Posted on 06/01/2011 by Doi Thoai
Bài 1: MỘT MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TRÁI HIẾN PHÁP, PHÁP LUẬT: THỦ PHẠM XÔ ĐẨY VINASHIN VÀO RỐI LOẠN, SUY SỤP !
Qua các dẫn chứng và các cơ sở pháp lý sau đây cho thấy: mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập theo NĐ101 là một mô hình tổ chức không nằm trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, Luật Văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức chính phủ; Luật Doanh nghiệp. Vì những sự trái ngoe này nên dẫn tới những hệ lụy như đã thấy ở Vinashin !
Đã có rất nhiều chuyên gia mổ xẻ phân tích các nguyên nhân dẫn tới thảm họa Vinashin, một sản phẩm của cái mô hình quản trị doanh nghiệp thí điểm chính thức ra đời sau Quyết định 91-TTg Hà Nội, ngày 07 tháng 3 năm 1994 ( QĐ91 ); Mô hình thí điểm này được luật hóa bằng văn bản dưới luật có tên: Nghị định 101/2009/NĐ-CP( NĐ101) ngày 5/11/2009 thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước; Nghị định ban hành sau 15 năm, kể từ quyết định thành lập thí điểm mô hình quản trị mà giới doanh nghiệp hay gọi tắt là Tập đoàn 90- 91 …
Việc thiết kế mô hình quản trị các Tập đoàn kinh tế nhà nước theo QĐ91 và NĐ101 đã được tiến hành theo quy trình: “sinh con rồi mới sinh cha; sinh cháu giữ nhà rồi …” mà “ông” thì chưa được pháp luật thừa nhận ?!
Mô hình quản trị này đã tạo ra cái quan hệ pháp lý loằng ngoằng: Các tập đoàn kinh tế nghiễm nhiên trở thành con của ông ( Thủ tướng ) và chỉ là em ( hay cháu ) của các Bộ quản lý chuyên ngành; trong khi đó thì về quy luật tự nhiên-xã hội, để hình thành gia phong của một gia đình, đảm báo tính hiếu thuận trong quan hệ con cháu đối với cha mẹ, ông bà, trật tự sinh thành của các thành viên trong gia đình phải là “con cha, cháu ông”…
Cái trật tự pháp lý loằng ngoằng này đã đẩy các cơ quan quản lý chuyên ngành bị đẩy ra vị thế chầu rìa trách nhiệm: bố trở thành anh và ông trở thành cha; trật tự này là thủ phạm gây ra thảm cảnh lăng loàn trong quan hệ: trên bảo dưới không nghe; anh bảo em để ngoài tai; mặc dù trên danh nghĩa pháp lý ông anh ( Bộ ) vẫn phải chịu trách nhiệm về ông em ( Con-Tập đoàn kinh tế)…
Điều này đã bộc lộ qua các trả lời chất vấn, giải trình trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch-Đầu tư trong phiên chất vấn của Quốc hội vừa qua. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch- Kế hoạch Đầu tư trả lời đã tham mưu hết trách nhiệm; Bộ Tài chính thì cho biết: đã thanh tra, kiểm tra, đã phát hiện, đã kiến nghị nhưng Vinashin để đấy, không tiếp thu vẫn dối trá; Còn Bộ Giao thông Vận tải qua trả lời có thể hiểu: Các vị đi mà hỏi Thủ tướng, trách nhiệm Vinashin thuộc Thủ tướng không thuộc quyền của Bộ…
Các quy chuẩn pháp lý khi thiết kế một mô hình quản trị kinh tế-xã hội nó giống như các quy định của ngành kiến trúc xây dựng khi quyết định xây một ngôi nhà; khi thiết kế một ngôi nhà, kiến trúc sư phải tính toán: cái móng phải được ép bao nhiêu chiếc cọc, ở vị trí nào, độ sâu bao nhiêu, độ dày của dầm cột được đặt loại thép gì, bao nhiêu thanh, dày mỏng như thế nào, mác xi măng bao nhiêu…
Nếu kiến trúc sư do chủ quan, do nhầm lẫn, hoặc do không đủ kiến thức chuyên sâu dẫn tới việc thiết kế sai, nhầm, bất chấp những quy tắc và nguyên tắc chịu ứng lực quy ước của các bộ phận kết cấu của ngôi nhà, tải trọng xô phá lung tung thì tất yếu sẽ dẫn tới: ngôi nhà xây lên, nó lập tức bị xiêu vẹo, nghiêng, lún, rạn vỡ xô phá lẫn nhau dẫn tới sự sụp đổ là khó tránh…
Phần lớn các bài viết về Vinashin đều tìm nguyên nhân về sự suy sụp,sự bục vỡ của từng bộ phận của “con tàu Vinashin”; sự bục vỡ này do chất lượng của các “ mảng miếng “ đầu tư kinh doanh của Vinashin không đạt yêu cầu của của thị trường: cán bộ không đủ phẩm chất năng lực, dối trá, cố ý làm trái, đầu tư sử dụng vốn dàn trải sai, vay và cho vay vô tội vạ…Do các mảng miếng kinh doanh không giống ai này, từ đó làm phát sinh sự liên kết nội tại lỏng lẻo, dẫn tới bục, vỡ, tàu Vinashin chìm? Chưa có công trình nào đi cho tới tận gốc của vấn đề: kết cấu tổng thể của tập đoàn kinh tế đứng về phương diện pháp lý là một mô hình quản trị bất cập, nếu không muốn nói là trái Hiến pháp, vi phạm luật…
Xin bắt đầu bằng QĐ91. Năm 1994 Thủ tướng ra đã ban hành quyết định thành lập mô hình thí điểm Tập đoàn kinh tế nhà nước. Xin trích ra đây phần căn cứ pháp lý mà Thủ tướng đã ký ban hành Quyết định 91, đó là 2 căn cứ: Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ IV, khoá IX; Căn cứ kết luận của Chính phủ tại phiên họp ngày 6 tháng 1 năm 1994…
Như vậy, cơ sở pháp lý của Quyết định 91 hết sức mỏng manh, chỉ dựa vào Nghị quyết của Quốc hội; hiện nay chúng tôi chưa tìm được nội dung của nghị quyết này. Về nguyên tắc pháp lý thì Thủ tướng muốn ban hành một quyết định, phải căn cứ vào luật; quan chức ( từ Chủ tịch nước trở xuống ) chỉ được phép làm những điều pháp luật cho phép…
Tạm bỏ qua cơ sở pháp lý của Quyết định 91, bởi do nó còn mang ý nghĩa của mô hình quản trị thí điểm, do đó nó có thể được điều chỉnh tức thì nếu phát hiện thấy sai, hỏng…
Sau thời gian thí điểm, nếu thấy mô hình quản trị này là tiên tiến là tích cực thì Thủ tướng Chính phủ phải luật hóa nó, bổ sung điều chỉnh các bộ luật liên quan và các văn bản dưới luật ( nghị định ) để đưa nó vào quy chuẩn quản lý bằng luật pháp; nhưng không ?
Sau 15 năm thí điểm, ngày 5/11/2009 Thủ tướng đã lại bàn hành một nghị định mà tên nghị định tiếp tục chứa đựng nội dung thí điểm: Nghị định 101 thí điểm thành lập, tổ chức, họa động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước…
Điều bất bình thường của NĐ 101 đó là: danh nghĩa là thí điểm nhưng Thủ tướng đã thành lập một lúc 11 tập đoàn kinh tế mạnh, ban hành theo quyết định này, 11 tập đoàn này đều là những tập đoàn mang ý nghĩa yết hầu kinh tế. Không một quốc gia nào lại ban hành văn bản dưới luật thí điểm thành lập trên chục tập đoàn kinh tế khi mà luật gốc là Hiến pháp và các bộ luật có liên quan chịu trách nhiệm điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng chưa sửa đổi, bổ sung.
Chưa kể cái mô hình đó có thật sự đã tương thích với khả năng quản lý và độ thích ứng với cơ chế thị trường không ? Đến thời điểm ban hành NĐ101 và cho đến hiện tại, các bộ luật có liên quan chưa sửa đổi, bổ sung các điều luật để quy chuẩn mô hình quản trị tập đoàn kinh tế này; chưa cho phép Thủ tướng được ban hành loại văn bản này. Tóm lại, một số chức năng quy định trong Nghị định 11 là những chức năng, nhiệm vụ do Thủ tướng tự cơi nới cho mình, chưa được luật nào cho phép.
Xin chứng minh:
Hiến pháp 1992 quy định:
Tại Điều 109: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Điều 114
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
-Hiến pháp không quy định Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc các Tập đoàn kinh tế vì các đơn vị này không thuộc thành viên của Chính phủ; thành viên của các cơ quan hành chính nhà nước ?!
Luật Văn bản Quy phạm Pháp luật, số 17/2008/QH12 ngày 03-06-2008 quy định:
Điều 14 về thẩm quyền của Thủ tướng được ban hành văn bản Nghị định của Chính phủ; văn bản này được quy định các nội dung sau:
1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2. Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ;
3. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
Điều 15. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:1. Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bài 1: MỘT MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TRÁI HIẾN PHÁP, PHÁP LUẬT: THỦ PHẠM XÔ ĐẨY VINASHIN VÀO RỐI LOẠN, SUY SỤP !
Qua các dẫn chứng và các cơ sở pháp lý sau đây cho thấy: mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập theo NĐ101 là một mô hình tổ chức không nằm trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, Luật Văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức chính phủ; Luật Doanh nghiệp. Vì những sự trái ngoe này nên dẫn tới những hệ lụy như đã thấy ở Vinashin !
Đã có rất nhiều chuyên gia mổ xẻ phân tích các nguyên nhân dẫn tới thảm họa Vinashin, một sản phẩm của cái mô hình quản trị doanh nghiệp thí điểm chính thức ra đời sau Quyết định 91-TTg Hà Nội, ngày 07 tháng 3 năm 1994 ( QĐ91 ); Mô hình thí điểm này được luật hóa bằng văn bản dưới luật có tên: Nghị định 101/2009/NĐ-CP( NĐ101) ngày 5/11/2009 thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước; Nghị định ban hành sau 15 năm, kể từ quyết định thành lập thí điểm mô hình quản trị mà giới doanh nghiệp hay gọi tắt là Tập đoàn 90- 91 …
Việc thiết kế mô hình quản trị các Tập đoàn kinh tế nhà nước theo QĐ91 và NĐ101 đã được tiến hành theo quy trình: “sinh con rồi mới sinh cha; sinh cháu giữ nhà rồi …” mà “ông” thì chưa được pháp luật thừa nhận ?!
Mô hình quản trị này đã tạo ra cái quan hệ pháp lý loằng ngoằng: Các tập đoàn kinh tế nghiễm nhiên trở thành con của ông ( Thủ tướng ) và chỉ là em ( hay cháu ) của các Bộ quản lý chuyên ngành; trong khi đó thì về quy luật tự nhiên-xã hội, để hình thành gia phong của một gia đình, đảm báo tính hiếu thuận trong quan hệ con cháu đối với cha mẹ, ông bà, trật tự sinh thành của các thành viên trong gia đình phải là “con cha, cháu ông”…
Cái trật tự pháp lý loằng ngoằng này đã đẩy các cơ quan quản lý chuyên ngành bị đẩy ra vị thế chầu rìa trách nhiệm: bố trở thành anh và ông trở thành cha; trật tự này là thủ phạm gây ra thảm cảnh lăng loàn trong quan hệ: trên bảo dưới không nghe; anh bảo em để ngoài tai; mặc dù trên danh nghĩa pháp lý ông anh ( Bộ ) vẫn phải chịu trách nhiệm về ông em ( Con-Tập đoàn kinh tế)…
Điều này đã bộc lộ qua các trả lời chất vấn, giải trình trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch-Đầu tư trong phiên chất vấn của Quốc hội vừa qua. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch- Kế hoạch Đầu tư trả lời đã tham mưu hết trách nhiệm; Bộ Tài chính thì cho biết: đã thanh tra, kiểm tra, đã phát hiện, đã kiến nghị nhưng Vinashin để đấy, không tiếp thu vẫn dối trá; Còn Bộ Giao thông Vận tải qua trả lời có thể hiểu: Các vị đi mà hỏi Thủ tướng, trách nhiệm Vinashin thuộc Thủ tướng không thuộc quyền của Bộ…
Các quy chuẩn pháp lý khi thiết kế một mô hình quản trị kinh tế-xã hội nó giống như các quy định của ngành kiến trúc xây dựng khi quyết định xây một ngôi nhà; khi thiết kế một ngôi nhà, kiến trúc sư phải tính toán: cái móng phải được ép bao nhiêu chiếc cọc, ở vị trí nào, độ sâu bao nhiêu, độ dày của dầm cột được đặt loại thép gì, bao nhiêu thanh, dày mỏng như thế nào, mác xi măng bao nhiêu…
Nếu kiến trúc sư do chủ quan, do nhầm lẫn, hoặc do không đủ kiến thức chuyên sâu dẫn tới việc thiết kế sai, nhầm, bất chấp những quy tắc và nguyên tắc chịu ứng lực quy ước của các bộ phận kết cấu của ngôi nhà, tải trọng xô phá lung tung thì tất yếu sẽ dẫn tới: ngôi nhà xây lên, nó lập tức bị xiêu vẹo, nghiêng, lún, rạn vỡ xô phá lẫn nhau dẫn tới sự sụp đổ là khó tránh…
Phần lớn các bài viết về Vinashin đều tìm nguyên nhân về sự suy sụp,sự bục vỡ của từng bộ phận của “con tàu Vinashin”; sự bục vỡ này do chất lượng của các “ mảng miếng “ đầu tư kinh doanh của Vinashin không đạt yêu cầu của của thị trường: cán bộ không đủ phẩm chất năng lực, dối trá, cố ý làm trái, đầu tư sử dụng vốn dàn trải sai, vay và cho vay vô tội vạ…Do các mảng miếng kinh doanh không giống ai này, từ đó làm phát sinh sự liên kết nội tại lỏng lẻo, dẫn tới bục, vỡ, tàu Vinashin chìm? Chưa có công trình nào đi cho tới tận gốc của vấn đề: kết cấu tổng thể của tập đoàn kinh tế đứng về phương diện pháp lý là một mô hình quản trị bất cập, nếu không muốn nói là trái Hiến pháp, vi phạm luật…
Xin bắt đầu bằng QĐ91. Năm 1994 Thủ tướng ra đã ban hành quyết định thành lập mô hình thí điểm Tập đoàn kinh tế nhà nước. Xin trích ra đây phần căn cứ pháp lý mà Thủ tướng đã ký ban hành Quyết định 91, đó là 2 căn cứ: Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ IV, khoá IX; Căn cứ kết luận của Chính phủ tại phiên họp ngày 6 tháng 1 năm 1994…
Như vậy, cơ sở pháp lý của Quyết định 91 hết sức mỏng manh, chỉ dựa vào Nghị quyết của Quốc hội; hiện nay chúng tôi chưa tìm được nội dung của nghị quyết này. Về nguyên tắc pháp lý thì Thủ tướng muốn ban hành một quyết định, phải căn cứ vào luật; quan chức ( từ Chủ tịch nước trở xuống ) chỉ được phép làm những điều pháp luật cho phép…
Tạm bỏ qua cơ sở pháp lý của Quyết định 91, bởi do nó còn mang ý nghĩa của mô hình quản trị thí điểm, do đó nó có thể được điều chỉnh tức thì nếu phát hiện thấy sai, hỏng…
Sau thời gian thí điểm, nếu thấy mô hình quản trị này là tiên tiến là tích cực thì Thủ tướng Chính phủ phải luật hóa nó, bổ sung điều chỉnh các bộ luật liên quan và các văn bản dưới luật ( nghị định ) để đưa nó vào quy chuẩn quản lý bằng luật pháp; nhưng không ?
Sau 15 năm thí điểm, ngày 5/11/2009 Thủ tướng đã lại bàn hành một nghị định mà tên nghị định tiếp tục chứa đựng nội dung thí điểm: Nghị định 101 thí điểm thành lập, tổ chức, họa động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước…
Điều bất bình thường của NĐ 101 đó là: danh nghĩa là thí điểm nhưng Thủ tướng đã thành lập một lúc 11 tập đoàn kinh tế mạnh, ban hành theo quyết định này, 11 tập đoàn này đều là những tập đoàn mang ý nghĩa yết hầu kinh tế. Không một quốc gia nào lại ban hành văn bản dưới luật thí điểm thành lập trên chục tập đoàn kinh tế khi mà luật gốc là Hiến pháp và các bộ luật có liên quan chịu trách nhiệm điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng chưa sửa đổi, bổ sung.
Chưa kể cái mô hình đó có thật sự đã tương thích với khả năng quản lý và độ thích ứng với cơ chế thị trường không ? Đến thời điểm ban hành NĐ101 và cho đến hiện tại, các bộ luật có liên quan chưa sửa đổi, bổ sung các điều luật để quy chuẩn mô hình quản trị tập đoàn kinh tế này; chưa cho phép Thủ tướng được ban hành loại văn bản này. Tóm lại, một số chức năng quy định trong Nghị định 11 là những chức năng, nhiệm vụ do Thủ tướng tự cơi nới cho mình, chưa được luật nào cho phép.
Xin chứng minh:
Hiến pháp 1992 quy định:
Tại Điều 109: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Điều 114
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
-Hiến pháp không quy định Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc các Tập đoàn kinh tế vì các đơn vị này không thuộc thành viên của Chính phủ; thành viên của các cơ quan hành chính nhà nước ?!
Tại Điều 109: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Điều 114
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
-Hiến pháp không quy định Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc các Tập đoàn kinh tế vì các đơn vị này không thuộc thành viên của Chính phủ; thành viên của các cơ quan hành chính nhà nước ?!
Luật Văn bản Quy phạm Pháp luật, số 17/2008/QH12 ngày 03-06-2008 quy định:
Điều 14 về thẩm quyền của Thủ tướng được ban hành văn bản Nghị định của Chính phủ; văn bản này được quy định các nội dung sau:
1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2. Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ;
3. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
Điều 15. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:1. Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2. Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ;
3. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
Điều 15. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:1. Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Luật Tổ chức Chính phủ số 32/2001/QH10
quy định tại Điều 8,Chính phủ có 11 nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
4. Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; ( quản lý chứ không đứng ra tổ chức kinh doanh-PVĐ… )
7. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
Điều 9
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế:
1. Thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, chú trọng các ngành và lĩnh vực then chốt để bảo đảm vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quyết định chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
2. Quyết định chính sách cụ thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn;
3. Xây dựng dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội dài hạn, năm năm, hàng năm trình Quốc hội; chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đó;
4. Trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương, tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm; tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định;
5. Quyết định chính sách cụ thể, các biện pháp về tài chính, tiền tệ, tiền lương, giá cả;
6. Thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tài nguyên quốc gia; thi hành chính sách tiết kiệm; thực hiện chức năng chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật;
9. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước.
Điều 20
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp:
a) Quyết định các chủ trương, biện pháp cần thiết để lãnh đạo và điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
b) Chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật trình Quốc hội, các dự án pháp lệnh trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội; các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ;
5. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
6. Quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đề cao kỷ luật, ngăn ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy và trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
Nếu căn cứ vào các nội dung đã ban hành trong Hiến pháp 1992, Luật Văn bản Quy phạm Pháp luật, số 17/2008/QH12 ngày 03-06-2008; Luật Tổ chức Chính phủ thì NĐ 101 là một “đứa con hoang” bởi các bất cập pháp lý. Điều này thể hiện qua các nội dung được ban hành trong NĐ101 trái với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng đã được luật định trong Hiến pháp 1992 và các bộ luật đã nêu trên.
Đó là các nội dung:
Điều 9. Phương thức thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước trên cơ sở các tổng công ty, công ty nhà nước đủ điều kiện quy định tại Điều 10 Nghị định này.
Điều 11. Trình tự, thủ tục xây dựng và triển khai Đề án thành lập, phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước
1. Cho phép xây dựng Đề án: căn cứ quy định của Chính phủ về ngành, lĩnh vực thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ quan hoặc tổ chức xây dựng Đề án thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước.
2. Xây dựng, trình Đề án: cơ quan hoặc tổ chức được Thủ tướng Chính phủ giao xây dựng Đề án thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước có trách nhiệm tổ chức xây dựng Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước; lấy ý kiến của các Bộ quy định tại điểm d khoản này; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hồ sơ Đề án trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bao gồm:
a) Tờ trình về Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước;
b) Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước
Đề án gồm các nội dung cơ bản sau đây: sự cần thiết, mục đích thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước; thực trạng tổ chức, quản lý và hoạt động của tổng công ty nhà nước, cơ cấu các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết; phương thức xây dựng, duy trì và phát triển các hình thức liên kết giữa tổng công ty, công ty mẹ với các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết và giữa các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết; phương thức hình thành công ty mẹ; hình thức pháp lý, tên gọi, cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty mẹ; tên gọi, hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp thành viên; ngành nghề kinh doanh chính và ngành nghề có liên quan; cơ cấu đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh chính, ngành nghề có liên quan và không liên quan trong tập đoàn kinh tế nhà nước; phương án sử dụng, phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo quản lý tại công ty mẹ; nguồn nhân lực thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu công ty mẹ tại các doanh nghiệp thành viên; phương án sắp xếp, sử dụng nguồn nhân lực; phương án hoạt động kinh doanh của tập đoàn kinh tế nhà nước sau khi thành lập; định hướng chiến lược phát triển dài hạn của tập đoàn; tổ chức, quản lý, điều hành trong tập đoàn kinh tế nhà nước; đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước; đề xuất với chủ sở hữu nhà nước trong hình thành tập đoàn kinh tế; kế hoạch và lộ trình chuyển đổi, hình thành tập đoàn;
c) Dự thảo Điều lệ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước;
d) Ý kiến về Đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ quản lý ngành (trong trường hợp cơ quan trình Đề án là Tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập), Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
3. Phê duyệt Đề án: Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định phê duyệt Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước. Quyết định phê duyệt Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước phải quy định rõ nội dung giám sát thực hiện Đề án và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân giám sát thực hiện Đề án, giải quyết các vướng mắc phát sinh và việc điều chỉnh Đề án (nếu cần).
4. Triển khai thực hiện Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước:
a) Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập công ty mẹ; bổ nhiệm Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị công ty mẹ;
b) Hội đồng quản trị công ty mẹ trực tiếp chịu trách nhiệm triển khai thực hiện Đề án; phát triển các hình thức liên kết trong nhóm công ty mẹ – công ty con, giữa các doanh nghiệp thành viên trong quá trình triển khai thực hiện Đề án và hoạt động của tập đoàn kinh tế.
Toàn bộ nội dung đã ghi tại Điều 11, NĐ 101 thuộc về chức năng điều hành sản xuất kinh doanh; mà Thủ tướng là người đứng đầu bộ máy hành chính chứ không phải là người đứng đầu bộ máy điều hành sản xuất kinh doanh. Nói theo ngôn ngữ thể thao: Thủ tướng đã đã lộn sân; đáng lẽ vị trí của Thủ tướng là ngồi ở cầu môn nhà giữ gôn, thế nhưng vì máu ăn thua, máu làm giàu nhanh nên Thủ tướng lại xông lên tham gia tấn công như một tiền đạo, để gôn ( quản lý hành chính, nhà nước) bị bỏ ngỏ, sơ hở…
Qua các dẫn chứng và các cơ sở pháp lý đã nêu cho thấy: mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập theo NĐ101 là một mô hình tổ chức không nằm trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, Luật Văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức chính phủ. Vì những sự trái ngoe này nên dẫn tới những hệ lụy như đã thấy ở Vinashin và chúng tác giả sẽ phân tích dẫn chứng vào bài sau !
P.V.Đ.
Bài 2: TỪ LỆCH CHUẨN NỀN TẢNG PHÁP LÝ DẪN TỚI SỰ LỆCH CHUẨN QUAN HỆ QUẢN LÝ…
Phạm Viết Đào.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa có đoạn kể về Tào Tháo:”Tào Tháo sinh ra tại huyện Tiêu, nước Bái trong gia đình giàu có, thuở nhỏ thích chơi bời phóng túng, thích săn bắn, ít chịu học hành và tỏ ra tinh ranh. Người chú ruột thấy Tào Tháo như vậy thường mách với Tào Tung về các việc làm của cháu. Tào Tháo biết vậy nghĩ cách, một lần giả bị trúng gió ngã lăn ra. Người chú chạy đi gọi Tào Tung, nhưng khi thấy cha đến thì Tào Tháo lại tươi tỉnh như bình thường. Tào Tung hỏi nguyên do, Tào Tháo nói rằng:Vì chú không thích con nên bày đặt điều xấu thôi…Từ đó Tào Tung không tin lời người chú mách tội của Tào Tháo nữa…”
Câu chuyện quan hệ “ quản lý “ giữa Tào Tháo, Tào Tung và chú ruột…trong Tam Quốc diễn nghĩa nó gần giống với cái quan hệ giữa Thủ tướng, với lãnh đạo Tập đoàn Vinashin và các bộ quản lý chuyên ngành vừa qua…Trong câu chuyện này, Tào Tháo giống với tư thế của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin; Tào Tung là Thủ tướng còn các Bộ trưởng Bộ Kế hoạch-Đầu tư; Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán nhà nước… thì giống với “ông chú” của Tào Tháo thời Tam Quốc…
Tất các các việc làm của Tập đoàn Vinashin giống y chang các hành động tinh ma của Tào Tháo thời Tam Quốc: Việc lập ra các dự án ma, xin Thủ tướng mua tàu mới nhưng lại đi mua tàu cũ; đầu tư dàn trải vào những dự án khó có khả năng thu hồi vốn, kinh doanh ngoài luồng; thực chất lỗ, mất vốn nhưng lại khai là lãi, bảo tồn được vốn…Ông bố Tào Tung ( Thủ tướng) vì là thân tình, vì thương con, con mình đẻ ra do liên kết máu mủ ruột rà nên tất yếu tin con mình hơn là tin lời “ông chú” thiện ý, muốn giáo dục cháu theo đúng nề nếp, gia phong.
Mới đây, Vietnamnet có tổ chức đối thoại trực tuyến với CEO Đặng Thành Tâm; xin trích một đoạn đối thoại dưới đây:
Nhà báo Lê Vũ Phong: Nói chuyện về kinh doanh, anh đảm nhiệm rất nhiều vị trí ở rất công ty, còn tư vấn nữa thì anh chia sẻ thời gian ở rất nhiều vị trí ấy như thế nào?
Ông Đặng Thành Tâm: Tôi cũng nói thật đó là vấn đề chia sẻ thời gian thôi.
Tôi ví dụ ông chủ tịch Toyota, doanh số của ông ấy 180 tỷ USD, gần gấp đôi GDP của VN, sao người ta không bảo là anh làm lắm thế? Nhưng đâu có phải, làm việc thì nó có hệ thống và mình đi vào hệ thống.
Trong đây cũng có người hỏi tôi có hai câu: Anh quản trị công ty như thế nào? Anh kiểm soát công ty như thế nào?
Tôi bảo là mỗi người thì có một cách quản trị, tôi thì tôi Management by Objective, có nghĩa là tôi quản trị theo mục tiêu. Đối với tôi, giám đốc hay ai nhận nhiệm vụ đó tự đề xuất chứ tôi không giao việc vì về sau mà không làm được thì người ta lại bảo anh giao khó quá.
Thế là tự anh xây dựng mục tiêu cho anh, nếu thấp quá thì tôi chê bai. Bao giờ người ta cũng khôn, để mục tiêu thấp thôi để vượt kế hoạch vì vượt kế hoạch thì thưởng. Nhưng mà như thế thì lợi nhuận không cao được. Mình phải động viên người ta nâng mục tiêu lên.
Thế nếu là tôi thì tôi sẽ đưa ra một số tiêu chí là tổng công ty có thể hỗ trợ cái gì, còn mặc quí vị muốn làm thế nào thì làm, miễn sao đạt được chỉ tiêu. Đó là quản trị theo mục tiêu.
Về quản lý, tôi chỉ quản lý đầu và đuôi thôi. Quản lý đầu vào có nghĩa là mình phải xem xét cái kế hoạch, quản lý đuôi là kết quả kết hoạch đó. Thỉnh thoảng mình mới kiểm soát người ta, gọi là kiểm soát nội bộ để xem trong cái mắt xích dây chuyền thì anh em làm có tốt hay không.
Nhưng mà thỉnh thoảng thôi để anh em người ta còn làm, chứ suốt ngày mò mò xem người ta làm gì là người ta khó chịu, không làm được đâu. Thứ hai là những người giỏi thường có cá tính, nếu anh mà cứ suốt ngày săm soi là người ta cũng không làm được.
Chúng tôi hay tổ chức các sinh hoạt cộng đồng. Khi đó mọi người giao lưu, kể chuyện một cách tự nguyện mà, người ta chia sẻ cả những cái vướng mắc. Tưởng rằng thế thôi mà đến tai chưa hết, tại vì dở thì người ta thường không nói. Kiểm tra cấp cao là phải rất khôn khéo chứ không phải là cho gián điệp đi theo.
Mình làm việc thế nào để họ cảm thấy mình thực sự tin tưởng họ thì họ mới cống hiến. Nhưng như không có nghĩa là không có hệ thống kiểm tra. Không có hệ thống kiểm tra thì bao giờ cũng phát sinh các vấn đề.”
Qua đoạn đối thoại trên cho thấy: nội dung về công việc mà CEO Đặng Thành Tâm tiến hành rất giống các quy định tại Điều 9 và Điều 11 của NĐ101; cùng có nội dung công việc quản lý, quản trị công việc đầu tư kinh doanh như nhau; chức trách giống nhau thế nhưng ông Đặng Thành Tâm lại thành công trong khi đó thì ông Nguyễn Tấn Dũng với chức trách Thủ tướng lại không làm ra kết quả, thất bại ? Không thể nói ông Đặng Thành Tâm tài hơn ông Nguyễn Tấn Dũng ! Không thể kết luận bộ máy quản trị của ông Đặng Thành Tâm tài hơn, chất lượng hơn đội ngũ cán bộ Vinashin do Thủ tướng bổ nhiệm…
Có điều nếu xem xét cụ thể, CEO Đặng Thành Tâm có các thao tác quản lý còn lỏng và mở hơn các quy định tại Điều 9 và Điều 11 của NĐ101 nhưng lại thành công và phát triển; còn Vinashin do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành lập thì lụn bại, thất thoát vốn. Vì sao ?
Vấn đề là do xuất phát từ cái cơ chế. Cơ chế vận hành do ông Đặng Thành Tâm tổ chức ra là cơ chế quản trị của một doanh nghiệp và ông được toàn quyền điều hành, nghĩa là: Đặng Thành Tâm, một doanh nhân được phép kinh doanh, làm những điều mà pháp luật không cấm. Còn ông Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng, là quan chức trong bộ máy hành chính nhà nước lại đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của tổ chức Đảng nên ông chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép; điều lệ Đảng ấn định …Đó là cái sái thứ nhất khi xem xét về vai trò, chức năng nhà quản lý của 2 ông Đặng Thành Tâm và Nguyễn Tấn Dũng…
Điều thứ 2 nếu xem xét về cơ chế lợi ích: Nếu Thủ tướng thành công, cả nước được; còn nếu thua lỗ cả nước chịu; điều này khác với cơ chế phân chia lợi ích của CEO Đặng Thành Tâm. Chính từ cái trục xoay phân chia lợi ich này mà dẫn tới các hệ quả, hệ lụy như thực tế đã diễn ra. Cơ chế của Ceo Đặng Thành Tâm lỏng mà được việc; Còn cơ chế do Nghị định 101 tạo ra tưởng chặt mà lại thành sơ hở.
Về bản chất, khi ban hành NĐ 101, Thủ tướng đã nhập vai nhà doanh nghiệp, người đại diện chủ sở hữu cao nhất “ Thái thượng hoàng” của các Chủ tịch Hội đồng quản trị các Tập đoàn kinh tế trong đó có Vinashin. Việc nhập vai mới này đã đẩy ông vào cái thế nhập nhèm về chức năng, quyền hạn theo quy định của luật pháp hiện hành; việc nhập vai này đã đẩy Thủ tướng vào cái vị trí, cái cơ chế vừa đá bóng, vừa thổi còi là một xu thế lỗi thời, thế giới đang tìm cách xa lánh, bởi nó tạo ra mộ sản phẩm quản lý “dở ông dở thằng”…
Ông cha từng đúc kết: gần chùa gọi bút bằng anh; do sự nhập nhèm vè danh phận này dẫn tới sự hủ bại quan hệ. Chính Khổng Tử có lần khuyên học trò ( đại ý ): muốn làm được cái gì cho ra hồn trước hết con người ta phải có chính danh; về nguyên tắc: chức phận của quản lý nhà nước phải là chức năng cầm cân nảy mực; muốn nảy mực đúng đường ngay mực thẳng thì nhà quản lý lúc nào cũng phải mặt sắt đen sì; còn “ lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình” thì có ngày chết đứng như Từ Hải là phải lắm…
Ai vào thăm Đại nội Huế, tại sân điện thờ chính có 2 thế lực, 2 linh vật được tạc tượng bằng đồng để thờ: Con Nghê và Con Phượng: Con phượng thì múa, con nghê thì chầu…Tại sao lại sinh ra cơ chế: Phượng múa-Nghê chầu ngay ở nơi vua trị nhậm ?
Nếu ta ví Con Phượng là các nhà doanh nghiệp, các tập đoàn 90-91 thì Con Nghê là linh vật phụ trách khâu quản lý nhà nước, là con giám sát giống như chức năng của Chính phủ, của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng…Sở dĩ người ta phải dùng Con Nghê vì loại linh vật này chỉ ăn sương, nó hưởng linh khí của trời đất chứ không thuộc loài phàm ăn, tục uống, bạ gì ăn nấy như các sinh vật phàm trần khác…
Cái cơ chế quản lý sinh ra theo Nghị định 101 đã tạo điều kiện cho Con Nghê lý ra chỉ ăn sương và hưởng linh khí của trời đất để giam sát cái chức năng múa của Con Phượng; thế nhưng do cơ chế xô, Nghê ta cũng nhảy vào sân chầu múa may với Phượng: nhận lại quả phong bì, khoác vai bá cổ với loài Phượng thì còn giám quản cái nỗi gì ?! Phượng đã là “ phàm phu “ rồi mà Nghê cũng thành tục tử, thành phường giá áo túi cơm thì còn gì là giám quản?
Đến đây, xin nhắc lại câu nói của CEO Đặng Thành Tâm trong bài đối thoại với Vietnamnet :”Con mèo mà quí vị bỏ cục mỡ ngay miệng mà nó không ăn thì không phải là con mèo. Con người có cả cái xấu cái tốt. Anh đưa 1 cái lợi ích trước mặt người ta rồi người ta vi phạm anh bảo người ta xấu nhưng không phải, đó là tại anh thôi. Nếu anh kiểm tra giám sát tốt thì anh sẽ giữ được cán bộ của anh. Cán bộ nhà nước cũng thế thôi, không kiểm tra giám sát thì dễ thất thoát…”
Đấy, cái cơ chế do Nghị định 101 tạo dựng ra là cơ chế Mỡ để miệng mèo; Cơ chế này đã phàm tục hóa Nghê-Chính phủ-Thủ tướng…
Vua muốn yên ổn trị vì trên ngai vàng trong sân Đại nội phải tạo vị trí, chỗ đứng cho nhà ông Nghê-và nhà chị Phượng; phải tạo điều kiện cho các anh chị này làm tốt chức năng, phận sự; khi 2 vị này thông đồng với nhau, ngoặc ngoẹo với nhau, chia chác với nhau thì loạn là điều khó tránh.
Một ví dụ nhỏ, ông Đặng Thành Tâm, có thể ứng xử trong vấn đề nhân sự:” Thế còn tuyển nhân sự thì tôi không cử người vào. Trong cả cái tập đoàn đầu tư Sài Gòn, họ hàng tôi không nhận vào. Tôi không muốn rằng cái hệ thống nó bị lệch lạc, người ta hiểu sai đi. Tôi mà cử người vào thì sau này cái đơn vị không thành công họ bảo tại người của anh chứ em có bảo được đâu thì thành ra lỗi của mình.”
Ông Nguyễn Tấn Dũng lại không thể làm như ông Đặng Thành Tâm vì vướng cơ chế và quan hệ cấp trên, cấp dưới, người trước, người sau, đồng hương, đồng khói… Điều này đã bộc lộ trong phiên chất vấn tại diễn đàn Quốc hội vừa qua khi một đại biểu Quốc hội chất vấn: Tại sao lại bổ nhiệm ông Phạm Thanh Bình vừa Chủ tịch Hội đồng quản trị lại kiêm Tổng Giám đốc Vinashin, một việc làm trái với Luật Doanh nghiệp? Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giải thích: Ông Phạm Thanh Bình được bổ nhiệm 2 chức trách này từ thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông là người kế nhiệm nếu thay thấy có phần nể nang; mặt khác đã cho tìm người thay mà chưa tìm được ? Đấy cái tổ con chuồn chuồn ở chỗ đấy? Chưa kể có ý kiến còn cho rằng ông Phạm Thanh Bình còn là đồng hương với ông Nguyễn Tấn Dũng?
Như vậy, từ cái sấy nẩy cái ung; từ sự bất cập, nhập nhèm về cơ chế, sở pháp lý; chức trách nhiệm vụ lại không được chuẩn tắc theo quy định pháp luật hiện hành; Tâm lý “ gần chùa gọi bụt bằng anh “, nhờn luật pháp đều là con đẻ của mô hình quản trị theo NĐ101. Có thủ trưởng nào xuất 20.000 đ cho nhân viên ra cửa hàng mua ram giấy, nhưng nhân viên lại đen tiền đó đi uống bia được không? Thế mà Thủ tướng giao cho Vinashin mua tàu mới, nhưng lại đia mua tàu cũ lại dễ hơn nhân viên hành chính đia mua một ram giấy ?
Chính chúng là thủ phạm xô đẩy Vinashin đến sự sối loạn, bục vỡ, suy sụp giống với như một ngôi nhà không được thiết kế theo đúng chuẩn tắc pháp lý về kiến trúc, xây dựng.
Do không theo chuẩn tắc nên đáng lẽ các kết cấu nương tựa vào nhau, tôn nhau lên, thì lại xô nhau, cấu xe, chụp giật nhau làm biến dạng, méo mó kết cấu dẫn tới bục vỡ, suy sụp…Hiện nay về bản chất Vinashin đã phá sản, mất khả năng thanh toán đứng về góc độ kinh tế doanh nghiệp. Có điều phải tái cơ cấu, phải nâng nó dậy là vì ý chữa cháy cho nghĩa chính trị xã hội nhiều hơn lợi ích kinh tế theo đúng nghĩa của ngôn ngữ thị trường…
P.V.Đ
1. Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
4. Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; ( quản lý chứ không đứng ra tổ chức kinh doanh-PVĐ… )
7. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
Điều 9
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế:
1. Thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, chú trọng các ngành và lĩnh vực then chốt để bảo đảm vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quyết định chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
2. Quyết định chính sách cụ thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn;
3. Xây dựng dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội dài hạn, năm năm, hàng năm trình Quốc hội; chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đó;
4. Trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương, tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm; tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định;
5. Quyết định chính sách cụ thể, các biện pháp về tài chính, tiền tệ, tiền lương, giá cả;
6. Thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tài nguyên quốc gia; thi hành chính sách tiết kiệm; thực hiện chức năng chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật;
9. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước.
Điều 20
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp:
a) Quyết định các chủ trương, biện pháp cần thiết để lãnh đạo và điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
b) Chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật trình Quốc hội, các dự án pháp lệnh trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội; các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ;
5. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
6. Quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đề cao kỷ luật, ngăn ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy và trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
Nếu căn cứ vào các nội dung đã ban hành trong Hiến pháp 1992, Luật Văn bản Quy phạm Pháp luật, số 17/2008/QH12 ngày 03-06-2008; Luật Tổ chức Chính phủ thì NĐ 101 là một “đứa con hoang” bởi các bất cập pháp lý. Điều này thể hiện qua các nội dung được ban hành trong NĐ101 trái với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng đã được luật định trong Hiến pháp 1992 và các bộ luật đã nêu trên.
Đó là các nội dung:
Điều 9. Phương thức thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước trên cơ sở các tổng công ty, công ty nhà nước đủ điều kiện quy định tại Điều 10 Nghị định này.
Điều 11. Trình tự, thủ tục xây dựng và triển khai Đề án thành lập, phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước
1. Cho phép xây dựng Đề án: căn cứ quy định của Chính phủ về ngành, lĩnh vực thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ quan hoặc tổ chức xây dựng Đề án thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước.
2. Xây dựng, trình Đề án: cơ quan hoặc tổ chức được Thủ tướng Chính phủ giao xây dựng Đề án thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước có trách nhiệm tổ chức xây dựng Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước; lấy ý kiến của các Bộ quy định tại điểm d khoản này; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hồ sơ Đề án trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bao gồm:
a) Tờ trình về Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước;
b) Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước
Đề án gồm các nội dung cơ bản sau đây: sự cần thiết, mục đích thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước; thực trạng tổ chức, quản lý và hoạt động của tổng công ty nhà nước, cơ cấu các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết; phương thức xây dựng, duy trì và phát triển các hình thức liên kết giữa tổng công ty, công ty mẹ với các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết và giữa các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết; phương thức hình thành công ty mẹ; hình thức pháp lý, tên gọi, cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty mẹ; tên gọi, hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp thành viên; ngành nghề kinh doanh chính và ngành nghề có liên quan; cơ cấu đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh chính, ngành nghề có liên quan và không liên quan trong tập đoàn kinh tế nhà nước; phương án sử dụng, phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo quản lý tại công ty mẹ; nguồn nhân lực thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu công ty mẹ tại các doanh nghiệp thành viên; phương án sắp xếp, sử dụng nguồn nhân lực; phương án hoạt động kinh doanh của tập đoàn kinh tế nhà nước sau khi thành lập; định hướng chiến lược phát triển dài hạn của tập đoàn; tổ chức, quản lý, điều hành trong tập đoàn kinh tế nhà nước; đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước; đề xuất với chủ sở hữu nhà nước trong hình thành tập đoàn kinh tế; kế hoạch và lộ trình chuyển đổi, hình thành tập đoàn;
c) Dự thảo Điều lệ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước;
d) Ý kiến về Đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ quản lý ngành (trong trường hợp cơ quan trình Đề án là Tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập), Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
3. Phê duyệt Đề án: Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định phê duyệt Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước. Quyết định phê duyệt Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước phải quy định rõ nội dung giám sát thực hiện Đề án và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân giám sát thực hiện Đề án, giải quyết các vướng mắc phát sinh và việc điều chỉnh Đề án (nếu cần).
4. Triển khai thực hiện Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước:
a) Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập công ty mẹ; bổ nhiệm Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị công ty mẹ;
b) Hội đồng quản trị công ty mẹ trực tiếp chịu trách nhiệm triển khai thực hiện Đề án; phát triển các hình thức liên kết trong nhóm công ty mẹ – công ty con, giữa các doanh nghiệp thành viên trong quá trình triển khai thực hiện Đề án và hoạt động của tập đoàn kinh tế.
Toàn bộ nội dung đã ghi tại Điều 11, NĐ 101 thuộc về chức năng điều hành sản xuất kinh doanh; mà Thủ tướng là người đứng đầu bộ máy hành chính chứ không phải là người đứng đầu bộ máy điều hành sản xuất kinh doanh. Nói theo ngôn ngữ thể thao: Thủ tướng đã đã lộn sân; đáng lẽ vị trí của Thủ tướng là ngồi ở cầu môn nhà giữ gôn, thế nhưng vì máu ăn thua, máu làm giàu nhanh nên Thủ tướng lại xông lên tham gia tấn công như một tiền đạo, để gôn ( quản lý hành chính, nhà nước) bị bỏ ngỏ, sơ hở…
Qua các dẫn chứng và các cơ sở pháp lý đã nêu cho thấy: mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập theo NĐ101 là một mô hình tổ chức không nằm trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, Luật Văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức chính phủ. Vì những sự trái ngoe này nên dẫn tới những hệ lụy như đã thấy ở Vinashin và chúng tác giả sẽ phân tích dẫn chứng vào bài sau !
P.V.Đ.
Bài 2: TỪ LỆCH CHUẨN NỀN TẢNG PHÁP LÝ DẪN TỚI SỰ LỆCH CHUẨN QUAN HỆ QUẢN LÝ…
Phạm Viết Đào.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa có đoạn kể về Tào Tháo:”Tào Tháo sinh ra tại huyện Tiêu, nước Bái trong gia đình giàu có, thuở nhỏ thích chơi bời phóng túng, thích săn bắn, ít chịu học hành và tỏ ra tinh ranh. Người chú ruột thấy Tào Tháo như vậy thường mách với Tào Tung về các việc làm của cháu. Tào Tháo biết vậy nghĩ cách, một lần giả bị trúng gió ngã lăn ra. Người chú chạy đi gọi Tào Tung, nhưng khi thấy cha đến thì Tào Tháo lại tươi tỉnh như bình thường. Tào Tung hỏi nguyên do, Tào Tháo nói rằng:Vì chú không thích con nên bày đặt điều xấu thôi…Từ đó Tào Tung không tin lời người chú mách tội của Tào Tháo nữa…”
Câu chuyện quan hệ “ quản lý “ giữa Tào Tháo, Tào Tung và chú ruột…trong Tam Quốc diễn nghĩa nó gần giống với cái quan hệ giữa Thủ tướng, với lãnh đạo Tập đoàn Vinashin và các bộ quản lý chuyên ngành vừa qua…Trong câu chuyện này, Tào Tháo giống với tư thế của lãnh đạo Tập đoàn Vinashin; Tào Tung là Thủ tướng còn các Bộ trưởng Bộ Kế hoạch-Đầu tư; Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán nhà nước… thì giống với “ông chú” của Tào Tháo thời Tam Quốc…
Tất các các việc làm của Tập đoàn Vinashin giống y chang các hành động tinh ma của Tào Tháo thời Tam Quốc: Việc lập ra các dự án ma, xin Thủ tướng mua tàu mới nhưng lại đi mua tàu cũ; đầu tư dàn trải vào những dự án khó có khả năng thu hồi vốn, kinh doanh ngoài luồng; thực chất lỗ, mất vốn nhưng lại khai là lãi, bảo tồn được vốn…Ông bố Tào Tung ( Thủ tướng) vì là thân tình, vì thương con, con mình đẻ ra do liên kết máu mủ ruột rà nên tất yếu tin con mình hơn là tin lời “ông chú” thiện ý, muốn giáo dục cháu theo đúng nề nếp, gia phong.
Mới đây, Vietnamnet có tổ chức đối thoại trực tuyến với CEO Đặng Thành Tâm; xin trích một đoạn đối thoại dưới đây:
Nhà báo Lê Vũ Phong: Nói chuyện về kinh doanh, anh đảm nhiệm rất nhiều vị trí ở rất công ty, còn tư vấn nữa thì anh chia sẻ thời gian ở rất nhiều vị trí ấy như thế nào?
Ông Đặng Thành Tâm: Tôi cũng nói thật đó là vấn đề chia sẻ thời gian thôi.
Tôi ví dụ ông chủ tịch Toyota, doanh số của ông ấy 180 tỷ USD, gần gấp đôi GDP của VN, sao người ta không bảo là anh làm lắm thế? Nhưng đâu có phải, làm việc thì nó có hệ thống và mình đi vào hệ thống.
Trong đây cũng có người hỏi tôi có hai câu: Anh quản trị công ty như thế nào? Anh kiểm soát công ty như thế nào?
Tôi bảo là mỗi người thì có một cách quản trị, tôi thì tôi Management by Objective, có nghĩa là tôi quản trị theo mục tiêu. Đối với tôi, giám đốc hay ai nhận nhiệm vụ đó tự đề xuất chứ tôi không giao việc vì về sau mà không làm được thì người ta lại bảo anh giao khó quá.
Thế là tự anh xây dựng mục tiêu cho anh, nếu thấp quá thì tôi chê bai. Bao giờ người ta cũng khôn, để mục tiêu thấp thôi để vượt kế hoạch vì vượt kế hoạch thì thưởng. Nhưng mà như thế thì lợi nhuận không cao được. Mình phải động viên người ta nâng mục tiêu lên.
Thế nếu là tôi thì tôi sẽ đưa ra một số tiêu chí là tổng công ty có thể hỗ trợ cái gì, còn mặc quí vị muốn làm thế nào thì làm, miễn sao đạt được chỉ tiêu. Đó là quản trị theo mục tiêu.
Về quản lý, tôi chỉ quản lý đầu và đuôi thôi. Quản lý đầu vào có nghĩa là mình phải xem xét cái kế hoạch, quản lý đuôi là kết quả kết hoạch đó. Thỉnh thoảng mình mới kiểm soát người ta, gọi là kiểm soát nội bộ để xem trong cái mắt xích dây chuyền thì anh em làm có tốt hay không.
Nhưng mà thỉnh thoảng thôi để anh em người ta còn làm, chứ suốt ngày mò mò xem người ta làm gì là người ta khó chịu, không làm được đâu. Thứ hai là những người giỏi thường có cá tính, nếu anh mà cứ suốt ngày săm soi là người ta cũng không làm được.
Chúng tôi hay tổ chức các sinh hoạt cộng đồng. Khi đó mọi người giao lưu, kể chuyện một cách tự nguyện mà, người ta chia sẻ cả những cái vướng mắc. Tưởng rằng thế thôi mà đến tai chưa hết, tại vì dở thì người ta thường không nói. Kiểm tra cấp cao là phải rất khôn khéo chứ không phải là cho gián điệp đi theo.
Mình làm việc thế nào để họ cảm thấy mình thực sự tin tưởng họ thì họ mới cống hiến. Nhưng như không có nghĩa là không có hệ thống kiểm tra. Không có hệ thống kiểm tra thì bao giờ cũng phát sinh các vấn đề.”
Qua đoạn đối thoại trên cho thấy: nội dung về công việc mà CEO Đặng Thành Tâm tiến hành rất giống các quy định tại Điều 9 và Điều 11 của NĐ101; cùng có nội dung công việc quản lý, quản trị công việc đầu tư kinh doanh như nhau; chức trách giống nhau thế nhưng ông Đặng Thành Tâm lại thành công trong khi đó thì ông Nguyễn Tấn Dũng với chức trách Thủ tướng lại không làm ra kết quả, thất bại ? Không thể nói ông Đặng Thành Tâm tài hơn ông Nguyễn Tấn Dũng ! Không thể kết luận bộ máy quản trị của ông Đặng Thành Tâm tài hơn, chất lượng hơn đội ngũ cán bộ Vinashin do Thủ tướng bổ nhiệm…
Có điều nếu xem xét cụ thể, CEO Đặng Thành Tâm có các thao tác quản lý còn lỏng và mở hơn các quy định tại Điều 9 và Điều 11 của NĐ101 nhưng lại thành công và phát triển; còn Vinashin do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành lập thì lụn bại, thất thoát vốn. Vì sao ?
Vấn đề là do xuất phát từ cái cơ chế. Cơ chế vận hành do ông Đặng Thành Tâm tổ chức ra là cơ chế quản trị của một doanh nghiệp và ông được toàn quyền điều hành, nghĩa là: Đặng Thành Tâm, một doanh nhân được phép kinh doanh, làm những điều mà pháp luật không cấm. Còn ông Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng, là quan chức trong bộ máy hành chính nhà nước lại đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của tổ chức Đảng nên ông chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép; điều lệ Đảng ấn định …Đó là cái sái thứ nhất khi xem xét về vai trò, chức năng nhà quản lý của 2 ông Đặng Thành Tâm và Nguyễn Tấn Dũng…
Điều thứ 2 nếu xem xét về cơ chế lợi ích: Nếu Thủ tướng thành công, cả nước được; còn nếu thua lỗ cả nước chịu; điều này khác với cơ chế phân chia lợi ích của CEO Đặng Thành Tâm. Chính từ cái trục xoay phân chia lợi ich này mà dẫn tới các hệ quả, hệ lụy như thực tế đã diễn ra. Cơ chế của Ceo Đặng Thành Tâm lỏng mà được việc; Còn cơ chế do Nghị định 101 tạo ra tưởng chặt mà lại thành sơ hở.
Về bản chất, khi ban hành NĐ 101, Thủ tướng đã nhập vai nhà doanh nghiệp, người đại diện chủ sở hữu cao nhất “ Thái thượng hoàng” của các Chủ tịch Hội đồng quản trị các Tập đoàn kinh tế trong đó có Vinashin. Việc nhập vai mới này đã đẩy ông vào cái thế nhập nhèm về chức năng, quyền hạn theo quy định của luật pháp hiện hành; việc nhập vai này đã đẩy Thủ tướng vào cái vị trí, cái cơ chế vừa đá bóng, vừa thổi còi là một xu thế lỗi thời, thế giới đang tìm cách xa lánh, bởi nó tạo ra mộ sản phẩm quản lý “dở ông dở thằng”…
Ông cha từng đúc kết: gần chùa gọi bút bằng anh; do sự nhập nhèm vè danh phận này dẫn tới sự hủ bại quan hệ. Chính Khổng Tử có lần khuyên học trò ( đại ý ): muốn làm được cái gì cho ra hồn trước hết con người ta phải có chính danh; về nguyên tắc: chức phận của quản lý nhà nước phải là chức năng cầm cân nảy mực; muốn nảy mực đúng đường ngay mực thẳng thì nhà quản lý lúc nào cũng phải mặt sắt đen sì; còn “ lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình” thì có ngày chết đứng như Từ Hải là phải lắm…
Ai vào thăm Đại nội Huế, tại sân điện thờ chính có 2 thế lực, 2 linh vật được tạc tượng bằng đồng để thờ: Con Nghê và Con Phượng: Con phượng thì múa, con nghê thì chầu…Tại sao lại sinh ra cơ chế: Phượng múa-Nghê chầu ngay ở nơi vua trị nhậm ?
Nếu ta ví Con Phượng là các nhà doanh nghiệp, các tập đoàn 90-91 thì Con Nghê là linh vật phụ trách khâu quản lý nhà nước, là con giám sát giống như chức năng của Chính phủ, của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng…Sở dĩ người ta phải dùng Con Nghê vì loại linh vật này chỉ ăn sương, nó hưởng linh khí của trời đất chứ không thuộc loài phàm ăn, tục uống, bạ gì ăn nấy như các sinh vật phàm trần khác…
Cái cơ chế quản lý sinh ra theo Nghị định 101 đã tạo điều kiện cho Con Nghê lý ra chỉ ăn sương và hưởng linh khí của trời đất để giam sát cái chức năng múa của Con Phượng; thế nhưng do cơ chế xô, Nghê ta cũng nhảy vào sân chầu múa may với Phượng: nhận lại quả phong bì, khoác vai bá cổ với loài Phượng thì còn giám quản cái nỗi gì ?! Phượng đã là “ phàm phu “ rồi mà Nghê cũng thành tục tử, thành phường giá áo túi cơm thì còn gì là giám quản?
Đến đây, xin nhắc lại câu nói của CEO Đặng Thành Tâm trong bài đối thoại với Vietnamnet :”Con mèo mà quí vị bỏ cục mỡ ngay miệng mà nó không ăn thì không phải là con mèo. Con người có cả cái xấu cái tốt. Anh đưa 1 cái lợi ích trước mặt người ta rồi người ta vi phạm anh bảo người ta xấu nhưng không phải, đó là tại anh thôi. Nếu anh kiểm tra giám sát tốt thì anh sẽ giữ được cán bộ của anh. Cán bộ nhà nước cũng thế thôi, không kiểm tra giám sát thì dễ thất thoát…”
Đấy, cái cơ chế do Nghị định 101 tạo dựng ra là cơ chế Mỡ để miệng mèo; Cơ chế này đã phàm tục hóa Nghê-Chính phủ-Thủ tướng…
Vua muốn yên ổn trị vì trên ngai vàng trong sân Đại nội phải tạo vị trí, chỗ đứng cho nhà ông Nghê-và nhà chị Phượng; phải tạo điều kiện cho các anh chị này làm tốt chức năng, phận sự; khi 2 vị này thông đồng với nhau, ngoặc ngoẹo với nhau, chia chác với nhau thì loạn là điều khó tránh.
Một ví dụ nhỏ, ông Đặng Thành Tâm, có thể ứng xử trong vấn đề nhân sự:” Thế còn tuyển nhân sự thì tôi không cử người vào. Trong cả cái tập đoàn đầu tư Sài Gòn, họ hàng tôi không nhận vào. Tôi không muốn rằng cái hệ thống nó bị lệch lạc, người ta hiểu sai đi. Tôi mà cử người vào thì sau này cái đơn vị không thành công họ bảo tại người của anh chứ em có bảo được đâu thì thành ra lỗi của mình.”
Ông Nguyễn Tấn Dũng lại không thể làm như ông Đặng Thành Tâm vì vướng cơ chế và quan hệ cấp trên, cấp dưới, người trước, người sau, đồng hương, đồng khói… Điều này đã bộc lộ trong phiên chất vấn tại diễn đàn Quốc hội vừa qua khi một đại biểu Quốc hội chất vấn: Tại sao lại bổ nhiệm ông Phạm Thanh Bình vừa Chủ tịch Hội đồng quản trị lại kiêm Tổng Giám đốc Vinashin, một việc làm trái với Luật Doanh nghiệp? Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giải thích: Ông Phạm Thanh Bình được bổ nhiệm 2 chức trách này từ thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông là người kế nhiệm nếu thay thấy có phần nể nang; mặt khác đã cho tìm người thay mà chưa tìm được ? Đấy cái tổ con chuồn chuồn ở chỗ đấy? Chưa kể có ý kiến còn cho rằng ông Phạm Thanh Bình còn là đồng hương với ông Nguyễn Tấn Dũng?
Như vậy, từ cái sấy nẩy cái ung; từ sự bất cập, nhập nhèm về cơ chế, sở pháp lý; chức trách nhiệm vụ lại không được chuẩn tắc theo quy định pháp luật hiện hành; Tâm lý “ gần chùa gọi bụt bằng anh “, nhờn luật pháp đều là con đẻ của mô hình quản trị theo NĐ101. Có thủ trưởng nào xuất 20.000 đ cho nhân viên ra cửa hàng mua ram giấy, nhưng nhân viên lại đen tiền đó đi uống bia được không? Thế mà Thủ tướng giao cho Vinashin mua tàu mới, nhưng lại đia mua tàu cũ lại dễ hơn nhân viên hành chính đia mua một ram giấy ?
Chính chúng là thủ phạm xô đẩy Vinashin đến sự sối loạn, bục vỡ, suy sụp giống với như một ngôi nhà không được thiết kế theo đúng chuẩn tắc pháp lý về kiến trúc, xây dựng.
Do không theo chuẩn tắc nên đáng lẽ các kết cấu nương tựa vào nhau, tôn nhau lên, thì lại xô nhau, cấu xe, chụp giật nhau làm biến dạng, méo mó kết cấu dẫn tới bục vỡ, suy sụp…Hiện nay về bản chất Vinashin đã phá sản, mất khả năng thanh toán đứng về góc độ kinh tế doanh nghiệp. Có điều phải tái cơ cấu, phải nâng nó dậy là vì ý chữa cháy cho nghĩa chính trị xã hội nhiều hơn lợi ích kinh tế theo đúng nghĩa của ngôn ngữ thị trường…
P.V.Đ
Khi những “quả đấm” không còn… thép
Bài 1: Nguy cơ mất trắng hàng ngàn tỷ đồng
Không phủ nhận vị trí đầu tàu và đóng góp cho nền kinh tế của khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong những năm qua. Nhưng thay vì củng cố sức mạnh và trở thành bệ đỡ cho các thành phần kinh tế khác, nhiều DNNN đang teo tóp.
Công ty mẹ COMA hiện có số nợ gấp 12 lần vốn chủ sở hữu.
Kiểm toán Nhà nước vừa công bố số liệu liên quan tình hình quản lý, sử dụng vốn và tài sản Nhà nước năm 2014 tại 38 tập đoàn, tổng công ty, công ty Nhà nước (tổng cộng 234 doanh nghiệp). Mổ xẻ hoạt động của các DNNN này cho thấy, nhiều đơn vị có kết quả kinh doanh thua lỗ nặng, thậm chí âm vốn chủ sở hữu tới vài chục cho đến cả trăm lần.
Lỗ khủng khiếp
Trong một lần trao đổi với phóng viên Tiền Phong, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ (khi đó là Trưởng Ban Kinh tế Trung ương) từng chia sẻ bản thân ông luôn đánh giá cao vai trò đầu tàu kinh tế của khối DNNN; đặc biệt là những tập đoàn, tổng công ty năng động, biết làm ăn kinh doanh hiệu quả trong thời kỳ đổi mới. Đó là những gương sáng: Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Dệt May Việt Nam. Tuy nhiên, ông Huệ cũng lưu ý không phải tất cả DNNN đều hoạt động hiệu quả.
Trở lại kết quả mới đây, báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về tình hình tài chính, các hoạt động liên quan quản lý, sử dụng vốn và tài sản Nhà nước tại 234 DN thuộc tập đoàn, tổng công ty Nhà nước năm 2014 cho thấy, có 33/38 tập đoàn, tổng công ty, công ty kinh doanh có lãi. Trong đó đứng đầu là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) với lợi nhuận sau thuế năm 2014 hơn 43.800 tỷ đồng; Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước – SCIC 5.289 tỷ đồng, Mobifone gần 5.100 tỷ đồng; Tập đoàn Điện lực Việt Nam gần 4.400 tỷ đồng; Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam hơn 2.500 tỷ đồng…
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra, 5/38 tập đoàn, tổng công ty, công ty kinh doanh thua lỗ, mà đứng đầu là Vinalines với số lỗ khủng lên đến gần 3.500 tỷ đồng. Riêng con số này đã gấp nhiều lần số lỗ của 4 đơn vị khác cộng lại. Ngoài ra, còn các đơn vị khác lỗ như Tổng công ty 15 là 471 tỷ đồng, Tổng công ty Xây dựng công nghiệp Việt Nam (Vinaincon) lỗ 131 tỷ đồng… 33 doanh nghiệp còn lại có lãi và bảo toàn được vốn.
Đặc biệt, hoạt động kinh doanh của nhiều tập đoàn, tổng công ty Nhà nước chủ yếu dựa vào vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn chiếm dụng… dẫn đến hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cao. Tính đến cuối năm 2015, Chính phủ đã phải bảo lãnh vay vốn hơn 26 tỷ USD cho các doanh nghiệp thuộc khối này.
Nợ khó đòi vô số kể
Kiểm toán Nhà nước cũng chỉ ra những bất cập khác của các tập đoàn, tổng công ty trong sử dụng vốn kém hiệu quả. Nhiều tập đoàn, tổng công ty quản lý nợ chưa chặt, dẫn đến thất thu, quá hạn, nợ khó đòi. Một số đơn vị xóa nợ chưa đủ điều kiện, trích lập dự phòng chưa đúng quy định, nợ tạm ứng tồn đọng nhiều năm với số tiền lớn chưa được thu hồi…
Theo Báo cáo Kiểm toán, dẫn đầu trong số doanh nghiệp có nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cao là các công ty thuộc Vinalines như Công ty Công nghiệp tàu thủy Cà Mau (154 lần), Công ty Phát triển Hàng hải (55 lần), Cảng Năm Căn (17 lần), Công ty Sửa chữa tàu biển Vinalines Đông Đô (40 lần), Cảng Cái Lân (27 lần)… Công ty mẹ COMA có số nợ gấp 12 lần vốn chủ sở hữu…
Đơn cử, Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro) có khoản nợ khó đòi lên tới hơn 376 tỷ đồng (chiếm 25,7%), Văn phòng Tổng công ty Vinataba, Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2/9, COMA 18, COMAEL,… có số nợ khó đòi lên tới vài chục tỷ đồng mỗi đơn vị. Mobifone có khoản nợ khó đòi 312 tỷ đồng, Tổng công ty Xây dựng 65,8 tỷ đồng, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia 53,8 tỷ đồng, Tổng công ty Điện lực miền Bắc 49,8 tỷ đồng. Bên cạnh một số đơn vị đầu tư tài chính có hiệu quả, nhiều nơi vẫn góp vốn vào doanh nghiệp có tình trạng tài chính xấu, nguy cơ ngừng hoạt động hoặc phải giải thể như Vận tải Viễn dương Vinashin, Vận tải Biển Đông, Vận tải Biển Bắc, Vận tải Dầu khí Việt Nam, Xi măng Hạ Long…
Điểm danh một số tập đoàn, tổng công ty sử dụng tài sản sau đầu tư không hiệu quả, gây lãng phí vốn, thua lỗ; mua sắm, thanh lý tài sản không đúng quy định, Kiểm toán Nhà nước cũng chỉ ra, tại Vinalines, 51 đơn vị có vốn đầu tư của công ty mẹ thua lỗ hoặc hiệu quả thấp. Còn tại Tập đoàn Dầu khí, khoản đầu tư 800 tỷ đồng vào Oceanbank nay đã mất toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông (Ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước mua lại giá 0 đồng). Hay như Tổng công ty Dầu Việt Nam, năm 2014 cũng phải trích lập dự phòng 1.915 tỷ đồng đối với 14 doanh nghiệp có lỗ lũy kế…
Nhận xét về hiệu quả hoạt động của khối DNNN, Tiến sĩ Nguyễn Chí Hải, Phó Trưởng khoa Kinh tế Luật (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) thẳng thắn: DNNN hiện chiếm 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn nhà nước, 60% tín dụng, 79% tổng nợ khó đòi của các ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA, thế nhưng chỉ đóng góp khoảng 30% tăng trưởng GDP. “Đây là một con số vô cùng khiêm tốn, chúng ta cần suy ngẫm”, ông Hải nói.
Bài 2: Những cỗ máy yếu, vì sao?
Từng được Chính phủ kỳ vọng là “những quả đấm thép” với đỉnh điểm đóng góp gần 40% GDP (năm 2008), khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang tụt lại, vị trí bánh lái nền kinh tế bị lung lay. Tại cơ chế hay do con người chưa đủ tài, đủ lực?
DNNN độc quyền – ngồi không cũng làm được
Cuối năm 2015, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ báo cáo tổng thể cập nhật tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2014 của các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của Nhà nước. Theo đó, tổng các khoản phát sinh phải nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty đạt 250.857 tỷ đồng, giảm 2% so với thực hiện năm 2013.
Căn cứ thực tế, bộ này nhận xét: Kết quả hoạt động của một số đơn vị chưa cao, có tập đoàn, tổng công ty báo cáo hoạt động của công ty mẹ có lãi, nhưng báo cáo hợp nhất vẫn bị lỗ và lỗ lũy kế theo báo cáo hợp nhất đến thời điểm hết năm tài chính 2014 còn cao hơn thời điểm hết năm tài chính 2013.
Xi măng Hạ Long, một đơn vị đang nợ nần âm vốn cả ngàn tỷ.
Theo Bộ Tài chính, năm 2015 tổng giá trị tài sản của DN 100% sở hữu nhà nước là 3,105 triệu tỷ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu nhà nước là 1,233 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, theo Tổng cục Thống kê vào năm 2014, DNNN chỉ tạo ra 24% doanh thu, dưới 20% giá trị sản xuất công nghiệp…
Lần giở lại một báo cáo tại Quốc hội kỳ trước đây, theo tính toán, xét về hiệu quả đầu tư, vai trò kinh tế của khu vực DNNN đang ngày càng suy giảm. Giai đoạn 2000 – 2006, khu vực kinh tế nhà nước đầu tư 7,2 đồng mới tạo ra được 1 đồng GDP, những năm 2007 – 2012 phải đầu tư tới 9,3 đồng mới tạo ra được 1 đồng.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn rất thấp và ngày càng giảm. Năm 2007, tỷ suất này của các DNNN khoảng 2,6%, nhưng đến năm 2012 giảm xuống chỉ còn 1%. Trong khi đó, tỷ lệ trả lãi vay bình quân cả trong và ngoài nước khoảng 4-5% nên nhiều DNNN khó có thể trả nợ. Điều này khiến áp lực nợ công ngày càng tăng.
Đến lúc phải thay đổi?
Trò chuyện với PV Tiền Phong, Chủ tịch Hội đồng quản trị một DNNN đang nằm trong “Top” nộp ngân sách nhiều ngàn tỷ những năm qua chia sẻ: “Chúng tôi rất hiểu cái hay, cái dở của DNNN là như thế nào và vì sao vậy. Trên thực tế đúng là DNNN rất được Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện, thậm chí, có những DNNN độc quyền thì nói thật ngồi không, họ cũng có lợi nhuận. Tuy nhiên, muốn DNNN hoạt động tốt điều chúng tôi cần hơn là cơ chế thì lại không có”.
“Hiện vốn nhà nước tại doanh nghiệp có khoảng 1,3 triệu tỷ đồng, nếu quản lý tốt tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ở mức 17% – 20%. Nếu có cơ quan quản lý hiệu quả 1,3 triệu tỷ đồng vốn nhà nước tại các DN, tương ứng tỷ suất lợi nhuận đạt 17% thì mỗi năm có thể thu về 200.000 tỷ đồng lợi nhuận từ các DNNN”
– Ông Nguyễn Hữu Quang, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội
Vị này đơn cử việc thu hút lao động hay nhân tài. Bây giờ, DNNN muốn tuyển thêm người thì bị Nghị định 52 về sử dụng lao động khống chế. Muốn xin thêm người, chúng tôi phải xin đủ chữ ký các cấp, bộ ngành. Hay cứ động đến phê duyệt đầu tư dự án, nếu so sánh với quy trình của doanh nghiệp tập đoàn tư nhân có lẽ dài hơn rất nhiều lần. Vì thế, nhiều khi cơ hội đã đi qua từ lâu dự án mới được phê duyệt. Một điểm nữa là hễ động làm gì thì tâm lý của nhiều lãnh đạo DNNN đều sợ bị dính đến pháp luật.
Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho rằng, không nói đến nhà nước hay tư nhân quan trọng nhất của một doanh nghiệp là phải có người đứng đầu giỏi. “Ưu ái DNNN là tốt nhưng họ cũng cần cơ chế chuyển động xứng đáng. Cái chúng ta cần, đó là phải có cơ chế để tuyển chọn những người đủ tầm lãnh đạo DNNN. Tôi nghĩ muốn có lãnh đạo giỏi ngay kể cả DNNN cũng cần chọn lọc dựa trên tố chất, năng lực chứ không phải do “nhân tạo”, ông Hưng nói.
K.H – L.H.V.
Nguồn:
Huy Đức - Cả Võ Kim Cự và Nguyễn Tấn Dũng đều lạm quyền!
Việc cần làm của Quốc hội không phải là bào chữa cho những kẻ phá hoại mà phải ngay lập tức nhóm họp ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên bố quyết định của Nguyễn Tấn Dũng đồng ý cho Võ Kim Cự kéo dài thời hạn đầu tư cho Formosa tới 70 năm là vô hiệu.
Formosa là nhà đầu tư tạo ra nhiều công ăn việc làm lại "ở trong khu kinh tế..." là những điều kiện để có thể xem xét việc cho kéo dài thời hạn tới 70 năm nhưng không có nghĩa là đương nhiên được kéo dài 70 năm. Những những ngành công nghiệp mà Formosa đầu tư đang bị xua đuổi khắp nơi trên thế giới ngay cả ở một quốc gia bất chấp (và đang cung cấp công nghệ, thiết bị cho Formosa) như Trung Quốc.
2008, đất nước còn nghèo, tầm nhìn hạn chế (coi như không có những lý do khác), Chính phủ có thể mắc những sai lầm lịch sử, chấp nhận những nhà đầu tư như Formosa. Nhưng 2014, mà vẫn đồng lõa với nó thì chỉ có thể coi là tội ác.
Khi Thanh tra phát hiện Võ Kim Cự lạm quyền, cấp phép kéo dài thời hạn đầu tư cho Formosa tới 70 năm, lẽ ra thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải nhóm họp Chính phủ để thảo luận vì CHÍNH PHỦ chứ không phải THỦ TƯỚNG mới có quyền quyết định thời hạn dài hơn 50 năm cho một dự án đầu tư (Điều 52, Luật Đầu tư 2005).
Hình thức ra quyết định của Chính phủ là ra nghị quyết chứ không phải là cho ý kiến.
Một quyết định hợp lý mà không hợp lệ thì cũng phải tuyên hủy (vi phạm "tố tụng"). Quyết định trên đây của "cặp bài trùng" Dũng - Cự không chỉ không đúng thẩm quyền mà còn kéo dài mối đe dọa môi trường sống của đất nước thêm 20 năm.
Không có lý do gì để hợp thức hóa cho hành vi sai trái đó.
Việc cần làm của Quốc hội không phải là bào chữa cho những kẻ phá hoại mà phải ngay lập tức nhóm họp ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên bố quyết định của Nguyễn Tấn Dũng đồng ý cho Võ Kim Cự kéo dài thời hạn đầu tư cho Formosa tới 70 năm là vô hiệu.
Huy Đức
(FB Trương Huy San)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét