Phạm Viết Đào.
( Rút từ trong tập bản thảo: VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG)
Kiểm chứng một số
thông tin trong bài “Đại tướng Lê Đức
Anh với vấn đề Trung Quốc và biển Đông” 01/02/2015 08:44 GMT+7 đăng trên
Vietnamnet, tác giả là Đại tá Khuất Biên Hòa, thư ký của Đại tướng Lê Đức Anh.
Cần phải trao đổi lại nội dung bài viết này vì: hiện Tướng Lê Đức Anh đang còn sống, nếu không minh bạch có thể dẫn tới gây hiểu lầm, gây tranh cãi cho một số vấn đề lịch sử liên quan tới quan hệ Việt-Trung-Mỹ.
(http://vietnamnet.vn/…/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trun…)
Trong bài có một số thông tin có dấu hiệu " xóa án tích" xâm lược Vị Xuyên của Trung Quốc trong cuộc chiến Vị Xuyên và bào chữa cho Trung Quốc về hành vi "bảo trợ chính" cho Khmer Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam nước ta?
Bài viết xuất hiện trong 1/2/2015, trước thềm Đại hội Đảng 12 có nhằm mục đích ve vãn, vận động Trung Quốc bảo trợ cho 1 nhóm lợi ích nào đó chăng ?!
Cần phải trao đổi lại nội dung bài viết này vì: hiện Tướng Lê Đức Anh đang còn sống, nếu không minh bạch có thể dẫn tới gây hiểu lầm, gây tranh cãi cho một số vấn đề lịch sử liên quan tới quan hệ Việt-Trung-Mỹ.
(http://vietnamnet.vn/…/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trun…)
Trong bài có một số thông tin có dấu hiệu " xóa án tích" xâm lược Vị Xuyên của Trung Quốc trong cuộc chiến Vị Xuyên và bào chữa cho Trung Quốc về hành vi "bảo trợ chính" cho Khmer Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam nước ta?
Bài viết xuất hiện trong 1/2/2015, trước thềm Đại hội Đảng 12 có nhằm mục đích ve vãn, vận động Trung Quốc bảo trợ cho 1 nhóm lợi ích nào đó chăng ?!
Kiểm chứng 1: Tướng Vũ Lập bị hạ độc vào thời điểm sau khi ông bày tỏ “sự băn khoăn”
về lệnh “lui quân” của BT Bộ Quốc phòng tại mặt trận Vị Xuyên?
Trong bài “Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển Đông”
01/02/2015 08:44
GMT+7 đăng trên Vietnamnet, tác giả là Đại tá Khuất Biên Hòa, thư ký của Đại
tướng Lê Đức Anh có một số thông tin, nhận định cần phải kiểm chứng thêm. Cần
phải trao đổi lại nội dung bài viết này vì: hiện Tướng Lê Đức Anh đang còn
sống, nếu không minh bạch có thể dẫn tới gây hiểu lầm, gây tranh cãi cho một số
vấn đề lịch sử liên quan tới quan hệ Việt-Trung-Mỹ.
Bài viết có đăng kèm ảnh chụp Đại
tướng Lê Đức Anh ngồi đang nói và Đại tá Khuất Biên Hòa đang cầm bút ghi. Đưa
hình ảnh này minh họa cho bài viết chắc tác giả- Đại tá Khuất Biên Hòa muốn
thông điệp về độ xác thực của nguồn tin bài viết; bài viết này đã được ông Lê Đức
Anh đồng ý công bố.
Đây là bài viết công bố năm 2015, sau
khi ông Lê Đức Anh đã nghỉ hưu trên cương vị Chủ tịch nước năm 1997. Như vậy,
nội dung và các thông tin trong bài đã có một độ lùi về mặt thời gian gần 30
năm, sau các sự kiện xảy ra tong bài và sau 10 năm ông Lê Đức Anh rời chính
trường...
Những thông tin trong bài hết sức quan
trọng liên quan tới các sự kiện đối ngoại tầm vĩ mô giữa Việt Nam không chỉ với
Trung Quốc và liên quan tới Cămpuchia và cả với Mỹ.
Thông tin trong bài còn liên quan tới
cuộc chiến tại Mặt trận Vị Xuyên, liên quan tới Thượng tướng Vũ Lập, nguyên Tư
lệnh Quân khu 2, có dư luận qua đời do bị Tình báo Hoa Nam đầu độc. Đại tướng
Lê Đức Anh không chỉ là nhân chứng mà trực tiếp can dự vào những sự kiện quan
trọng gắn với lịch sử Việt Nam đương đại được nêu trong bài viết…
Tướng
Vũ Lập-Tư lệnh Quân khu 2 “ băn khoăn” về lệnh lui binh tại Mặt trận Vị Xuyên ?
Bài viết của Đại tá Khuất Biên Hòa có
đoạn sau đây:
“…Khi lên thị sát
biên giới, tướng Lê Đức Anh nhắc nhở thì anh em thôi, không bắn, không chửi lại
nữa. Ông nói với anh em: “Chừ họ chửi một, các đồng chí chửi lại mười; họ bắn
một, các đồng chí bắn lại mười, cứ như thế này thì không làm được công tác tư
tưởng, không giải quyết dứt điểm được tình hình”. Anh em cán bộ hỏi: "Vậy
thưa Thủ trưởng, giờ ta làm gì để giải quyết được tình hình?". Ông bảo, họ
bắc loa chửi ta thì ta nhắc lại truyền thống và quá trình đoàn kết hữu nghị
giữa hai nước; họ bắn sang ta bằng đạn pháo, thì ta "bắn lại" bằng
tình hữu nghị! Nhất định phải làm mọi cách để nối lại tình hữu nghị, đoàn kết
giữa hai đất nước, hai dân tộc Việt-Trung. Ở cao điểm Vị Xuyên, bộ đội hai bên
nhìn rất rõ nhau vì chỉ cách nhau mấy chục thước. Ông bảo anh em mang thuốc hút
và diêm quẹt sang mời họ. Bên họ cũng nhiều anh em nghiện thuốc nên họ phấn
khởi lắm. Bộ đội hai bên nói chuyện với nhau và cũng thôi không chửi, không bắn
nhau nữa.
Tại một số điểm chốt, ông bảo anh em hãy lui về phía sau một quãng. Cán bộ, chiến sỹ đều nói rằng “Nếu mình lui mà bên kia họ lên thì lo lắm!”. Ông bảo “Cứ rút đi!”. Tiếp đó, ông cho rút từng phần các đơn vị chủ lực về phía sau, về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Lúc đó tâm lý chung của các "Tư lệnh chiến trường" và cán bộ chỉ huy các cấp là lo sợ, không anh nào dám cho chủ lực và các đơn vị dưới quyền mình lui xuống. Một hôm ông đến sở chỉ huy của Sư đoàn 316 thuộc Quân khu 2 ở phía dưới Phố Lu; khi tướng Vũ Lập, Tư lệnh Quân khu kéo đồng chí An là Chỉ huy trưởng Sư đoàn 316 lại gặp riêng ông và hỏi: "Báo cáo Bộ trưởng, đêm qua đồng chí An này đã báo cáo tôi cho đơn vị của đồng chí này lui xuống?!" Ông liền trả lời: “Đúng thế!”, thì tướng Vũ Lập tỏ vẻ sửng sốt, bất ngờ mà nói rằng "Vậy thì xin anh cho văn bản!" Tướng Anh liền bảo đồng chí Phi Long, Cục phó cục Tác chiến: “Viết lệnh để tôi ký liền!”. Thấy thái độ kiên quyết của ông, ông Vũ Lập liền nói vẻ xoa dịu: "Anh lệnh thì chúng tôi chấp hành, dù mệnh lệnh bằng giấy hay bằng miệng cũng chấp hành. Nhưng anh cho giấy để cơ quan còn lưu trữ."
Thực chất lúc này,
đối với ý định của ông, chưa phải là điều chỉnh bố trí chiến lược, mà ông chỉ
thực hiện điều chỉnh sơ bộ, vừa để cho thế phòng thủ biên giới của bộ đội ta có
chiều sâu, có thế vững chắc hơn, vừa để thăm dò phía bên kia. Khi trở về Hà
Nội, ông đã báo cáo hết tình hình với Bộ Chính trị.
Tiếp đó, cuối tháng 7/1991, tướng Lê Đức Anh được Bộ Chính trị cử làm phái viên của Bộ Chính trị sang Trung Quốc (thực chất là “đi tiền trạm”) bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hoá quan hệ hai nước. Cùng đi có đồng chí Hồng Hà, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương. Sáng ngày 28 bắt đầu khởi hành. Trên đường đi Bắc Kinh, các ông dừng chân ở Nam Ninh, thủ phủ Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây…”
(http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trung-quoc-va-bien-dong-219675.html)
Đọc
đoạn trên của bài có 1 thông tin cần phải được minh định: Đại tướng Lê Đức Anh
trên cương vị Bộ Quốc phòng gặp và làm việc với Thượng tướng Vũ Lập, Tư lệnh
Quân khu 2 vào thời gian nào? Tại đâu?
Bài
viết không ghi mốc thời gian về cuộc gặp làm việc giữa Tướng Lê Đức Anh trên
cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng với Tướng Vũ Lập, trên cương vị Tư lệnh Quân
khu 2 vào đoạn kế tiếp sau đó: “Tiếp đó, cuối tháng 7/1991, tướng
Lê Đức Anh được Bộ Chính trị cử làm phái viên của Bộ Chính trị sang Trung Quốc”…Bài viết vòn ghi rõ “sáng ngày 28”…
Nếu người đọc lướt qua thì có thể dễ nhầm cuộc gặp với Tướng
Vũ Lập diễn ra quãng đầu năm 1991 hoặc cuối năm 1990?
Trước hết về mặt thời gian, Theo WikiPedia viết về Đại
tướng Lê Đức Anh: ”Tháng 12 năm 1986, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu
trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ ngày 16 tháng 2 năm 1987[2] đến 10 tháng 8 năm 1991, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phó
bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương.” (
WikiPedia)
Cũng theo WikiPedia thì Thượng tướng
Vũ Lập đảm nhận Tư lệnh Quân khu 2 “Từ năm 1978 đến năm 1987…”
Một nguồn tin khác ghi:” Tướng Vũ Lập qua đời ngày 18/7/1987 sau
một cơn đau tim?”
Qua các nguồn tin trên,
đối chiếu và khớp với bài viết có thể xác định được cuộc làm việc của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh chỉ có thể diễn ra từ sau tháng 2-1987, ngày ông nhận
chiếc ghế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trước 18/7/1987, ngày qua đời của Tướng Vũ
Lập…
Thời điểm trước tháng 7/1987, mặt trận Vị Xuyên vẫn còn rất
nóng bỏng, đúng như bài viết của Đại tá Khuất Biên Hòa. Và như vậy, chủ trương
“lui binh” tại Mặt trận Vị Xuyên được xác đình trong giai đoạn từ
2/1987-7/1987. Chủ trương này do đích thân Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng trực tiếp ra lệnh cho Tư lệnh Quân khu 2, Thượng tướng Vũ Lập…
Bài viết của Đại tá Khuất Biên Hòa cũng đã viết: khi nhận
lệnh này Tư lệnh Quân khu 2, Tướng Vũ Lập đã bày tỏ băn khoăn về “ lệnh lui binh”
này nên đã đề nghị Tướng Lê Đức Anh ký lệnh bằng văn bản và Tướng Lê Đức Anh đã
ký…
Tướng Lê Đức Anh gặp
Tướng Vũ Lập và Sư trương 316 tại Phố Lu, Lão Cai ?
Trong bài, Đại tá Khuất Biên Hòa có viết Tướng Lê Đức Anh
gặp Tướng Vũ Lập và Sư trưởng 316 Nguyễn An
tại “sở chỉ huy của Sư đoàn 316 thuộc
Quân khu 2 ở phía dưới Phố Lu…” Đây
là thông tin đề nghị Đại tá Khuất Biên Hòa kiểm tra lại?
Thứ nhất, sau khi tham gia Chiến dịch mang Mật danh MB
84, theo một số CCB thì F 316 không chuyển qua phố Lu Lào Cai đóng quân mà chuyển
về Phú Thọ. Thứ 2, trong giai đoạn 1987, chiến sự ác liệt, do đó Bộ chỉ huy
Quân khu 2 đóng ở Yên Bái, không ở Phố Lu; Còn Tướng Vũ Lập chỉ có thể ở Yên
Bái hoặc Sở chỉ huy tiền phương Mặt trận Vị Xuyên đặt ở thị xã Hà Giang?
Tóm lại: lệnh lui quân tại Vị Xuyên được phát ra trong
giai đoạn từ “2/1987 tới tháng 7/1097”; Tướng Vũ Lập-Tư lệnh Quân khu 2 qua đời,
cò nguồn tin cho rằng bị Tình báo Hoa Nam đầu độc sau cái lệnh lui binh của BT
Bộ Quốc phòng tại chiến trường Vị Xuyên!
Kiểm chứng 2: TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH HAY ĐẠI TÁ KHUẤT BIÊN HÒA “XÓA ÁN
TÍCH” CHO TRUNG QUỐC-XÂM LƯỢC VỊ XUYÊN-HÀ GIANG? ( Phần 2 )
Trong bài “Đại tướng Lê Đức Anh với
vấn đề Trung Quốc và biển Đông”của Đại tá Khuất Biên Hòa đăng
trên Vietnamnet năm 2015 có đoạn sau đây: ”Ngay sau đại hội, đầu năm 1987,
có cuộc họp "Bộ Chính trị hẹp" tại Nhà Con rồng-Bộ Quốc phòng. Tại
đây, sau hai chuyến đi thị sát trực tiếp toàn tuyến biên giới phía Bắc trở về,
tướng Lê Đức Anh đã báo cáo toàn bộ tình hình biên giới phía Bắc, báo cáo những
suy nghĩ của ông về Mỹ, Trung Quốc, về các nước ASEAN, liền sau đó, ông giải
trình những đề xuất của mình. Ông nói: “Trên biên giới, phía bên kia họ bắc loa
chửi ta và kể công, nếu bộ đội ta cứ chửi lại, bắn lại thì không làm được công
tác tư tưởng. Thà rằng họ đánh sâu vào nội địa ta như Pôn Pốt đánh ta ở biên giới
Tây Nam thì ta nói họ là xâm lược và ta kêu gọi chống xâm lược thì dễ. Đằng này
qua thăm dò, khảo sát trực tiếp, qua tin tức và phân tích tình hình nhiều mặt,
tôi thấy rằng họ không có ý đồ xâm lược, mà họ gây xung đột biên giới với ta nhằm
một mục đích khác, ngoài ý đồ xâm lược."
(http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trung-quoc-va-bien-dong-219675.html)
Trong đoạn trên có thông tin quan trọng:
"-Đằng này
qua thăm dò, khảo sát trực tiếp, qua tin tức và phân tích tình hình nhiều mặt,
tôi thấy rằng họ không có ý đồ xâm lược, mà họ gây xung đột biên giới với ta nhằm
một mục đích khác, ngoài ý đồ xâm lược…"
Nếu đây thật sự là ý kiến
của Tướng Lê Đức Anh thì cần xem lại vì: thời điểm năm 1987 ông đã được bầu vào
Bộ Chính trị và nắm chiếc ghế BT Bộ Quốc phòng; Và thời điểm công bố ý kiến này
vào năm 2015, thời điểm ông đã nghỉ hưu 1997 và đã qua cương vị Chủ tịch nước?
Nếu coi việc Trung Quốc điều một lực lượng quân đội lớn, nhiều tài liệu đưa khoảng
50-60 vạn quân, với những tướng lĩnh hàng đầu, quân đội Trung Quốc lấn sâu vào
đất ta riêng ở khu vực cửa khẩu Thanh Thúy, quân Trung Quốc vào sâu đất Việt
Nam tại các điểm cao 685, A 6 A- A 6 B và các cao điểm 400-300 ( Đồi Đài, Đồi
Cô X.)cách đường biên khoảng 1000 m? Phía Việt Nam đã phải chịu tổn thất 5000 bộ
đội hy sinh;..số thương vong là…Còn phía Trung Quốc nhiều nguồn tin cho biết mất
15000 quân…Trung Quốc đưa quân sang để “chọc chơi” hay mục đích khác là gì hay
như tháng 2/1979 sang để dạy cho Việt Nam 1 bài học về cách đánh nhau và “đường
ăn nết ở”?
Thế mà bài viết ghi ý kiến của Tướng Lê Đức Anh:”họ không có ý đồ xâm lược,
mà họ gây xung đột biên giới với ta nhằm một mục đích khác, ngoài ý đồ xâm lược…” Nhận định trên đây có đúng sự thật lịch sử
về cuộc xung đột tại Vị Xuyên?
Bài của Đại tá Khuất
Biên Hòa công bố 2015, thời điểm đã có độ lắng về thời gian và với
tư cách, cương vị người đứng đầu Bộ Quốc phòng và đứng đầu nhà nước, Tướng Lê Đức
Anh được tiếp cận tất cả các nguồn tin chính thống nhất, quan trọng nhất, gốc
nhất. Ý kiến của Tướng Lê Đức Anh hoàn toàn khác với ý kiến võ đoán, thậm chí
xuyên tác của các blogger, FB, thậm chí các nhà báo do họ không được tiếp cận
thông tin gốc và do vị trí vỉa hè của họ?
Về cuộc chiến này, Trung Quốc đã dồn 8/10 đại quân khu, huy động lần lượt 50-60
vạn quân; bộ sậu chiến tranh đầy đủ các bá quan văn võ từ TBT Đảng CS Trung Quốc
Hồ Diệu Bang, Nguyên sóa Diệp Kiếm Anh, Nguyên soái Từ Hướng Tiền trực đến Lão
Sơn động viên úy lão binh sĩ.
Theo
báo chí Trung Quốc, những tướng lãnh Trung Quốc trực tiếp tham chiến, chỉ huy chiến
trường Lão Sơn-Vị Xuyên-Hà Giang 1984 được nêu như sau: “Đại tướng Dương Đắc
Chí (杨得志-Yang Dezhi), Tổng Chỉ huy “tự vệ biên giới” Vân Nam Trung Quốc,
Thượng tướng Hồng Học Trí (洪学智-Hong Xuezhi), Trung tướng
Lưu Hóa Thanh (刘华清- Liu
Huaqing), Trung tướng Tần Cơ Vĩ (秦基伟-Tan Jiwei), Thượng tướng
Trì Hạo Điền (迟浩田- Chi
Haotian), Trung tướng Dương Bạch Băng (杨白冰- Yang Baibing),
Thượng tướng Triệu Nam Khởi (赵南起-Zhao Nan), Trung tướng
Từ Tín (徐信- Xu Xin), Thượng tướng Quách Lâm Tường (郭林祥- Guo
Linxiang), Trungtướng Vưu Thái Trung (尤太忠-You have
Taizhong), Trungtướng Vương Thành Hán (王诚汉- Wang Cheng Han),Trung tướng
Trương Chấn (张震-Olivia), Trung tướng
Lý Đức Sanh (李德生- Li Desheng), Thượng tướng Lưu Chấn Hoa (刘振华- Lưu
Zhenhua), Trung tướng Hướng Thú Chí (向守志- Shouzhi), Thượng
tướng Vạn Hải Phong (万海峰-Wan Haifeng), Trung tướng
Vương Hải (王海-Wang), Trung tướng Phan Bình tự (Ba Hùng), Cục trưởng Cục Quân
báo, và Trung tướng Nguyễn Như Văn (Tư Văn) Cục phó Tổng cục Tình báo quốc
phòng Bộ Quốc Việt Nam.
Ngoài ra còn có một lực lượng 26 tướng lĩnh trẻ tham chiến gồm có: Thiếu tướng
Trương Vạn Niên (张万年- Zhang Wannian), Tư lệnh,
tham mưu phó Quân đoàn 43, Bộ chỉ huy tại núi 127 Laoshan. Vu Vĩnh Ba (于永波 – Yu Yongbo )
Chính ủy, Chính trị viên của pháo binh, Bộ chỉ huy tại núi 32, 33 Laoshan. Thiếu
tướng Lương Quang Liệt (梁光烈) Tư lệnh Quân đoàn
20, Bộ chỉ huy tại núi 50, và 58 Laoshan. Trợ lý Tham mưu trưởng Đại tướng杨得志 (Yang Dezhi Dương
Đắc Chí) Tổng Chỉ huy chiến trường Tây Nam-Vân Nam. Thiếu tướng Lý Cửu Long (李九龙) Tham mưu trưởng Quân
đoàn 31, Bộ chỉ huy tại núi ngọn núi 11 Laoshan. Thiếu tướng Đinh Văn Xương (丁文昌) Trợ lý Tham mưu trưởng
chiến trường Laoshan. Thượng tướng Ngô Quan Xứ (吴铨叙) Chính trị viên Cục Hậu
cần Quân đoàn 47. Thiếu tướng Đinh Văn Xương (丁文昌) Chính ủy, Chính trị
viên của pháo binh Quân đoàn 14, Bộ chỉ huy tại đỉnh núi 48 và 49 Laoshan. Thiếu
tướng Từ Vĩnh Thanh (徐永清 – Xu
Yongqing) Chính trị viên Lực lượng vũ trang biên phòng Quân đoàn 42, bộ chỉ huy
tại đỉnh núi 27 Laoshan. Thiếu tướng Lý Cảnh (李景 – Li
Jing) Tư lệnh, tham mưu trưởng Quân đoàn 41, bộ chỉ huy tại núi 121. Thiếu tướng
Vương Thụy Lâm (王瑞林 – Wang Ruilin) Chính trị viên Quân đoàn 199.
Thượng tướng Trương Thái Hằng (张太恒-Zhang Taiheng) Tham mưu
trưởng Quân đoàn 42, bộ chỉ huy tại ngọn núi 124. Thiếu tướng Trương Chí Kiên (张志坚- Zhang Zhijian) Tư Lệnh
Sư đoàn 67, Bộ chỉ huy tạingọn núi C211. Thiếu tướng Cốc Thiện Khánh (谷善庆-Gu Shanqing) Chính ủy
Quân đoàn 67. Thiếu tướng Trương Liên Trung (张连忠 –Zhang Lianzhong)
Tư lệnh, Quân đoàn 43 pháo binh. Thiếu tướng Vu Chấn Vũ (于振武- Yu Zhenwu) Chính
trị viên Quân đoàn 27. Thượng tướng Trần Bỉnh Đức (陈炳德) Chính ủy Quân đoàn 21.
Thiếu tướng Lưu Trấn Vũ (刘镇武- Liu Zhenwu) Chính
trị viên Tổng cục Vũ khí Quân đoàn 67. Thiếu tướng Lý Kiền Nguyên (李乾元- Li Qianyuan) Tư lệnh
phó quân đoàn 24. Thiếu tướng Lưu Đông Đông (刘冬冬- Liu Dongdong)
Quân đoàn 21, Bộ chỉ huy tại ngọn núi 139. Trung tướng Hồ Ngạn Lâm (胡彦林 – Hu Yanlin)
Chính ủy Quân đoàn 61. Thiếu tướng Tô Vinh (苏荣- Su Rong) Tư lệnh, tham
mưu trưởng Quân đoàn 1509. Thiếu tướng Dương Đức Thanh (杨德清) Tư lệnh, tham mưu trưởng
Quân đoàn 21, Bộ chỉ huy tại ngọn núi 11, 19 và 866. Trung tướng Uẩn Tông Nhân
(温宗仁- Wen Zongren) Trưởng Quân đoàn 14, hồi phục núi 11. Trung
tướng Vương Tổ Huấn (王祖训- Wang Zu-Tan) Chỉ
huy phó Quân đoàn 27, Bộ chỉ huy tại ngọn núi 13, 34 và 35. Trung tướng Lưu Thuận
Nghiêu (刘顺尧- Liu Shunyao)
Chính ủy Quân đoàn 27, Bộ chỉ huy phục hồi ba ngọn núi 11, 78 và 1509. Thiếu tướng
Trịnh Quảng Thần (郑广臣- ZhengguangChen) Tư lệnh
Sư đoàn 199, Bộ chỉ huy tại ngọn núi 277…
Về “tướng văn” Trung tướng Lưu Á Châu đã tới đây lấy tài liệu đã viết nhiều
sách trong đó đã 1 cuốn tiểu thuyết về chiến trường Lõa Sơn-Vị Xuyên…
Trong khi Tướng Lê Đức Anh nhận định: ”họ ( Trung Quốc) không có ý đồ xâm
lược, mà họ gây xung đột biên giới với ta nhằm một mục đích khác, ngoài ý đồ
xâm lược…” thì
“Nghị định Số: 23/2012/NĐ-CP Quy định một số chế độ đối với đối
tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc do
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký năm 2012 tại Điều
1. Phạm vi điều chỉnh:
“Nghị
định này quy định về chế độ hưu trí, trợ cấp một lần, chế độ bảo hiểm y tế, mai
táng phí đối với đối tượng trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên
giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn
Lào (sau đây gọi chung là đối tượng trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,
làm nhiệm vụ quốc tế) sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 có từ đủ 20 năm trở lên phục
vụ trong quân đội, công an, cơ yếu đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc…”
Như vậy, phát
ngôn của Tướng Lê Đức Anh hoàn toàn trái với nội dung của Nghị định 23 ký từ
năm 2012?
Không chỉ
trái với Nghị định 23 mà còn sai với thực tế lịch sử từng xảy ra tại Mặt trận Vị
Xuyên; Hiện nay báo chí đã mô tả rất nhiều về những trận đánh ác liệt, đẫm máu
tại các cao điểm 685, A 6 A- A 6 B, Cao điểm 300-400 (Đồi Đài, Đồi cô X…)..Những
cao điểm này nằm sâu trong đất Việt Nam hơn 1 km thế mà Tướng Lê Đức Anh, vào
thời điểm 1987 là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lại phát biểu một câu “xanh rờn”:” Thà rằng họ đánh sâu vào nội địa ta như Pôn Pốt đánh
ta ở biên giới Tây Nam thì ta nói họ là xâm lược và ta kêu gọi chống xâm lược
thì dễ…”
Theo thông tin mà người viết
bài này nắm được thì phía mặt trận Hà Giang, vùng Yên Minh, Quảng Bạ, có những
nơi mồ mả tổ tiên của bà con người Việt hiện nay nằm sâu trong lãnh thổ Trung
Quốc quãng 2 km. Ngay tại cao điểm 1509, trước 28/4/1984, quân của Sư 313 vẫn
chốt giữ điểm cao này; Hiện tại thì cột mốc 254 theo nhiều nguồn tin cho biết nằm
ở bình độ 1200, lùi vào Việt Nam khoảng 800 m? Tại Cao Bằng, chỗ Bản Giốc, đường
biên giới hiện tại cũng lùi sâu vào đất Việt Nam?
Xin thưa rằng sau “cuộc lui quân, chấm dứt việc đấu súng, đấu trí của hai
Quân đội, hai Nhà nước, khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập lại quan hệ
bình thường giữa hai Quốc gia Việt Nam - Trung Quốc lui quân vĩ đại”- câu chữ của đại tá
Khuất Biên Hòa trong bài “Đại tướng Lê Đức Anh với
vấn đề Trung Quốc và biển Đông” thì đầu năm 1988, Trung
Quốc đánh chiếm Gạc Ma, gây ra vụ thảm sát 64 chiến sĩ “ lững lẫy năm châu, chấn
động địa cầu” ( Thơ Tố Hữu)…
Một sự thật
lịch sử đau thương, rành rành ra đó mà người đứng đầu Bộ Quốc phòng thời điểm
đó, Tướng Lê Đức Anh, sau này là Chủ tịch nước lại khẳng định rằng: Trung Quốc
đưa 50- 60 vạn quân với dàn tướng lĩnh sừng sỏ nhất, đánh Vị Xuyên ròng rã 10
năm liền lại không nhằm mục đích xâm lược Việt Nam?!
Vừa qua
nhóm của Tướng Lê Mã Lương làm cuốn sách “ Gạc
Ma Vòng tròn bất tử” mới chi
ghi chép tư liệu, lời kể xung quanh sự kiện này mà bao kẻ đã giẫy nẩy lên như đỉa
phải vôi. Xin thưa rằng, nếu so sánh Gạc Ma với Vị Xuyên thì sự hy sinh của
quân ta tại Gạc Ma ít hơn nhiều…
MỘT VÀI SỐ LIỆU VÀ NHỮNG DIỄN BIẾN CHÍNH CHIẾN TRƯỜNG VỊ XUYÊN (
1979-1989)
Về phía
Trung Quốc:
Nghĩa
trang Malifo chôn cất binh sĩ Trung Quốc chết trận Lão Sơn
“Về quân ta
(Trung Quốc), trước sự chuẩn bị mở hầu bao chiến dịch Lưỡng Sơn vào ngày 2
tháng 4 năm 1984.
Tư lệnh Đại
Tướng Dương Đắc Chí (杨得志-Yang Dezhi) chỉ huy, dưới trướng của Đại
Tướng gồm có Quân đoàn 14, Quân đoàn 11, Quân đoàn 1, Tập đoàn 67 (集团军67), Tập đoàn 27 (集团军27), Tập đoàn quân 13 (集团军13) và Bộ Tư lệnh Hậu Cần.
Ngoài ra
còn có Quân đoàn 41, Quân đoàn 42, Quân đoàn 43, Quân đoàn 54, Quân đoàn 55,
đóng chốt trước miệng 3 tỉnh Lai châu, Lào Cai, và Hà Giang của Việt Nam.
Bản thống
kê những đơn vị của Trung Quốc tham chiến tại chiến trường biên giới Lão Sơn
Lào Cai Việt Nam:
1 – Quân
đoàn 11, 14 Côn Minh, tham chiến 4/84-4/85, tử thương 2749, trọng thương 4152.
2 – Quân
đoàn 1, 11 Nam Kinh, tham chiến 12/84-5/85, tử thương 3942, trọng thương 3435.
3 – Quân
đoàn 46, 67 Tế Nam, tham chiến 5/84-4/86, tử thương 4746, trọng thương 3257.
4 – Quân
đoàn 21, 47 Lan Châu, tham chiến 4/86-4/87, tử thương 3654, trọng thương 3264.
5 – Quân
đoàn 27 Bắc Kinh, tham chiến 4/87-4/88, tử thương 3087, trọng thương 3649.
Tổng kết từ ngày 2/4/1984 đến ngày
25/4/88, quân Trung Quốc tử thương 15.178, trọng thương 17.757…”
Về
phía Việt Nam:
THIẾU
TƯỚNG NGUYỄN ĐỨC HUY-NGUYÊN THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN KHU 2:
“Đây là cuộc chiến có quy mô lớn nhất, chỉ sau
chiến tranh giải phóng miền Nam. Trung Quốc huy động 8/10 đại quân khu với hơn
50 vạn quân; phía Việt Nam huy động 9 sư đoàn với số lượng quân có lúc lên tới
15 vạn quân. Đây là cuộc chiến ác liệt nhất khi Trung Quốc cày nát Vị Xuyên, có
ngày bắn tới 3 vạn quả đạn pháo, tấn công vào tất cả các điểm cao của ta. Tổn
thất của địch trong trận chiến này rất lớn nhưng có những trận trong một ngày
quân ta hy sinh khoảng 1.000 chiến sĩ…
Cuộc
chiến tranh Vị Xuyên đã khiến hơn 5.000 chiến sĩ của ta hy sinh, đến nay hơn
3.000 người chưa tìm thấy hài cốt; trong nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên có hơn
1.700 mộ liệt sĩ nhưng tới 700 ngôi mộ liệt sĩ chưa xác định được tên tuổi. Tôi
kiến nghị phải tổ chức đội rà phá bom mìn, quy tập mộ và hài cốt liệt sĩ trong
cuộc chiến Vị Xuyên để đưa về nghĩa trang...”
(Tham mưu
trưởng mặt trận Vị Xuyên: Nhiều hài cốt đồng đội đang nằm lại ở khe núi, hốc
đá…
Kiểm chứng 3: CÓ ĐÚNG MỸ DÙNG POL POT ĐÁNH VIỆT NAM ĐỂ TRẢ THÙ? ( Bài 3)
Trong bài: “Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung
Quốc và biển Đông”: (01/02/2015 08:44 GMT+7- ) có 2 đoạn
đáng chú ý sau đây:
“1.Còn Mỹ, sau thất
bại chiến tranh Việt Nam, Mỹ câu kết với phản động quốc tế, dùng Pôn Pốt ở
Cam-phu-chia đánh ta để trả thù, làm cho ta suy yếu và ngăn chặn sự ảnh hưởng
của Việt Nam với khu vực, nhưng đến bây giờ ý đồ này cũng đã thất bại…”
( Lời Tướng Lê Đức Anh-Theo tác giả-đại tá Khuất Biên
Hòa)
2.“Trong khối ASEAN
tuy có một số nước trước đây rất "căng" với ta, nhưng gần đây đã có
những dấu hiệu thay đổi. Và cũng có những nước sẽ ủng hộ ta vào, những nước này
từ lâu vẫn có thiện cảm với Việt Nam, từng đồng tình và ủng hộ Việt Nam chống
ngoại xâm, giải phóng dân tộc, như Indonesia chẳng hạn. Ta sẽ đặt chân vào
ASEAN từ cánh cửa của những nước như vậy. Nhưng những bước đi đầu tiên phải hết
sức bí mật và thận trọng. Nếu ta không vào thì Mỹ và một số nước lớn sẽ tiếp
tục phá ta, thậm chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá ta. Còn nếu ta vào
được thì họ không phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ dựa về chính trị để
các nước ASEAN vươn lên”.
( Lời Tướng Lê Đức
Anh-theo tác giả-đại tá Khuất Biên Hòa)
(“Đại
tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển Đông”: (01/02/2015 08:44 GMT+7-
http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trung-quoc-va-bien-dong-219675.html)
Để hiểu sâu thêm về những kết luận,
đánh giá trên đây là của nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Chủ tịch nước
Lê Đức Anh về các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt quan hệ Việt-Mỹ, Việt
Nam-ASEAN, xin trích giới thiệu tiểu sử của Tướng Lê Đức Anh:
“Từ tháng 5 năm 1976, ông là Tư lệnh Quân khu
9. Đến tháng 6 năm 1978, là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, chỉ huy trưởng cơ quan
tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận
Tây-Nam; được
phong Thượng tướng năm 1980. Năm 1981, khi đang giữ chức Tư lệnh Quân khu 7, ông
được phân công kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện
Việt Nam tại Campuchia, Phó trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam
tại Campuchia. Năm 1984, ông được phong hàm Đại tướng…” ( WikiPedia)
Trong
hàng ngũ tướng lĩnh Việt Nam, có thể nói rằng: không ai có thẩm quyền to và cao
hơn Lê Đức Anh, đặc trách về chiến trường Cămpuchia về mặt quân sự…Lê Đức Anh
được phong quân hàm đại tướng và giữ cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng 1984 khi
đang chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam tại chiến trường này…
Vậy thì kết luận của Tướng Lê Đức Anh:
“Mỹ…dùng Pôn Pốt ở Cam-phu-chia đánh ta để trả thù, làm cho ta suy yếu
và ngăn chặn sự ảnh hưởng của Việt Nam với khu vực…” có đúng sự thật lịch sử của giai đoạn đó?
Với tư cách là Tư lệnh chiến trường Cămpuchia, trực tiếp
chỉ huy tiêu diệt chế độ Khơ Me đỏ, khi Tướng Lê Đức Anh cho rằng: Mỹ dùng Pol
Pot để trả thù Việt Nam là dùng bằng cách nào và thông qua phương tiện gì?
Để kiểm chứng lại 2
nhận định trên của Tướng Lê Đức Anh, xin trích một đoạn dưới đây trong bài ”Khmer Đỏ: Ai từng trợ
giúp phe kháng chiến Pol Pot?” Bài vừa đăng
trên BBC ngày 17/11/2018 nhân phiên Tòa xét xử tội diệt chúng của Khơ me đỏ:
(https://www.bbc.com/vietnamese/world-46234452?ocid=socialflow_facebook):
“Trung Quốc thời Hoa Quốc Phong và Đặng Tiểu Bình là nước bảo
trợ chính cho Khmer Đỏ, nhưng Hoa Kỳ là nước cổ vũ chính cho Trung Quốc.
Washington đã
dính líu vào Campuchia từ khi Henry Kissinger làm Cố vấn an ninh Quốc gia và
Ngoại trưởng thời hai tổng thống Richard Nixon và Gerard Ford…
Sau Cuộc chiến
Việt Nam, Hoa Kỳ theo đuổi chiến lược của Zbigniew Brzezinski ủng hộ Trung
Quốc để chia rẽ khối cộng sản và bao vây Liên Xô, và trừng phạt Hà Nội, đồng
minh của Moscow tại châu Á.
Nước Anh trong
thời gian bà Margaret Thatcher cầm quyền cũng từng hỗ trợ tích cực cho lực
lượng liên minh do Khmer Đỏ chỉ huy trong thời gian 1985-1989.
Và một quốc gia
nữa là Bắc Triều Tiên, nơi luôn nhiệt thành ủng hộ lực lượng chống Phnom Penh
và Hà Nội trong cuộc nội chiến Campuchia.
Ngoài ra, không
thể không nhắc tới Thái Lan, quốc gia láng giềng từng một thời để các nhóm quân
Pol Pot ẩn náu và làm căn cứ kháng chiến chống lại chính quyền Phnom Penh.
Bàn tay Trung Quốc
Chương trình trợ
giúp của Bắc Kinh cho lực lượng Khmer Đỏ ngay từ khi Pol Pot lên nắm quyền đã
được nhiều nguồn tài liệu khai thác.
Nhưng sau năm
1979, khi Việt Nam đem quân sang lật đổ chế độ này, Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ
Pol Pot thông qua Trung Quốc.
Theo nhà báo
Elizabeth Becker, Cố vấn An ninh Quốc gia Zbigniew Brzezinski rất tự hào về
chiến lược khuyến khích Thái Lan hợp tác với Trung Quốc để giúp Khmer Đỏ tái
xây dựng lực lượng.
Ông Brzezinski
từng nói về sự kinh tởm đối với chế độ Pol Pol (abomination), vì thế, Hoa Kỳ
sẽ không bao giờ giúp Pol Pot trực tiếp, "nhưng người Trung Quốc thì có
thể làm điều đó".
Lãnh
tụ Đặng Tiểu Bình đặc biệt yêu thích Khmer Đỏ, và giúp cho họ chừng 100
triệu USD viện trợ các loại một năm, theo Gregory Elich viết trên CounterPunch, hồi 2014.
Đặng từng nói
năm 1984:"Tôi không hiểu vì sao có người muốn loại bỏ Pol Pot? Đúng là ông
ta có phạm một số sai lầm trong quá khứ nhưng nay ông ta đang lãnh đạo cuộc
chiến chống bọn xâm lược Việt Nam cơ mà."
Nhờ chiến lược
này, Pol Pot có căn cứ trên đất Thái Lan, và ngoài Khmer Đỏ còn có mội đội
quân của Mặt trận Giải phóng Nhân dân Khmer (KPNLF) của Son Sann, và quân
đội riêng của Hoàng thân Norodom Sihanouk (Armée Nationale Sihanoukiste, ANS).
Ngoài ủng hộ
ngoại giao cho Pol Pot và liên minh Campuchia chống lại chính quyền Hun Sen
cùng Hà Nội và Moscow, Hoa Kỳ còn tác động đến viện trợ quốc tế cho
Campuchia.
Theo đó, chính
quyền Carter yêu cầu các tổ chức cứu trợ quốc tế không cấp viện cho Hà Nội và
Phnom Penh.
Các lá phiếu của
Washington và đồng minh đủ mạnh khiến Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát
triển Á châu không viện trợ cho Campuchia dưới quyền Heng Samrin và Hun Sen.
Viện trợ trái
lại chỉ được chuyển cho người Campuchia sống ở vùng Khmer Đỏ kiểm soát.
Sang thời Reagan
và Bush, chính sách chống Hà Nội và Phnom Penh vẫn tiếp tục.
Tới năm 1985,
tiền CIA viện trợ cho các nhóm du kích Campuchia gồm Khmer Đỏ lên tới 12
triệu. Theo điều khoản McCollum, cơ quan cấp viện USAID cũng chuyển quân
trang quân dụng không sát thương dư thừa cho các nhóm du kích đóng ở Thái Lan,
đạt con số 13 triệu USD năm 1989.
Nhưng có vẻ như
nhà bảo trợ chính cho Khmer Đỏ vẫn là Trung Quốc.
Andrew Mertha,
tác giả cuốn "Brothers in Arms: China's Aid to the Khmer Rouge,
1975-1979" từng cho biết 90% viện trợ nước ngoài mà Khmer Đỏ nhận được
đã đến từ Trung Quốc.
Các khoản này gồm
thực phẩm, vật liệu xây dựng tới xe tăng, máy bay, pháo.
"Trong khi chính quyền đang giết dân của họ thì kỹ sư và cố
vấn quân sự Trung Quốc vẫn tiếp tục huấn luyện nước đồng minh cộng sản".
Qua thông tin của bài viết trên BBC, theo người viết bài
này là khách quan, bài viết chỉ ra Mỹ và một số quốc gia khác như Thái Lan,
Anh, Bắc Triều Tiên… có tham gia việc hỗ trợ cho Khơ Me đỏ, nhưng vai trò bảo
trợ chính đổ tiền của nhiều nhất là Trung Quốc…Thế nhưng trong bài của Đại tá
Khuất Biên Hòa, Tướng Lê Đức Anh lại không hề nhắc tới Trung Quốc mà chỉ nhắc
tới Mỹ và phản động quốc tế đã dung Pol Pot đánh Việt Nam?
Còn quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN và Mỹ có đúng như lời
Tướng Lê Đức Anh do Đại tá Khuất Biên Hòa thuật lại:” Nếu ta không vào thì Mỹ và một số nước lớn sẽ tiếp tục phá ta, thậm
chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá ta. Còn nếu ta vào được thì họ không
phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ
dựa về chính trị để các nước ASEAN vươn lên”.
Các nước ASEAN phát triển thịnh vượng về kinh tế là do họ
biết phát huy nội lực, kết hợp hài hòa quan hệ Đông Tây giữa Mỹ-Tây Âu và Nhật
Bản; Họ cũng rất biết tranh thủ Trung Quốc đúng bài, giữ khoảng cách để không
để bị lệ thuộc vào Trung Quốc từ kinh tế đến chính trị văn hóa…
Thế giới xưa nay
đã từng hình thành nên các khối liên minh bởi 2 tác nhân: liên minh tự nhiên do
bởi cái hoàn cảnh địa- chính trị-văn hóa… hoặc liên minh do bởi sự áp đặt từ quốc
gia này với quốc gia khác ( xâm lược-thực dân): Liên minh bởi ý thức hệ…
Trong thế kỹ XX,
thế giới hình thành “ phe xã hội chủ nghĩa” chiếm ¼ dân số thế giới” để rồi cuối
thế kỷ tan như bong bóng xà phòng, bởi đây là khối liên minh ý thức hệ cùng đồng
chí cộng sản với nhau…
Còn khối liên minh EU là khối liên mịnh địa chính trị-kinh
tế-văn hóa; Tuy đang có nhiều trục trặc nhưng do trên cơ sở tự nguyện và không
có sự áp đặt lẫn nhau từ nội khối nên nó có khả năng tồn tại lâu vì nó có lợi
cho các thành viên trong khối…
Khối liên minh ASEAN là một khối liên minh theo gương của
EU, các quốc gia ASEAN xúm lại với nhau, tuy không nêu ra trong cương lĩnh, như
các quốc gia tham gia liên mình nhằm mục đích canh chừng ông bạn vàng Trung
Quốc, hạn chế “ nhân tố nước lớn” tác động tiêu cực tới các nước trong khu vực
ASEAN…
Người viết bài này
cho rằng: Chính Mỹ bật đèn xanh, khuyến khích các nước ASEAN lôi kéo Việt Nam
tham gia khối; Chỉ khi Việt Nam gia nhập ASEAN thì mới có khả năng để tách khỏi
ảnh hưởng Trung Quốc, hạn chế được những tiêu cức bởi nhân tố nước lớn phát xuất
từ Trung Quốc.
Không có chuyện Mỹ
dùng ASEAN đế phá Việt Nam, nếu Việt Nam gia nhập ASEAN như nhận định của Tướng
Lê Đức Anh… “Nếu ta không vào thì Mỹ và một số nước lớn sẽ tiếp tục phá ta,
thậm chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá ta. Còn nếu ta vào được thì họ
không phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ dựa về chính trị để các nước ASEAN
vươn lên”…”
Cho tới năm 2018, người viết bài này chưa thấy nước nào
trong khối ASEAN “dựa vào chỗ dựa chính
trị” là Việt Nam để vươn lên cả? Mà thế mạnh chính trị của Việt Nam đó là:
nhà nước được lãnh đạo toàn diện bởi một đảng marxit-leninnit…
Kiểm
chứng 4: “ BA LẦN LUI QUÂN” TRƯỚC TRUNG QUỐC-CÔNG HAY
TỘI CỦA TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH”?
Về
việc lui quân tại chiến trường Vị Xuyên vào đầu năm 1987, tác giả Đại tá Khuất
Biên Hòa viết:
” Lịch sử nhân loại ở những thập
niên cuối thế kỷ 20 có ba “cuộc lui quân vĩ đại”. Thứ nhất là quân đội Liên Xô
rút khỏi Apghanistan; tuy không có sự xua đuổi nhưng không được người dân “đưa
tiễn thắm tình”. Thứ hai là cuộc rút quân về nước trước thời hạn của Quân tình
nguyện và đoàn chuyên gia Việt Nam. Cả đất nước Chùa tháp rực rỡ cổng chào, cờ
hoa cùng các tầng lớp nhân dân Campuchia lưu luyến đưa tiễn. Trước Hoàng cung,
Quốc trưởng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc và Vua Sãi Tếp Vông trịnh trọng quàng vòng
Nguyệt quế lên cổ Đại tướng, Tổng chỉ huy Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia
Việt Nam Lê Đức Anh rồi thống thiết nói lời cảm ơn Đảng, Nhân dân và Quân tình
nguyên Việt Nam đã chịu gian khổ, hy sinh, không tiếc máu xương, sức lực, trí
tuệ và của cải để cứu Dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và hồi sinh
Đất nước Chùa tháp từ tiêu điều xơ xác trở nên xanh tươi bền vững. Thứ ba là
cuộc lui quân, chấm dứt việc đấu súng, đấu trí của hai Quân đội, hai Nhà nước,
khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập lại quan hệ bình thường giữa hai Quốc
gia Việt Nam - Trung Quốc. Có thể nói, trong ba cuộc lui quân vĩ đại này, thì
hai cuộc sau đều là “cuộc lui quân Đẹp!”, lui quân vô cùng ngoạn mục, mà người
được giao trọng trách lớn lao, vừa thiết kế vừa tổ chức thực hiện nó, chính là
Đại tướng Lê Đức Anh!”…
Đem cuộc lui quân của quân đội Liên Xô ra khỏi
chiến trường Apghanistan để gộp với 2 cuộc lui quân của Việt Nam tại chiến
trường Cămpuchia 1989 và Vị Xuyên 1987 là một sự so sánh khiên cưỡng. Đem 3
cuộc rút lui trên để đánh giá đó là “ ba
“cuộc lui quân vĩ đại” của ” Lịch sử nhân loại ở những thập niên cuối thế
kỷ 20…” là một kiểu ngoa ngôn, thiếu
cơ sở…
Lịch sử chống xâm lược Trung Quốc đã có những cuộc lui quân
được đánh giá cao, được hậu thế ca ngợi: đó là các cuộc lui quân bỏ trống thành
Thăng Long của vua tôi nhà Trần trước vó ngựa của quân Nguyên-Mông; Cuộc lui
quân của Tướng Tây Sơn Ngô Văn Sở, bỏ Thăng Long rút về cố thủ Tam Điệp, cuộc
lui quân này đã được Quang Trung Nguyễn Huệ khen ngợi…
Còn về 3 cuộc lui quân trên có đúng là vẻ vang của lịch sử
nhân loại thế kỷ XX không? Về cuộc rút lui của quân đội Liên Xô ra khỏi
Apghanistan, người viết xin không lạm bàn.
Riêng đối với Tướng Lê Đức Anh, giai đoạn 1987-1989, thực
chất có 3 cuộc lui quân đích thực mà Tướng Lê Đức Anh can dự và trực tiếp quyết
định. Ngoài 2 cuộc lui quân: rút ra khỏi chiến trường Cămpuchia và Vị Xuyên, có
một cuộc lui quân ở Gạc Ma tháng 3/1988 mà dư luận bấy lâu nay đang bàn tán
nhiều…
Tướng Lê Đức Anh là người chịu trách nhiệm về cuộc rút lui,
tạo điều kiện để Trung Quốc đẩy lùi quân ta khỏi hòn đảo này; Hiện tại, Trung
Quốc đã bồi đắp thành một căn cứ quân sự trên Biển Đông, có đường băng sân
bay…đang gây nên một sự cố hàng hải quốc tế…Đáng tiếc, không rõ vì lý do gì đại
tá Khuất Biên Hòa lại không đưa sự kiện lui quân khỏi Gạc Ma và bảng tổng sắp
của ông, khi tổng kết về cuộc đời binh nghiệp của Tướng Lê Đức Anh liên quan
tới Trung Quốc,liên quan tới những cuộc lui quân?
Về 3 cuộc lui quân này, nếu so sánh với cuộc lui quân của
vua tôi nhà Trần khỏi Thăng Long; cuộc lui quân của Tướng Tây Sơn Ngô Văn Sở
thì cũng chưa có thể so sánh được…Đằng này Đại tá Khuất Biên Hòa là thổi lên
thành cuộc “rút lui vĩ đại” tầm nhân
loại của thế ký XX ?
Về cuộc lui quân khỏi Cămpuchia, Tướng Lê Đức Anh chỉ là
người thừa hành. Mặc dù ông được coi là Tư lệnh đặc trách chiến trường nay.
Việc đưa quân vào Cămpuchia năm 1978 và rút ra năm 1989 do Bộ Chính trị quyết
định…
Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến ngay trong nội bộ Việt Nam,
nhiều người còn chưa đồng thuận với việc chúng ta đưa quân tham chiến 10 năm
tại chiến trường này. Việt Nam đã bỏ ra một lượng xương máu không nhỏ để giúp
nhân dân Cămpuchia diệt trừ chế độ diệt chủng; Nhưng kết cục thì “ngựa bất kham lại trở về nơi bồng báo”.
Loại được Pol Pot thì đến lượt Hunsen vẫn nằm trong quỹ đạo Trung Quốc.
Nhiều ý kiến cho rằng: Số phận của nhân dân Cămpuchia do
nhân dân nước bạn định đoạt. Đáng lẽ, sau khi chúng ta đánh tan Khmer Đỏ, lúc
đó đã có ý kiến đề xuất Việt Nam nên bàn giao chiến trường này cho Liên hiệp
quốc, rút quân đội về bảo vệ và xây dựng đất nước.
Nếu chúng ta rút ra ngay từ năm 1978 thì Trung Quốc không
còn cớ gây ra hai cuộc chiến tranh 1979, đánh phá toàn tuyến biên giới; và năm
1984-1989 đánh phá ác liệt Vị Xuyên Hà Giang…Ngoài ra không tạo cớ cho Mỹ bao
vây, cấm vận vào tạo điều kiện cho Trung Quốc gạt Việt nam ra để bắt tay với Mỹ…
Thực ra, kẻ đứng đằng sau xúi dục Khmer Đỏ gây ra cuộc
chiến chống Việt Nam, lừa cho Việt nam xua quân vào để có cớ cho Trung Quốc lập
công với Mỹ, bình thường hóa quan hệ với Mỹ để bán hàng cho Mỹ và tranh thủ vốn
liếng, công nghệ và thị trường Mỹ. Ngay cả Thượng tướng Lưu Á Châu, con rể Lý
Tiên Niệm, một tướng văn cũng đã nói toạc ra điều này: Trung Quốc gây chiến
tranh với Việt Nam, lấy cớ Việt Nam đưa quân vào Cămpuchia để bình thường hóa
quan hệ với Mỹ…
Âm mưu của Trung Quốc rõ ràng như vậy, thế mà trong bài
trước, chúng tôi đã dẫn chứng việc Tướng Lê Đức Anh nhận định: Mỹ là kẻ dùng
Pol Pot đánh Việt Nam để trả thù. Còn trong phần đầu chúng tôi đã dẫn ra ý kiến
vô cùng lệch lạc của Tướng Lê Đức Anh, người đảm nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng và phát biểu ý kiến này sau khi rời cương vị Chủ tịch nước? Tướng Lê Đức
Anh cho rằng: Trung Quốc đánh Vị Xuyên không vì mục đích xâm lược Việt Nam…
Tôi đồ rằng: Do việc Việt Nam chủ trương lui quân tại chiến
trường Vị Xuyên 1987 đã bật đèn xanh, tín hiệu cho Trung Quốc lấn tới trong
tháng 3/1988 tiến hành đánh chiếm đảo Gạc Ma, một hòn đảo án ngữ trên đường
hàng hải quốc tế, nằm giữa quần đảo Sinh Tồn lớn nhất của Việt Nam với đất
liện…
Rõ ràng, sau cuộc lui quân tại chiến trường Vị Xuyên, có
đúng “hai nước chấm dứt việc đấu súng,
đấu trí của hai Quân đội, hai Nhà nước, khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập
lại quan hệ bình thường giữa hai Quốc gia Việt Nam - Trung Quốc ???”
Hậu thể mai đây chắc chắn rồi sẽ còn phải bàn, đánh giá lại
cái việc 3 lần lui quân trước Trung Quốc mà tướng lê Đức Anh cạn dự, trong đó
có 2 cuộc cá nhân ông phải chịu trách nhiệm!
P.V.Đ.
Chú thích: Hiện nay, tôi đã photo 10 tập bản thảo VỊ XUYÊN-THẾ SỰ VIỆ-TRUNG; Quý vị nào quan tâm tới Thế sự Việt-Trung muốn đọc để tham vấn cho tác giả xin liên hệ để tôi gửi tặng. Liên hệ qua email: Hoanghtham9@gmail.com hoặc Đt: 0382.598.746...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét