TRUNG TRUNG ĐỈNH
-Chơi với Huân thì quả thật là khá nhạt nhẽo, đôi khi tức anh
ách vì tính khí ngập ngừng, không ráo riết, trong khi đó tôi thì cứ hơi tí đã sồn
sồn lên. Công nhận thực ra thì tôi không thích chơi với Huân. Và chúng tôi cũng
ít khi chơi bời với nhau thật, mặc dù rất thân. Huân là một trong những người bạn
thân nhất của tôi. Nhưng chơi thì không…
Có lẽ vì thế lúc nào tôi với Huân cũng có cái để ghét nhau, để cáu
nhau, để quan tâm tới nhau. Tôi biết, nhiều lần Huân lo việc của tôi hơn cả lo
cho mình. Mà nào có lo chi được. Nhưng mà cứ lo. Lo thật chứ không phải lo
chiếu lệ.
Đời tôi vốn lông bông,
không có quy hoạch trước được cái gì, từ công ăn việc làm đến vợ con, nhà cửa,
tất tật đều do cái ông tướng số mà thành. Huân thì khác. Huân dường như đã có
sẵn cái mặc định cho cuộc đời từ khi còn rất trẻ. Từ việc biết yêu đương, đến
khi dựng vợ gả chồng, không phải đâu vào đấy, nhưng mà có lớp có lang, có bài
có bản. Huân là một trong số vài người chưa học xong khóa I Nguyễn Du đã có Tạp
chí Văn
nghệ Quân đội (VNQĐ) ghi danh nhận về công tác.
Tôi thì học xong vất vưởng
chả ma nào ngó đến, may mà có anh “Ban ký sự lịch sử quân sự” mới thành lập
người ta ghép cho tôi về. Ngày tôi về trại viết khu V cũng là suất vét. Trại đã
ổn định cả về nhân sự lẫn danh tánh, các nhà văn toàn người đã và đang rất nổi
tiếng, trong đó có Huân. Còn tôi lẹt đẹt từ trong rừng ra, mới viết được đôi ba
truyện ngắn in tạp chí Văn nghệ Quân khu, là lính địa phương, người nhà quê,
Huân thì đã có tập truyện ngắn và cả tiểu thuyết lẫy lừng.
“Năm
1975, họ đã sống như thế” là một cuốn tiểu thuyết ghi dấu ấn lịch sử trong tiến
trình văn học cách mạng Việt Nam. Bởi ngay sau ngày ăn mừng chiến thắng đã có
ba cuốn tiểu thuyết của ba nhà văn trẻ, ba bức tượng đài ngợi ca những đoàn
quân từ trên chiến khu đổ về giải phóng thành phố, đó là “Trong cơn gió lốc”
của Khuất Quang Thụy; “Nắng đồng bằng” của Chu Lai và “Năm 1975, họ đã sống như
thế” của Nguyễn Trí Huân. Tôi mơ cũng không có được cái vị trí hoành tráng như
thế.
***
Huân
là một trong số ít các nhà văn được chuẩn bị chu đáo cả về sức khỏe, kiến thức
nghề nghiệp lẫn kiến thức người lính để đi chiến trường. Đi chiến trường để
viết văn. Đó là những năm cuộc chiến tranh chống Mỹ lên đến cao trào. Chiến
trường đã kinh qua nhiều chiến dịch to lớn. Còn hậu phương lớn thì cũng đã có
những vị trí nhất định nhằm chi viện tối ưu cho chiến trường.
Các
vùng chiến trường lớn như khu V, Bình Trị Thiên hay trong Nam bộ đều đã có
những đợt cán bộ các ngành nghề như Kinh tế, Giáo dục, Văn hóa văn nghệ, đặc
biệt là các văn nghệ sĩ được bổ sung kịp thời cho từng mặt trận. Họ náo nức lên
đường và nhập cuộc rất nhanh. Họ là những văn nghệ sĩ chiến sĩ. Khi cần có thể
cầm súng trực tiếp chiến đấu. Khi cần có thể làm chuyên viên, chuyên gia,
làm cán bộ cơ sở, làm cán bộ phong trào v.v… Huân trước khi đi B đã có truyện
ngắn in ở VNQĐ, đã được học khóa 3 lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn.
Họ được các nhà văn lớp
trước như Nguyên Hồng, Kim Lân, Bùi Hiển, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu tận tình
truyền đạt những kinh nghiệm và bí quyết nghề nghiệp. Không khí xã hội lúc bấy
giờ ngùn ngụt khí thế. Ra đường gặp anh hùng dũng sĩ. Thơ văn chống Mỹ lúc bấy
giờ hầu hết là thơ văn cổ động, thơ văn ngợi ca những điển hình, những tấm
gương chiến đấu và sản xuất giỏi, chỉ le lói vài giọng trữ tình khe khẽ xao
xuyến như văn Đỗ Chu, như thơ Bằng Việt. Thế là quá đủ. Còn lại thơ văn phải
phục vụ chiến đấu thiết thực như cơm muối, như quân trang quân dụng. Hai tờ
VNQĐ và báo Văn Nghệ là
món ăn bổ dưỡng cho người lính. Nguyễn Trí Huân khoác ba lô đi chiến trường vào
thời điểm ấy, 1970, một chàng trai trẻ giàu mơ mộng, nhiều khao khát, gặp thời
thế như thế được gọi là quá may mắn, quá tuyệt vời.
***
Nếu cứ chiếu theo quy chuẩn thì tôi bị loại ngay đầu nước khi chọn
vào học khoá I Nguyễn Du, vì hồi ấy tôi mới duy nhất có được một cái truyện
ngắn “Đêm nguyệt thực” in ở VNQĐ. Thái Bá Lợi thì đã có “Thung Lũng thử thách”,
Nguyễn Trí Huân đã có tập truyện ngắn “Mặt Cát”.
Tôi
nhớ hồi đó người ta quy định tiêu chuẩn vào học ít nhất cũng phải có bằng tốt
nghiệp phổ thông. Tôi chưa học hết phổ thông (mới hết lớp 9) đã phải đi bộ đội
thì làm sao có bằng. Thế mà rồi đâu cũng vào đấy. Tôi phải đi học lớp bổ túc cấp
tốc ưu tiên cho một số sĩ quan sắp được cử đi học các trường.
Cái
khoá I “chuyên tu đại học viết văn Nguyễn Du” là một khoá học rất đặc biệt. Tôi
biết không phải mình tôi thiếu bằng tốt nghiệp chính quy đâu! Tuy nhiên, bù
lại, môn năng khiếu thì chúng tôi hoành tráng. Tôi, Thái Bá Lợi và Nguyễn Trí
Huân đều thế. Cùng xuất quân từ trại viết Khu V. Lợi đã có vợ có con. Tôi và
Huân là hai thằng đực rựa, yêu yêu, đương lăng nhăng thì có chứ chưa có ý
định “lập gia đình”.
Như
trên tôi đã nói, Huân thì chững chạc, còn tôi thì lêu têu chả ra gì. Hai thằng
cùng chuyến tàu từ Đà Nẵng ra Bắc, tôi thấy Huân ngồi gần một bà mẹ, Huân rất
khéo chiều bà, lo đi lấy nước, mua cơm giúp bà rất tận tình. Còn tôi, chả hiểu
duyên phận thế nào, tôi lại làm quen được một cô nữ sinh đại học sư phạm ngoại
ngữ, khoa tiếng Nga. Chúng tôi quen thân nhau rất nhanh.
Cả
đêm cả ngày trên tàu tíu tít với nhau. Nàng vào Đà Nẵng thăm người nhà. Tàu về
đến ga Vinh thì chúng tôi chia tay vì nàng phải về quê Diễn Châu. Tôi ngẩn ngơ
ôm hôn chia tay nàng dưới sân ga, tưởng như thế là chấm dứt. Huân chả biết gì.
Huân mải mê nghe chuyện bà mẹ ngồi bên.
Hồi ấy tôi nghĩ, Huân đúng là nhà văn thứ thiệt, đi đâu, làm gì
cũng phải chăm chú tìm hiểu tài liệu để viết. Huân bảo tôi, bà mẹ này có một số
phận kỳ lạ. Bà đi thăm ông chồng quê trong miền Nam ra. Hai ông bà lấy nhau khi
ông tập kết ra Bắc, tưởng ông là trai tân, hoá ra ông đã có vợ con ở trong ấy
rồi. Bà vợ trong ấy, lúc ông đi “R” thì đã lấy một sĩ quan quân lực Việt Nam
Cộng hoà, có một người con gái nữa.
Rồi
chả hiểu sao hai người ấy lại bỏ nhau. Sau giải phóng, ông về, ông và bà vợ cũ
tái hợp hôn. Hai người con của bà một với ông, một với người sĩ quan quân lực
Việt Nam Cộng hoà cách nhau cả chục tuổi. Ông nhận tuốt. Bà mẹ ngồi kể cho Huân
nghe cái sự rắc rối nếu mà không rộng lượng, ắt thành to chuyện. Nhưng bà cắn
môi chịu thiệt. Bà lặn lội từ ngoài Bắc vào giúp ông “giải quyết vấn đề” trong
ấm ngoài êm, mà cụ thể là tạo cho ông yên phận với quê cha đất tổ, với vợ cũ
con cũ… Rắc rối lắm. Nhưng cũng đã êm xuôi cả rồi.
Một
chuyến tàu Huân thu lượm được bao nhiêu là chuyện. Còn tôi… may sau đó chừng
một tuần, nàng của tôi vẫn giữ địa chỉ số 4 Lý Nam Đế mà tôi khai lậu, phi xích
lô đến tìm…
Hồi
ấy cánh lính chúng tôi dù sao tiêu chuẩn cũng rôm rả hơn cánh dân sự. Mỗi tháng
ngoài tiêu chuẩn, chúng tôi được ăn theo VNQĐ do anh Doãn Trung trưởng ban trị
sự tài quan hệ, xin được thịt, cá, chia thêm.
“Cánh
rừng phía tây” chúng tôi rủ Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Hoàng Thu, Cao Duy Thảo về tụ
tập đánh chén. Huân không bia rượu, không la cà đàn đúm, nhưng lại chiều bạn,
ăn gì, làm gì cũng nhận phần thiệt, phần kém về mình. Chúng tôi khi ấy không
bao giờ lại nghĩ sau này Huân sẽ làm đến chức Tổng biên tập cả tạp chí VNQĐ lẫn
báo Văn Nghệ.
Huân
làm cán bộ hồi đầu thực chất chỉ vì tính nết nhu thuận, hiền hoà, hơi tí đã đỏ
mặt, được cả cơ quan yêu quý. Ở VNQĐ trước đó có một tấm gương nổi tiếng hiền
lành tốt bụng là Phó tổng biên tập Từ Bích Hoàng. Ông Hoàng được anh em gọi là
ông Từ vì tốt bụng, tận tâm chu đáo với mọi người. Ông Hoàng cực kỳ yêu mến
Huân, coi Huân như con cháu trong nhà. Huân cũng được anh em cơ quan tín nhiệm
bầu vào cấp uỷ, rồi trưởng ban, rồi Phó Tổng biên tập, Tổng biên tập.
Câu
chuyện làm “quan” văn nghệ của Huân không trầm trầy trầm trật, không phải phấn
đấu ganh đua. Huân lên, anh em cùng trang lứa ủng hộ tuyệt đối. Các anh lớp
trước cũng tin cẩn vui vẻ. Huân thực sự là “hạt giống đỏ” không phải của riêng
VNQĐ mà là của cả Hội Nhà văn. Cấp trên có các vị to, rất to ủng hộ. Cấp dưới,
từ cô lao công đến chú gác cổng đều một Huân hai Huân. Thiên thời, địa lợi,
nhân hoà, chưa bao giờ tôi thấy Huân phải chạy lên chạy xuống.
Mà
Huân cũng không phải dạng được lên tí thì vênh vang, khi làm to thì trở nên khó
chịu như vài người. Huân vẫn thế. Vẫn bình dị, hiền hoà, vẫn không thấy mình
làm “to”, vẫn sẵn lòng giúp ai cần giúp, từ việc nhỏ tí ti đến việc hệ trọng.
Huân thực sự là mẫu cán bộ lý tưởng một thời. Cái thời làm cán bộ mà không phải
lo bươn chải kiếm ăn cho anh em như bây giờ, ta hay quen gọi là thời bao cấp.
Huân không tham lam, tính nết khẽ khàng, tốt từ trong ý nghĩ tốt ra, ai mà
nói xấu Huân lập tức biến thành kẻ xấu trước mắt cánh tôi liền.
Thực ra cũng có đôi lần tôi tức Huân, vì tôi thấy Huân tốt với cả
kẻ xấu. Tốt với kẻ xấu ấy cũng là xấu vậy. Kẻ xấu lợi dụng lòng tốt của Huân,
Huân cứ bơ đi như không biết gì. Của đáng tội, có khi tôi lại nghĩ, chuyện ấy
mình thấy thế thì mình cáu, mua dây buộc mình, chứ còn y, y tỉnh như không, có
khi y là tay cao thủ!
***
Huân
có một cô vợ là giáo viên vừa xinh xắn, tốt bụng và hiền hoà, có một bà mẹ
tuyệt vời. Bà cũng rất thương quý tôi. Bà, mỗi lần nói chuyện gì là có một câu
thành ngữ. Thời sau giải phóng miền Nam, Huân đi xa, mẹ Huân ở với cô em gái
trong một căn nhà tạm sát chợ Nhổn. Sáng sáng bà nấu một ấm nước chè xanh rõ
to, để giữa chợ, ai uống thì tự rót, tự uống, tự bỏ mấy xu vào trong cái vỏ
lon. Còn cô em gái thì làm ở xí nghiệp tơ tằm. Thỉnh thoảng cô được xí nghiệp
phân phối bán cho cả ký nhộng, Huân chia cho tôi và Phạm Hoa đem về đãi vợ con,
ngon tuyệt vời.
Ngày
chiến tranh, đi bộ đội, Huân vào khu V, trực tiếp tham gia chiến đấu cùng Sư
đoàn Ba, một sư đoàn anh hùng, nổi tiếng của Quân Khu V. Hoài Châu là địa bàn
thân thuộc của sư đoàn và cũng là địa bàn thân thuộc của nhà văn Nguyễn
Trí Huân. “Mặt Cát”; “Năm 1975, họ đã sống như thế”; “Chim én bay” của Huân đều
viết về vùng đất này. Có thể nói, Hoài Châu đã làm nên tên tuổi nhà văn Nguyễn
Trí Huân. Bà con Hoài Châu cho đến bây giờ nhiều người còn nhớ đến “chú Huân”.
Huân về Hoài Châu như đứa con xa nhà lâu ngày về lại. Tôi có lần về Hoài Châu
cùng Huân để bốc mộ ông anh, được bà con coi sóc nhiệt tình, ấm áp và sâu nặng,
không thể kể hết ra được.
Tôi
lấy vợ, có con. Tôi, Huân và Phạm Hoa cùng ở dãy nhà cấp bốn xập xệ. Đêm đêm,
tôi, Huân và Hoa thường quần đùi bộ đội, mình trần ra vòi nước công cộng cả khu
chung hứng nước xách về cho cả nhà dung.
Chò
chõ ngồi chờ nước chảy, ba thằng rít thuốc lào xoe xóe! Chuyện quanh đi quẩn
lại về mấy em hồi ở chiến trường. Nhưng nước vẫn chưa khổ bằng việc cả khu nhà
chung nhau có mỗi cái nhà vệ sinh…
Cuộc
sống của cánh tôi có phần hoang dã, nhưng đầy ắp tình người. Thế mà rồi lũ nhóc
của chúng tôi cũng lớn lên, cuộc sống biến thiên, mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi
cảnh. Vợ chồng Huân, Hoa yên ấm. Vợ chồng tôi loạc choạc chia tay. Tôi chiều
chiều đi đón con ở nhà trẻ về, tạt vào nhà Huân ăn cơm.
Có
khi chả báo trước, cứ gặp bữa là chén, thậm chí cả tháng trời, chiều chiều đón
con từ nhà trẻ về, rồi sang nhà “bố” Huân đánh vài ván cờ, cờ xong là chén. Sao
hồi ấy tôi chén cơm nhà Huân nhiều thế mà chả thấy áy náy gì nhỉ? Bà mẹ Huân
trông thấy tôi thì bảo “bố” Đỉnh về ăn cơm. Bọn con nhà Huân cũng một “bố”
Đỉnh, hai “bố” Đỉnh. Nẹt thành quen.
***
Cuộc đời làm biên tập viên của tôi nếu tính ra cũng trên dưới hai
mươi năm. Huân làm lãnh đạo cũng trên dưới ngần ấy thời gian. Hồi Huân làm Tổng
Biên tập có một vụ việc nghiêm trọng xảy ra. Đó là chúng tôi đã in cái truyện
ngắn “Chuyện không có trong sự thật”. Thực ra truyện do tôi đem về. Nhóm bạn
chơi của tôi hồi ấy có Nguyễn Quang Lập, Phạm Xuân Nguyên và Nguyễn Thành
Phong. Cánh tôi rất háo hức khi tranh luận với nhau về những chi tiết xung
quanh chuyện con chó và bà chủ. Tôi thì thấy hay, quả thật là nó hay, tuy có
hơi gợn, nhưng truyện của Lập kín kẽ mà vẫn khốc liệt. Nào ngờ, khi truyện in
ra đúng dịp 27/7, ngay lập tức có sự phản ứng quyết liệt của vài người. Lập tức
sau những người phản ứng là có người nghĩ ngay được rằng đây là một truyện rất
xấu, ám chỉ lãnh tụ, cái tên Ki Kop không phải ngẫu nhiên, mà đây là ý đồ xấu…
Thế là trong ban biên tập đảo điên, tưởng đâu Huân mất chức đến nơi.
Bây
giờ, giở lại cuốn sổ tay ghi chép, tôi nhớ lại từng gương mặt các anh trong
cuộc họp kiểm điểm nhau, có một vị tướng của Tổng cục Chính trị dự.
Vị tướng này có dáng vẻ rất hiền, rất trí thức nhưng rất rắn. Thế là lập tức
những phát biểu gay gắt và đầy “lập trường” được những người bạn đồng nghiệp
phân tích cả buổi, nào đồng chí Huân thế này, thế kia, nào đồng chí Đỉnh đã đem
lửa về đốt cơ quan. Vị tướng nọ kết luận, vì đồng chí Đỉnh không thuộc diện
chúng tôi quản lý, chỉ là biên tập viên nên cũng chả còn chỗ nào mà kỷ luật.
Đồng chí Huân phải “hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Huân ta nhất nhất đây là “sự
kém cỏi của tôi”. “Bao nhiêu sai sót đều do tôi, xin các đồng chí kỷ luật mình
tôi là đủ rồi”. Về phía tôi, thấy thế cũng chướng, đề nghị cấp trên nếu kỷ luật
đồng chí Huân thì cũng nên xét cho tôi ké với. Nhưng vị tướng nọ được sự hưởng
ứng cao độ của các nhà văn, nhà thơ đã kết luận rất nhẹ nhàng rằng, nguyên tắc
là nguyên tắc, các đồng chí ạ.
Ở
đời có những chuyện nhớ đời là như thế, đến bây giờ vẫn nhớ, nhớ và thấy chuyện
thật khôi hài, thật vớ vẩn, sao mà hồi ấy mặt mũi các nhà văn nhà thơ mà cũng
nghiêm trọng đến như thế? Tôi đã chứng kiến nhiều lần Huân cứu được anh em bạn
bè thoát những rắc rối từ chuyện luyến ái cá nhân đến việc động trời mất sao,
mất gạch, mất chức... được Huân thật thà ra tay bảo lãnh. Mà Huân bảo lãnh ổn…
Nhưng
dù sao chuyện của tôi và Huân kể thế tạm còn nghe được. Kể thêm nữa khéo không
lại vạch áo cho người xem lưng, lưng thì đã còng, chí thì đã kiệt, như tôi, đến
rượu bây giờ cũng đã oải rồi, hỏi còn thiết tha cơm cháo gì nữa. Ke ke.
“Tao
cấm mày ăn cơm!"
Mãi tới khi Huân lên Tổng Biên tập VNQĐ, tôi vẫn lẹt đẹt làm lính.
Khi Huân vừa lên được mấy ngày, tôi đã khấp khởi, tinh tướng bảo Huân: “Bố Huân
phải bố trí phòng khác cho tôi. Tôi ở cái phòng chín mét vuông này quá lâu
rồi”. Huân bảo tôi: “Thì mày cũng phải từ từ”. Tôi nổi khùng: “Không từ từ gì
nữa! Ông phải đổi phòng cho tôi. Cơ quan còn thừa phòng mà để cán bộ ở thế này
à?”.
Huân
đỏ nhừ mặt, đứng lên nói: “Thì mày cũng phải để cho tao từ từ đã chứ”. Tôi
không vừa: “Không từ từ. Làm cán bộ phải lo cho anh em. Thấy vô lý phải sửa
ngay chứ! Ông có lo cho tôi không thì bảo”. Huân điên lên: “Không! Mày cứ thế
thì không bao giờ”. Tôi nổi đóa: “Thế thì ra khỏi phòng này ngay! Ra!”. Huân
chỉ vào mặt tôi, run run: “Từ nay tao cấm mày đến nhà tao ăn cơm!”.
Chiều
hôm ấy tôi nghĩ lại, thấy mình sai bét nhè, nhưng không nói gì, cứ lặng lẽ đến
nhà Huân ăn cơm. Vẫn như thường lệ, không ai mời trước, bà thì vẫn bình thản,
vợ Huân và trẻ con cũng bình thản, chỉ có tôi và Huân chả thằng nào nói với
nhau lời nào. Ăn xong tôi chuồn, Huân ra mở cửa, mặt vẫn tím bầm, nhưng tôi
biết, y không còn giận tôi nữa.
Nguồn: Nhavantphcm.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét