Phạm Viết Đào.
“Nhặt lại tháng ngày rơi…” là tên tập
thơ mới của Trần Trương, Nhà xuất bản Hội Nhà văn vừa ấn hành quý III-2018.
Trần Trương
sớm đến với thơ, anh đã được tặng Giải 3 trong một cuộc thi thơ của Tổng Cục
Lâm nghiệp khi mới chân ướt chân rào về công tác tại ngành này…Đây là cuộc thi
thơ về đề tài lâm nghiệp và chánh chủ khảo là Xuân Diệu và hội đồng chấm giải
là những nhà thơ Hoàng Trung Thông, Quang Dũng…
Từ bước “chân thơ” đầu đời này, ngành Lâm nghiệp
với rừng rú, sông ngòi đã bén duyên với đời thơ của Trần Trương cho tới tận cuối
đời, mặc dù quãng đời sau này, anh không còn công tác tại ngành này. Do vậy mà
mỗi khi có dịp, mỗi khi bắt gặp lại những sản phẩm, đặc sản lâm nghiệp, hơi hướng
lâm sinh thì cái tình thơ của “cái thuở
ban đầu lưu luyến ấy; ngàn năm chưa dễ mấy ai quên”…lại bừng ngộ, vấn vương
lấy nghiệp làm thơ của Trần Trương. Người đọc dễ dàng nhận ra cái hơi hướng lâm
sinh, duyên nghiệp lâm sinh trong tập “Nhặt
lại tháng ngày rơi…”
Cuộc đời riêng
của Trần Trương nhìn chung là thuận buồm xuôi gió, cái “sự thuận buồm” của một công chức “sớm vác ô đi tối vác ô về”, “ Dãi dầu đã trải, nắng mưa đã từng”; “Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng”…Trần Trương
là tạng người luôn biết lái “chiếc buồm”
của “con thuyền” cuộc đời mình theo
chiều gió để không bị rách nhưng anh lại cảm thông, chia sẻ với nhiều cảnh ngộ …Chính
vì cái thuận buồm đó nên cuối đời nhìn lại mình, Trần Trương cố gắng rút tỉa,
gom nhặt lại những gì mà anh cảm thấy là nên gom giữ lại, để ngắm nghía, để tự
an ủi, sưởi ấm mình chứ không “ vơ bèo vạt
tép” để lấy số lượng…
Mặc dù sớm đến
và bén duyên với rừng với rú, với song với suối…nhưng thơ của Trần Trương rất
ít những hình ảnh gai góc, những hình tượng lởm khởm của kẻ quen sóng quen gió,
quen sông, quen suối thích trèo đèo, leo núi…
Đọc “ Nhặt lại tháng ngày rơi” người đọc dễ
dàng cảm nhận ra cái chất tự chiêm nghiệm, tự kỷ của một thanh niên thị thành
ngắm rừng rú, lâm sinh theo cách của mình trong nhiều bài thơ, trong nhiều tứ
thơ, trong nhiều câu thơ…
Thơ thường
phải có tứ, nếu không có tứ thì thơ chỉ là tập hợp một mớ con chữ, nhà thơ cũng
giống như anh “thợ kim hoàn” tài hoa
lắm cũng chỉ làm bắt mắt người đọc là cùng; Thơ của Trần Trương nhìn chung nhiều
bài có tứ nên đã để lại được những dư vị này kia…
Có những bài
câu chữ không có gì đặc sắc, kỹ thuật thơ không có gì mới mẻ, hình ảnh thì cũng
nhạt nhòa nhưng khi đọc xong bài thơ, lại để lại dư vị, gây được cho người đọc cái
cảm giác bâng khuâng. Thơ Trần Trương có một số bài để lại dư âm, dư vị nọ kia;
đó là cái mà giới văn chương gọi là “thi
tại ngôn ngoại”, ý ngoài lời…, cái không thể hiện trên con chữ mà sau con
chữ, ngoài con chữ. Xin lấy bài Bóng
mình làm ví dụ:
Đến Ronanđô còn sút hỏng
quả phạt đền
Thì điều dễ đâu phải là
đã dễ
Cái có thể trở thành
không thể
Bóng mình chưa phải
chính mình đâu…
( Bóng mình)
Trong bóng
đá, phạt đền 11 m là quả xút tưởng ngon ăn, thế mà nhiều cầu thủ ngôi sao lại
đá hỏng như Ronando, như Socrates, như Platini, như Quang Hải, như Công Phượng…Mặc
dù từ điểm đá phạt cách cầu môn có 11 m, cầu thủ chỉ việc xút thẳng vào khung
thành đối phương và chỉ phải đối mặt với 1 cầu thủ duy nhất của đối phương là
thủ môn.
Người ngoài
sân ngỡ như đá ra ngoài cầu môn khó hơn đá vào trong, thế mà vì áp lực tinh thần
quái quỷ gì đó mà khiến cho đôi chận của nhiều cầu thủ từng được coi là ngôi
sao, được thể hiện qua nhiều trận thư hùng lại bị tê cứng, đá bật ra ngoài hoặc
lên trời…Đôi chân của mình không còn là chân của mình, con người mình không còn
là mình nữa…
Bài thơ Cỏ, cũng là bài thơ chưng cất lên được,
tại nên được “ ý tại ngôn ngoại” bởi
nó có cái tứ rất thơ:
Ở đầu ngọn cỏ có sương
Ở chân ngọn cỏ còn
vương chút chiều
Mong manh thân cỏ mỏng
teo
Bao nhiêu dẫm đạp bấy
nhiêu mượt mà…
( Cỏ..)
"Cỏ..." là bài thơ nói lên số phận, sức sống "vạn đại" của đại đa số dân chúng cần lao...
Cái tứ trong
2 bài thơ trên đó là cái sự nghịch cảnh được Trần Trương gợi lên bằng những nét
chấm phá thơ. Đó là những nghịch tình trong cõi đời này: tưởng dễ mà rất khó,
tưởng yếu ớt mỏng manh đấy mà lại can trường, lại bền vững với thời gian…
Thơ Trần
Trương là thơ của một con tim trải đời, thiết tha với cuộc đời; Là thơ của kẻ từng
từng bon chen được tới nhiều ngóc ngách cuộc sống để sẻ chia, giao cảm để rồi tự
rút ra:
Điều còn lại Trái tim đừng
vô cảm
Dẫu cuộc đời còn lắm
oan khiên
Búa nghị án gõ lên bàn
nghị án
Mà vẫn nguyên bóng tối
dưới chân đèn..
( Điều còn lại)
Bài thơ “Điều còn lại” giá như đổi thành “ Búa nghị án” có khi lại hay hơn… Chốn Tòa,
người ta ngỡ là chốn thâm nghiêm, quang minh chính đại, nơi làm sáng tỏ, lập lại
lẽ công bằng; Thế nhưng đằng sau chiếc “
búa nghị án” của ông quan tòa không phải đã có khả năng đập tan những bất
công, phi lý khác chi những cái cột đèn tưởng là thứ công cụ mang ánh sáng cho
thiên hạ, nhưng lại để lại “bóng tối dưới
chân đèn”…
Bên cạnh những
bài thơ để lại những dư vị này kia, trong Nhặt
lại tháng ngày rơi cũng có những bài cho thấy tác giả có những cảm xúc vạm
vỡ, hào sảng, khỏe khoắn:
Tôi nghe sóng sông Gâm
gầm thác dữ
Chuyến bè về rào rạt bản
Na Hang
Và lạc giữa cánh rừng
già Tuyên Hóa
Trong sương giăng đặc
quánh đại ngàn
Khi đêm đến trăng rơi
vào thung vắng
Cọn nước thì thầm kéo
suối lên nương
Ruộng bậc thang nhưng
vòng cườm khoanh núi
Trâu cuối sán nhai cỏ
ngai ngái hương…
( Lạc vào xứ Tuyên)
Tóm lại, Nhặt
lại tháng ngày rơi…của Trần
Trương muốn mang cho người đọc cái thông điệp, những lời nhắn nhủ chân thành của
tác giả, một nhà thơ tới những ai còn chìm nổi trong chốn phồn hoa, phù vân
danh vọng: hãy sống thực với lòng mình, hãy là chính mình trong mọi cảnh ngộ của
cõi đời…Hãy về với tự nhiên, với chính mình. Bởi mọi thứ rồi sẽ trôi đi nhưng
lá rừng, như nước sông nước suối…
Đó là những
gì Trần Trương đã tự mình gom nhặt lại sau “ Nhặt lại tháng ngày rơi…” không
bao giờ trở lại !
P.V.Đ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét