ trong quần chúng nhân dân. Phó Thủ tướng có nhìn nhận gì về vấn đề này?
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh: Cạnh tranh giữa các nước lớn liên quan đến lợi ích chiến lược, lợi ích kinh tế. Nơi nào có cạnh tranh chiến lược mà xử lý không tốt thì có thể dẫn đến đối đầu, có thể cả chiến tranh khu vực, lịch sử đã chứng minh.
Chúng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm là không để bất cứ lực lượng nào lôi kéo ta vào sự cạnh tranh. Đường lối của chúng ta là độc lập, tự chủ, không để bị lôi kéo vào bất cứ liên minh nào. Để được vậy, chúng ta phát triển quan hệ với tất cả các nước trên cơ sở những lợi ích chung.
Chính sách đối ngoại của ta đi từ chỗ thêm bạn bớt thù đến làm bạn với tất cả các nước. Bảo vệ độc lập chủ quyền là do chúng ta, trên cơ sở tranh thủ sự ủng hộ tối đa của các nước, nhưng không nước nào có thể đứng ra bảo vệ chủ quyền cho chúng ta.
Tự chủ trong đối ngoại cũng là đóng góp vào đường lối đó.
PV: Trước khi tòa đưa ra phán quyết của vụ kiện Philippines với Trung Quốc thì Thủ tướng Hun – sen đã đưa ra tuyên bố không ghi nhận phán quyết và Hội nghị ASEAN tại Lào cũng không đạt được kỳ vọng về tuyên bố chung đối với phán quyết.
Rõ ràng là hai nước này đã thể hiện sự khác biệt. Bản thân Phó Thủ tướng có lo ngại về việc này không?
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh: Vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc là vụ kiện giữa hai nước. Khi phán quyết của tòa đưa ra, từng nước đã có những phát biểu quan điểm của mình đối với vụ kiện này.
Có những nước nói là hoan nghênh việc ra phán quyết, có những nước nói ghi nhận, có những nước không nói ghi nhận thì cũng nói về những vấn đề liên quan, đó là phải tôn trọng luật pháp quốc tế, công ước Luật Biển 1982.
Hay có những nước cũng nhân việc đó nói về lập trường chung là giải quyết hòa bình các tranh chấp và đương nhiên cũng có nước nhưng là số ít nói về việc không tán thành vụ kiện. Đó là quan điểm của mỗi quốc gia.
Việc mà từng nước phát biểu đó, thể hiện quan điểm của mỗi quốc gia nhưng trong ASEAN thì có thảo luận tất cả các vấn đề có liên quan.
Bởi vì, tất cả các Hội nghị của ASEAN từ trước đến nay vẫn thế, khi có tình hình mới xảy ra thì bao giờ cũng có thảo luận, đề cập, mức độ có thể khác nhau, tính chất có thể khác nhau, hình thức có thể khác nhau nhưng có đề cập.
Tại Hội nghị ASEAN ở Lào không đề cập trực tiếp vấn đề vụ kiện, có thảo luận vì có nước trong đó tham gia vụ kiện, thông báo tình hình liên quan.
Nhưng Hội nghị ASEAN lần này có điểm mới trong tuyên bố chung của các Ngoại trưởng ASEAN là việc nhấn mạnh vai trò của luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982 mà khẳng định trong đó, ngoài việc tôn trọng giải quyết tranh chấp bằng hòa bình thì nhấn mạnh tôn trọng tiến trình ngoại giao và pháp lý.
Đây là điểm mới trong tuyên bố chung của các Ngoại trưởng ASEAN, trong bối cảnh vụ kiện như thế thì hiểu rằng tất cả các biện pháp hòa bình là ngoại giao, pháp lý đề được tôn trọng trên cơ sở tôn trong luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982.
PTT Phạm Bình Minh: Không để bị lôi kéo vào bất cứ liên minh nào - Ảnh 1.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh.
PV: Cảm nhận cá nhân của ông về đoàn kết của ASEAN trong thời gian tới sau vụ kiện này?
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh: Đoàn kết của ASEAN là vô cùng quan trọng, bởi đoàn kết của ASEAN mới tạo ra vai trò trung tâm. Trong ASEAN thì lịch sử cho đến nay duy trì được vai trò trung tâm trong các cơ chế của khu vực, đây là vai trò mà không có một tổ chức khu vực nào trên thế giới có được.
Nhìn vào ASEAN, nhìn vào các khu vực khác thì không có tổ chức khu vực nhỏ như ASEAN mà tất cả các nước lớn trên thế giới đều tham gia vào cơ chế của ASEAN. Giá trị đó làm được là do ASEAN giữ được vai trò trung tâm trên cơ sở đoàn kết.
Dù bất cứ trường hợp nào, ASEAN cũng sẽ tăng cường đoàn kết. Chính vì vừa qua, ASEAN đạt được tuyên bố chung tưởng chừng như những lúc có thể nói là người ta nghĩ không thể có tuyên bố chung.
Nhưng thấy được vai trò hết sức quan trọng của đoàn kết, vai trò trung tâm nên các nước đã tìm ra được công thức phản ánh được sự quan tâm của từng thành viên trong ASEAN nhưng cũng đồng thời đảm bảo được sự đoàn kết.
Đó là công thức ASEAN đã và sẽ thực hiện trong thời gian tới để đảm bảo đoàn kết. Còn từng nước cũng phải quan tâm sự đoàn kết đó để đảm bảo lợi ích.
Xung đột, chiến tranh là đi ngược xu thế chung
PV: Thưa Phó Thủ tướng, vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông là nhiệm vụ trong tâm của ngành ngoại giao và trong thời gian tới, sẽ có những biện pháp gì để tiếp nối nhiệm vụ này?
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh: Biển Đông là một trong những vấn đề tác động đến môi trường an ninh và chúng ta khẳng định chủ quyền ở Biển Đông, chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Đối với Trường Sa chúng ta cũng hiểu được là đang có tranh chấp giữa 5 nước, 6 bên đối với các đảo đá ở đây. Quan điểm của chúng ta là phải đảm bảo chủ quyền của chúng ta ở các đảo mà hiện chúng ta đang quản lý, giữ đúng theo luật pháp quốc tế.
Chúng ta phải đảm bảo chủ quyền ở 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế, đó là theo luật pháp quốc tế. Đại hội Đảng đã nêu rõ kiên trì, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và hiểu rằng, chúng ta kiên trì, kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình.
Giải quyết các tranh chấp trên cơ sở là thương lượng, đàm phán, những vấn đề gì liên quan giữa hai nước thì giải quyết hai nước, tranh chấp nhiều bên thì nhiều bên tham gia giải quyết.
Chúng ta bảo vệ chủ quyền trên cơ sở luật pháp quốc tế và yêu cầu các nước cũng phải thực hiện như vậy. Đây là thế mạnh của các nước nhỏ, vừa, dựa trên luật pháp quốc tế mới bảo vệ được chính minh.
Và đương nhiên, khi bất cứ vấn đề gì xâm phạm đến chúng ta thì chúng ta phải kiên quyết đấu tranh để chống lại bằng mọi biện pháp để bảo vệ chủ quyền của chúng ta.
PV: Phó Thủ tướng đánh giá thế nào về sự leo thang các căng thẳng của Trung Quốc ở Biển Đông và có lo ngại sự xung đột, cuộc chiến có thể xảy ra giữa các nước ở vùng biển này không?
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh: Biển Đông là vấn đề không chỉ của riêng các nước trong khu vực. Đây là tuyến đường hàng hải hết sức quan trọng trên thế giới. Vấn đề bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải là nhu cầu chung, không chỉ của các nước trong khu vực mà các nước trên thế giới.
Do đó, các nước đều phải có trách nhiệm đóng góp vào đảm bảo duy trì, ổn định ở Biển Đông. Bởi vì bất cứ việc gì xảy ra ở Biển Đông sẽ làm chặn đường hàng hải huyết mạch, quan trọng vận chuyển hàng hóa của các nước trên thế giới.
Biển Đông là đúng có sự tranh chấp ở một số đảo đá của một số nước trong khu vực, việc giải quyết tranh chấp đó phải bằng các bên liên quan giải quyết. Đó là yêu cầu của các nước, vì các nước cũng không thể tham gia vào giải quyết chủ quyền của từng vấn đề giữa các quốc gia với nhau.
Việc giải quyết phải thông qua đàm phán, thương lượng còn việc xảy ra tình trạng leo thang là trách nhiệm của các nước để xảy ra. Việc xung đột dẫn đến chiến tranh là đi ngược xu thế chung hiện nay, ngăn chặn chiến tranh, kiểm soát xung đột bằng các biện pháp kiềm chế, tự kiềm chế trong các khuôn khổ.
Tình hình hiện nay, các nước đang kêu gọi các bên kiềm chế, đó là sự quan tâm của các nước. Trong ASEAN cũng vậy, khi bày tỏ lo ngại sâu sắc là tình hình không được kiểm soát. Hiện nay các nước đều kêu gọi kiềm chế, kiểm soát hành động, không để có va chạm dẫn đến xung đột trong khu vực.
Xung đột đó sẽ không thể lường trước được, hậu quả của tất các cuộc chiến tranh thì không có kẻ nào chiến thắng. Tất cả các nước đều phải đánh giá, xem xét. Hiện nay, giữa ASEAN – Trung Quốc cũng đang thực thi tuyên bố về ứng xử Biển Đông, tiến tới xây dựng bộ quy tắc ứng xử Biển Đông.
Trong Hội nghị ASEAN mới đây, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cũng nói cố gắng xây dựng bộ quy tắc ứng xử Biển Đông giữa các nước ASEAN – Trung Quốc vào năm 2017. Đó là tín hiệu tích cực để các nước có trách nhiệm, các nước lớn có trách nhiệm.
Còn khi xảy ra xung đột thì cộng đồng quốc tế sẽ có tiếng nói phản đối các cuộc xung đột, chiến tranh.
(Theo Soha News)


Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang ngày 24/08/2016 kêu gọi hợp tác quốc tế để duy trì hòa bình tại Biển Đông, nhằm chận đứng tham vọng lãnh thổ của Bằc Kinh, tại vùng biển đang được nhiều nước tranh chấp trong đó có Việt Nam.

media
Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang tiếp đón tổng thống Mỹ Barack Obama tại Hà Nội, ngày 24/05/2016. REUTERS
« Chúng tôi rất ủng hộ sự hợp tác của Pháp và các quốc gia khác trong tiến trình duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực và tại Biển Đông ». Chủ tịch nước Việt Nam tuyên bố như trên, trong cuộc phỏng vấn hiếm hoi dành cho hãng tin Pháp AFP, trước chuyến viếng thăm của tổng thống Pháp François Hollande vào đầu tháng Chín. Ông Trần Đại Quang nói thêm, đó là vấn đề « đảm bảo an ninh, tự do hàng hải và hàng không ».

Ý tưởng về sự giúp đỡ của quốc tế trong vùng biển tranh chấp đã được bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Jean-Yves Le Drian đưa ra từ đầu tháng Sáu : ông đề nghị các nước thuộc Liên Hiệp Châu Âu gởi chiến hạm đến tuần tra tại Biển Đông.

Trong chuyến thăm Philippines cuối tháng Bảy, ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã tuyên bố rằng Washington mong muốn tránh « đối đầu » trên Biển Đông, và cũng đề nghị giúp đỡ giải quyết xung đột.

Hôm 12/7, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực La Haye đã ra phán quyết thuận lợi cho Philippines, khẳng định Trung Quốc không hề có « quyền lịch sử » tại vùng biển chiến lược này, và đường lưỡi bò tự vẽ là không có căn cứ pháp lý. Bắc Kinh phẫn nộ cho biết sẽ không tôn trọng phán quyết.

Thụy My

(RFI)

Đăng bởi Hai Hoang Van on Thứ Năm, ngày 25 tháng 8 năm 2016 | 25.8.16

"Trong một quốc gia, việc có những ý kiến khác nhau là chuyện bình thường. Trong lịch sử, đã có những bất đồng gay gắt giữa ngoại giao ý thức hệ và ngoại giao vì lợi ích quốc gia dân tộc."

http://static.plo.vn/w470/uploaded/thanhhoa/2014_07_08/cujk1-7c3f2.jpg
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch với các phóng viên. Ảnh tư liệu
Tuần Việt Nam: Xin giới tiếp phần 2 cuộc trò chuyện với PGS. TS Vũ Dương Huân, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện lịch sử Đối ngoại, Cựu đại sứ Việt Nam tại Ba Lan và Ucraina bàn về 30 năm đổi mới nhìn từ ngành Ngoại giao.
“Cứ để các ông ấy va đầu vào đá…”

Tại Hội nghị Trung ương 3 của Đại hội VII được coi là bước ngoặt lịch sử đối với đối ngoại Việt Nam, đối với chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Ông còn nhớ, hồi đó, để đạt được bước ngoặt này thì các vị đứng đầu ngành ngoại giao, đặc biệt là Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã làm những gì để thuyết phục được những người luôn đề cao, coi trọng quan hệ với các nước XHCN và phong trào công nhân trên thế giới?

Trong một quốc gia, việc có những ý kiến khác nhau là chuyện bình thường. Trong thời ông Nguyễn Cơ Thạch là Bộ trưởng, nhất là giai đoạn liên quan đến Đại hội VI và Đại hội VII cũng có những vấn đề thuộc về ý thức hệ nổi lên, và gây ra tranh luận mạnh mẽ.

Việt Nam đã bắt đầu chuyển biến từ Đại hội VI, mặc dù lúc đấy đối ngoại chưa được coi là quan trọng, chưa được quan tâm. Lúc đó, trọng tâm là đổi mới về tư duy kinh tế. Nhưng mà đối ngoại và đối nội là những vấn đề luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, nếu không có đổi mới về đối nội thì không thể đổi mới đối ngoại.

Tại Đại hội VI, mặc dù về đối ngoại chỉ mới nêu ra những tư tưởng rất lớn, chưa bàn cụ thể. Chẳng hạn “Kết hợp sức mạnh; Thêm bạn bớt thù; Kết hợp sức mạnh với giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và Đông Dương…” Hay “chuyển đấu tranh sang cùng tồn tại”… Nội bộ ta khi đó như tôi đã nói ở trên là vẫn còn nhiều khác nhau về ý kiến.

Phần đông anh em vẫn ủng hộ tư tưởng ý thức hệ. Nhân đây, tôi xin kể một ví dụ về ngoại giao ý thức hệ. Năm 1989 là năm kỷ niệm 40 năm của Cộng hòa Dân chủ Đức, và họ mời tất cả các lãnh đạo Đảng anh em sang tham dự. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến dự với mục đích, ngoài dự lễ kỷ niệm, là thông báo với các Đảng Cộng sản khác về sáng kiến của Đảng Cộng sản Việt Nam đăng cai tổ chức một cuộc họp bàn để phối hợp các Đảng Cộng sản nhằm cứu CNXH, vì lúc đó CNXH đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, ở Đông Âu và Liên Xô. Ông Linh đã thành công với một số Đảng Cộng sản như Romania, Mông Cổ, Cu Ba, hay Tây Đức, nhưng lại không được Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev ủng hộ do nội bộ Liên Xô lúc bấy giờ đang có nhiều thay đổi lớn.

Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người cổ xúy và tích cực thúc đẩy đa dạng hóa, đa phương hóa. Bộ trưởng Thạch có một đội ngũ nghiên cứu đã kịp nhìn ra xu thế phát triển của thế giới giờ không thể đi theo lối tư duy xáo cũ được nữa, mà phải đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, phải chú trọng phát triển kinh tế, chú trọng những vấn đề khác để mà thúc đẩy sự phát triển đất nước, và phải giải quyết vấn đề Campuchia.

Nguyễn Cơ Thạch, 30 năm đổi mới, Đại hội Đảng VI, Campuchia, Bình thường hóa Việt - Mỹ, ASEAN, Gỡ bỏ cấm vận, Trung Quốc
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp gỡ nhà đồng sáng lập đảng Xã hội Pháp Jean-Pierre Chevènement năm 1982 - Ảnh: Le Monde
Đáng mừng là Đại hội VII, xu hướng ủng hộ đổi mới đã manh nha thắng thế mặc dù không hoàn toàn. Trong Nghị quyết Đại hội VII vẫn còn thấp thoáng tư tưởng ngoại giao ý thức hệ lẫn vào chính sách đa phương hóa quan hệ.

Tôi từng nghe trực tiếp ông Thạch nói rằng, “Cứ để các ông ấy va đầu vào đá rồi các ông ấy sẽ thấy”. Tôi vẫn nhớ rất rõ, bản tham luận tại Đại hội VII của ông Thạch rất hay. Ông ấy đã đánh giá về xu hướng phát triển của thế giới, cách mạng khoa học công nghệ, của toàn cầu hóa, xu hướng liên kết kinh tế nhau, và quả quyết Việt Nam không thể đi theo ngoại giao ý thức hệ được, bởi thực tế ở Đông Âu lúc đó là những minh chứng rõ ràng.

Những cơ hội bị bõ lỡ

Nhân ông đang nói về chuyện cũ, chúng tôi xin hỏi một câu chuyện từng nghe phong thanh đâu đó. Có phải đã có những ý kiến khuyên Việt Nam nên bình thường hóa quan hệ với ASEAN và Mỹ, đặc biệt là ASEAN trước khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc?

Đúng là có ý kiến đó. Đáng nhẽ ra trong bối cảnh như thế, Việt Nam cần nhanh chóng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, và điều thúc đẩy đầu tiên chính là cái tăng cường quan hệ với ASEAN và gia nhập ASEAN, vì ASEAN là các nước láng giềng quanh ta.

Tại sao lại khuyên bình thường hóa quan hệ với Mỹ trước là bởi Mỹ là siêu cường, có thể chi phối các mối quan hệ quốc tế. Hơn nữa, trong bối cảnh quan hệ Trung Quốc cực kỳ khó khăn, và Trung Quốc không muốn bình thường hóa quan hệ sớm, họ đã dùng vấn đề Campuchia để ngăn chặn Việt Nam.

Nếu như Việt Nam bình thường hóa quan hệ với ASEAN, chắc chắn mối quan hệ với Trung Quốc sẽ không phức tạp như sau này. Vì, quan hệ quốc tế là những vấn đề dằng díu với nhau. Quan hệ với ASEAN sẽ thúc đẩy việc bình thường hóa với Trung Quốc.

Thật đáng tiếc, cả hai cái việc đó mình đều đã bỏ lỡ.

Hồi đó chúng ta đã có cơ hội tốt để có thể chớp lấy cả 2 cơ hội này phải không ạ?

Hồi cuối thập niên 1970, Mỹ đánh tiếng sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Nhưng phía ta đã kiên quyết đòi Mỹ phải bồi thường chiến tranh 3,25 tỷ USD, ghi trong Phụ lục Hiệp định, như một điều kiện tiên quyết để bình thường hóa. Cái đấy Mỹ bảo không làm được vì quyết định bồi thường thuộc về Quốc hội. Đặc biệt, trong bối cảnh hội chứng chiến tranh Việt Nam còn sâu nặng, Quốc hội làm sao mà chi. Việt Nam đã không tìm hiểu thấu đáo hệ thống chính trị Mỹ.

Đến tận 4/1978, Việt Nam mới chấp nhận bỏ không đòi bồi thường chiến tranh, thì Mỹ đang chuẩn bị bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, cộng thêm chuyện ta đưa quân vào Campuchia và điều thứ ba quan trọng nhất là Việt Nam đã ký Hiệp ước Hữu nghị Xô – Việt, trong đó có Điều 6 về phối hợp hợp tác về quân sự.

Còn đối với ASEAN, cơ hội để bình thường hóa quan hệ với ASEAN là có. 05/07/1976 Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm được các nước ASEAN rất hoan nghênh. Nhưng tại điểm thứ 4, ta lại kèm theo cái đuôi là tăng cường hợp tác với khu vực ASEAN để khu vực này có hòa bình trung lập thực sự. Vì thế một số nước ASEAN cho rằng mình muốn kêu gọi nhân dân lật đổ chính phủ họ. Hãy nhớ, lúc này các nước ASEAN đều phụ thuộc ở các mức độ khác nhau vào Mỹ. Khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia, lực lượng các nước xung quanh đã về hùa với Trung Quốc và phương Tây bao vây cấm vận Việt Nam.

Nguyễn Cơ Thạch, 30 năm đổi mới, Đại hội Đảng VI, Campuchia, Bình thường hóa Việt - Mỹ, ASEAN, Gỡ bỏ cấm vận, Trung Quốc
Tháng 11/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton có chuyến thăm Việt Nam đầu tiên. Ông cũng là tổng thống Mỹ đầu tiên tới Việt Nam, 25 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Trong ảnh, Chủ tịch nước Trần Đức Lương khi đó (trái) và Tổng thống Clinton trong buổi lễ tiếp đón tại thủ đô Hà Nội. Ảnh: Reuters/ Zing.vn
Cho rằng Nguyễn Cơ Thạch chống Trung Quốc là sai lầm

Theo chúng tôi được biết, trong tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, kênh ngoại giao Đảng với ngoại giao quốc phòng đã đóng vai trò hết sức quan trọng. Tại sao lại có hiện tượng như thế và bài học cho hậu thế rút ra là gì?

Qua Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh, Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đã tổ chức gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại Hà Nội. Tại đó ông Linh bàn với Trương Đức Duy về kế hoạch đi thăm Trung Quốc, và dẫn đến Hội nghị Thành Đô.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là người coi trọng ý thức hệ, đặc biệt trong quan hệ giữa các nước XHCN và trong quan hệ giữa các Đảng Cộng sản. Ông Linh tin rằng ý thức hệ là con đường quan trọng, có thể hóa giải các mối quan hệ đối ngoại căng thằng, phức tạp. Ông ấy đã có niềm tin kiên định như vậy.

Trong nhiệm kỳ Tổng Bí thư của mình, ông Nguyễn Văn Linh đã rất nỗ lực tạo dấu ấn lịch sử bằng việc bình thường hóa với Trung Quốc. Đại diện ngoại giao nhà nước tham dự Hội nghị Thành Đô là Thứ trưởng Đinh Nho Liêm chứ không phải Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.

Tôi không hiểu, tại sao qua kênh ngoại giao nhà nước lại lâu bình thường hóa hơn? Tôi nghe kể Nghị quyết XIII của Bộ Chính trị, do ông Thạch góp sức chủ yếu, có yêu cầu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc?

Ông Lê Duẩn có giao cho Quốc Vụ Khanh Võ Đông Giang chuẩn bị một bài phát biểu tại một cuộc mít tinh. Ông Giang viết rằng, trong quan hệ với Trung Quốc phải mềm mỏng hơn, và tiến tới bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Đó là quan điểm của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Nhưng đoạn này đã không được duyệt.

Liên quan đến việc góp ý vào Dự thảo Hiến pháp 1980, chính nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, tại Hội nghị Tổng kết Công tác Đối ngoại năm 2007, đã kể lại rằng, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã giao cho ông Niên chuyển bản góp ý của Bộ Ngoại giao tới các ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ. Theo quan điểm của Bộ Ngoại giao, trong Lời Nói Đầu của Dự thảo Hiến pháp 1980 không nên đưa câu “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”. Nhưng ý kiến này cũng lại bị gạt đi.

Khoảng 2-3 tháng trước Đại hội VII (6/1991), trong một buổi họp giao ban, đến phần đọc tin A, có một đoạn tin nói Trung Quốc đang tìm cách hạ bệ ông Thạch. Khi mọi người ra về, tôi nghe thấy ông Thạch lẩm bẩm một mình: Mình là người chủ trì Nghị quyết XIII, mà một trong những nội dung quan trọng là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, thế mà... họ cứ hiểu ngược lại.

Thế còn chuyện Trung Quốc không ưa ông Thạch thực hư như thế nào, ông có biết không?

Tôi cho rằng Trung Quốc không ưa ông Thạch mạnh như thế vì họ vừa hiểu lầm, vừa không thích ông ấy.

Va chạm của Trung Quốc với ông Thạch diễn ra trong một thời gian dài, chủ yếu liên quan tới lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Hơn nữa, chính ông Thạch đã chỉ đạo ông Thứ trưởng Trần Quang Cơ đàm phán với Từ Đôn Tín ngay từ buổi đầu đã cực kỳ căng thẳng. Quan điểm của ông Thạch là, không phụ thuộc vào ý thức hệ mà lợi ích quốc gia là chính. Còn Trung Quốc cũng vì lợi ích quốc gia nên họ cho rằng làm việc với ông Thạch sẽ rất khó, và vướng nhiều thứ. Họ muốn đàm phán với người khác, theo ý thức hệ, dễ hơn.

Đại sứ Trung Quốc sau này là ông Lý Gia Chung, một người biết tiếng Việt rất giỏi, đã nói rằng quan điểm cho rằng ông Thạch chống Trung Quốc là hoàn toàn sai lầm.

Còn việc ông Nguyễn Cơ Thạch không được bầu chọn ở Đại hội VII có phải do sức ép đến từ bên ngoài không?

Không đúng. Nguyên nhân do hồi đó vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, ví dụ như chuyện ngoại giao ý thức hệ và ngoại giao vì lợi ích quốc gia dân tộc. Và ông Thạch không được Bộ Chính trị và Trung ương khóa VI giới thiệu ứng cử tiếp tục.

Xin cảm ơn ông Vũ Dương Huân đã dành thời gian cho Tuần Việt Nam!

Huỳnh Phan – Lan Anh

(Tuần Việt Nam)
Báo Tây nói gì về tên lửa bờ Bastion-P của Việt Nam?

Báo Tây nói gì về tên lửa bờ Bastion-P của Việt Nam?

Báo chí phương Tây và Nga mới đây đồng loạt đăng tải thông tin bày tỏ sự quan tâm tới tổ hợp tên lửa bờ K-300P Bastion-P của Việt Nam mới được đưa ra diễn tập. (Theo...
Hội nghị Ngoại giao 29 sẽ bàn biện pháp nâng cao hiệu quả đối ngoại

Hội nghị Ngoại giao 29 sẽ bàn biện pháp nâng cao hiệu quả đối ngoại

Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 sẽ tập trung đánh giá tình hình thế giới, tác động, thách thức đối với đất nước để từ đó kiến nghị các biện pháp, giải pháp về mặt đối ngoại...

Không có nhận xét nào: