(Giáo dục) - Phải có đến 70% cán bộ, công chức là tiến sĩ, 50% còn khiêm tốn...
Tiếp tục bình luận về số liệu cho thấy có tới 50% tiến sĩ đang làm cán bộ, công chức, PGS.TS Nguyễn Văn Nam cho rằng việc này xuất phát từ nền tảng văn hóa, giáo dục của Việt Nam.
Công chức đang tranh hết tiến sĩ của nghiên cứu...
Theo ông, từ xưa tới nay, Việt Nam đã có truyền thống "tôn sư trọng đạo", luôn đề cao tính hiếu học, đây là truyền thống tốt đẹp cần được gìn giữ, phát huy. Tuy nhiên, do tác động từ môi trường xã hội, giáo dục cũng chạy theo cơ chế thị trường, hàm vị giáo sư, tiến sĩ cũng bị thị trường hóa dẫn tới nhiều tiêu cực.
Nhìn nhận từ thực tế, PGS Nguyễn Văn Nam chỉ rõ 3 nguyên nhân dẫn tới tình trạng TS thì nhiều nhưng số đứng giảng dạy và nghiên cứu lại rất hạn chế.
Cụ thể ông nói: "Thứ nhất, nhìn từ phía những người mang danh hiệu tiến sĩ. Ngoài việc có được danh hiệu thì hàm vị tiến sĩ còn là công cụ để họ thăng tiến chức tước trong công việc, vì thế mới có câu chuyện cán bộ cấp sở, cấp phòng cũng phải cố cho bằng được cái bằng tiến sĩ để ra oai, để hưởng lương.
Thứ hai, về phía giáo dục cũng có tư duy, định hướng không đúng. Không một nước nào như Việt Nam khi giới thiệu một ông Bộ trưởng lại giới thiệu là GS.TS, Bộ trưởng... Nghe thì tưởng là oai nhưng sự thật có khi chỉ là bằng mua, bằng giả, bằng hàm thụ tại chức mà lên.
Đây là tư duy rất xấu. Họ cứ nghĩ có được hàm vị tiến sĩ thì sẽ biết cách ngoại giao, biết tiếp đón khách quốc tế... Việc phong hàm tiến sĩ cho những người không viết nổi văn bản, không thuyết trình được trước đám đông thì chẳng khác nào nghành giáo dục đang tự "đào gốc" tiến sĩ.
Thứ ba, về phía các cơ quan quản lý, các tổ chức hành chính cũng chạy theo chỉ tiêu, số lượng để lấy thành tích, để mở rộng hoạt động, mà muốn mở rộng thì phải có nhân lực, có kinh phí... Đây là lý do nhiều cơ quan, địa phương đặt ra mục tiêu "sĩ hóa" 100% công chức.
Thứ tư, trong công tác tổ chức, cán bộ không có cơ chế đánh giá cán bộ, công chức dựa trên năng lực, hiệu quả việc làm mà lại dựa trên hồ sơ, lý lịch, danh vị của người cán bộ. Đây là quan điểm rất sai lầm.
Có người đã nói với tôi, dù không học nhưng cũng tự nhiên được làm GS. Ông ấy kể, ông ấy không được học đại học nhưng do có thời gian hoạt động công chúng lâu năm nên được đưa vào giảng dạy tại các trường rồi được phong GS. Làm GS, TS như vậy thì dễ dàng quá.
Ở các nước GS, TS phải là những người làm nghiên cứu nhưng nghiên cứu phải để phục vụ công tác giảng dạy. Trong khi tại Việt Nam thì ngược lại, học GS, TS để vào cơ quan nhà nước. Cán bộ, công chức làm GS, TS đang tranh hết người làm nghiên cứu".
Ông Nam nhấn mạnh, với cơ chế tuyển chọn cán bộ công chức như hiện nay thì 50% tiến sĩ làm cán bộ, công chức là đã có sự cải thiện nhiều rồi. Theo ông, khoảng 2-3 năm về trước, con số này phải là 70%, chỉ có khoảng 30% GS, TS làm công tác giảng dạy và nghiên cứu thôi.
...để chạy theo cái nhất
Tiếp tục kể lại câu chuyện của mình, vị PGS tâm tư: "Tôi có thâm niên 20 năm đứng lớp, giảng dạy nhưng bây giờ cũng mới nhận hàm vị PGS. Có nhiều người động viên tôi làm tiếp hàm vị GS nhưng tôi từ chối.
Tôi thấy không cần thiết vì ranh giới giữa một GS thật và GS giả quá mong manh. Những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu như tôi cũng bị đánh đồng với những người không có một ngày nào đứng lớp. Tôi thấy rất buồn khi mọi giá trị bị đảo lộn, bằng cấp bị đánh đồng "cá mè một lứa", không thể chấp nhận được".
Ông Nam kiên quyết phản đối chủ trương "sĩ hóa" 100% công chức để chạy theo cái nhất. Theo vị chuyên gia, Việt Nam có quá nhiều cái nhất, từ việc tiêu hoang nhất, tiếp khách sang nhất bây giờ lại có cả quan chức là GS, TS nhiều nhất thế giới.
"Không nên tự hào chúng ta có nhiều Thứ trưởng là tiến sĩ cao gấp 5 lần Nhật Bản. Nhiều tiến sĩ nhưng chất lượng cán bộ, công chức vẫn bị người dân phàn nàn, không hài lòng với thái độ phục vụ là điều bất cập.
Tôi rất lo ngại về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Tôi nhìn nó như biểu đồ hình parabol, số lượng tăng nhưng chất lượng gần như bằng 0", vị chuyên gia bày tỏ.
Bản chất tiêu cực sẽ nuôi dưỡng tiêu cực
Chốt lại vấn đề, PGS. TS Nguyễn Văn Nam cho rằng những bất cập trên đều là hệ quả của một chính sách cán bộ có vấn đề.
Từ một chính sách đào tạo, tuyển chọn cán bộ chưa nhìn vào thực lực, khả năng làm việc của một con người mà chủ yếu dựa vào lý lịch, bằng cấp thì việc chạy theo bằng cấp, hàm vị là tất yếu.
Điều khiến ông lo ngại là khi đứng trước một chính sách không chuẩn sẽ dẫn đến nhiều vấn đề sai lầm tiếp theo. Vì vậy, ông khẳng định chủ trương "sĩ hóa" cán bộ công chức là một sai lầm, không cần thiết.
"Bản thân một chính sách đã bộc lộ nhiều tiêu cực thì khi thực hiện nó sẽ là môi trường nuôi dưỡng tiêu cực phát triển mạnh mẽ hơn", ông Nam lo lắng.
Từ thực tế trên, PGS Nguyễn Văn Nam cho rằng cần phải thay đổi chính sách đào tạo GS, TS. Cụ thể về tiêu chí đào tạo phải chặt chẽ, nghiêm túc. Tiếp đến là quy định chặt chẽ tiêu chuẩn về số năm đứng lớp, số giờ giảng dạy của một GS, TS cũng như các công trình nghiên cứu phải được công bố cụ thể, thực chất.
- Hoài An
"Thị trường học vị" và hệ lụy
03/09/2017 05:28
Chỉ khi nào công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện đưa sự nghiệp giáo dục trở về với chính mình thì nạn "học giả - bằng thật" mới chấm dứt
Năng suất "siêu đẳng" trong đào tạo tiến sĩ (TS) và thạc sĩ (ThS) của Học viện Khoa học Xã hội (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã làm xôn xao dư luận. Với năng suất đó, học viện này đã trở thành một "lò ấp" để tạo ra TS với tốc độ phi thường: năm 2015 "ra lò" 265 vị TS (tính trung bình cứ 1 ngày 3 giờ 55 phút có một vị TS); năm 2016 còn nhanh hơn với 281 TS (trung bình 1 ngày 1 giờ 15 phút).
Học cho có hình thức
Thực tế như vậy nhưng vị giám đốc học viện nói trên vẫn cho rằng "đào tạo 350 TS/năm vẫn còn khiêm tốn!". Để đạt năng suất như vậy, đội ngũ giáo sư, phó giáo sư (GS, PGS) và giảng viên cơ hữu của học viện đã phải làm việc vượt mức quy định: có người nhận hướng dẫn đồng thời 12 nghiên cứu sinh (quy chế cho phép tối đa từ 3-5 nghiên cứu sinh tùy trình độ của thầy), có người khác hướng dẫn một lúc 44 học viên cao học (quy chế chỉ cho phép hướng dẫn từ 3-7 học viên cùng lúc).
Một buổi bảo vệ luận án tiến sĩ tổ chức tại Học viện Khoa học Xã hội Ảnh: MAI HOA
Tuy nhiên, năng suất đào tạo đó không phải là thành tích đáng tự hào mà đã trở thành dấu hiệu rõ ràng để nghi ngờ về giá trị của các văn bằng học vị do học viện này cấp phát. Ngoài các số liệu trên, Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) đã vạch rõ hàng loạt sai phạm của học viện này trong quá trình đào tạo: Xác định chỉ tiêu đào tạo không tương thích với lực lượng cán bộ cơ hữu (chỉ tiêu của năm 2017 là 86 học viên cao học nhưng học viện đăng ký tới 1.600 người), tổ chức tuyển sinh và quản lý đào tạo có nhiều bất cập (chuyên môn của thầy khác với chuyên ngành của trò, thành viên hội đồng chấm luận án có chuyên môn khác với chuyên ngành của đề tài luận án…), chương trình đào tạo bị cắt xén (từ 90-120 tín chỉ rút xuống chỉ còn 16 tín chỉ), hồ sơ cấp phát văn bằng bị sửa chữa, tẩy xóa… Những sai phạm đó cho phép nghĩ về kiểu đào tạo "học giả - bằng thật": người học chỉ học cho có hình thức để bảo đảm "quy trình" mà không tiếp nhận được một trình độ khoa học đích thực nào nhưng được cấp bằng thật mang thương hiệu của một học viện "hàn lâm" tầm cỡ "quốc gia".
Mối quan hệ thân tộc
Từ thực trạng nói trên, một vấn đề bức xúc được đặt ra là động lực nào đã thúc đẩy những cơ sở kiểu này đào tạo theo kiểu đó? Chỉ cần tìm hiểu nguồn tài chính mà Học viện Khoa học Xã hội thu của nghiên cứu sinh và học viên cao học để trao cho họ các chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp là đã có thể lý giải vấn đề này.
Mặc dù Bộ GD-ĐT chưa thanh tra các nguồn thu tài chính của học viện này nhưng những thông tin tìm hiểu qua người thực, việc thực đáng tin cậy cũng rõ vấn đề. Một cựu học viên cao học (xin được giấu tên) tại cơ sở ở TP HCM của học viện này cho biết ngoài 15 triệu đồng học phí/năm, trong 2 năm đào tạo, mỗi học viên phải đóng góp hàng chục loại phụ thu khác với những danh nghĩa mơ hồ mà không hề được cấp hóa đơn, biên nhận. Đó là tiền "hỗ trợ đào tạo", tiền "chạy điểm", tiền "bồi dưỡng hội đồng coi thi"… Tính chung, mỗi học viên cao học phải nộp các khoản "mơ hồ" đó hơn 100 triệu đồng để kết quả được cấp bằng ThS. Bằng TS có giá trị hơn bằng ThS nên dĩ nhiên các nghiên cứu sinh phải nộp số tiền cao hơn nhiều so với con số mà học viên cao học phải đóng.
Để bảo đảm cho nguồn thu nói trên, hệ thống tổ chức của học viện này được thiết lập dựa trên mối quan hệ thân tộc của "nhóm lợi ích", cụ thể: GS-TS Võ Khánh Vinh làm giám đốc học viện; hai con trai và em trai nắm giữ các vị trí khá quan trọng tại học viện. Từ đó, thành phần tham gia các hội đồng bảo vệ luận án TS (hay luận văn ThS) cũng được chọn lọc với các thành viên "đồng tâm nhất trí" trong việc tiếp nhận và phân chia lợi ích nhóm.
Nhờ đó, tất cả luận án và luận văn đều được đánh giá tốt để các tác giả của chúng được cấp các văn bằng học vị vẻ vang (sau khi đã đóng góp đủ phần mình vào tài khoản học viện).
Khó tránh sự quyến rũ
Với kiểu đào tạo này, Học viện Khoa học Xã hội đã tự biến mình thành một "thị trường học vị", trong đó hiện vật được "mua - bán" là những tấm bằng TS và ThS được đóng dấu thật nhưng có khi không chứa đựng một giá trị tri thức nào của người sở hữu nó. Dùng những bằng cấp đó làm công cụ tiến thân trên con đường danh vọng của mình, các trí thức giả hiệu này sẽ gây ra những tổn hại không nhỏ.
Với các kết luận của Thanh tra Bộ GD-ĐT, Học viện Khoa học Xã hội buộc phải sửa chữa và khắc phục các sai phạm. Tuy nhiên, tất cả những sự thay đổi đó vẫn không đủ để sửa đổi kiểu đào tạo "học giả - bằng thật" thành một sự nghiệp đào tạo tri thức khoa học cao quý. Bởi lẽ, việc chế tạo "hàng giả y như thật" bao giờ cũng dễ dàng, ít tốn kém mà mang lại siêu lợi nhuận so với việc sản xuất hàng hiệu của chính hãng. Trong thực trạng xã hội hiện nay, khi vấn nạn "chạy chức - chạy quyền" thao túng thị trường nhân lực thì "học giả - bằng thật" vẫn là nhu cầu vô cùng lớn, đòi hỏi "thị trường học vị" phải đáp ứng. Do vậy, các cơ sở đào tạo ĐH và sau ĐH khó tránh khỏi sự quyến rũ của quy luật cung - cầu này. Chỉ khi nào công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện đưa sự nghiệp giáo dục thoát khỏi cơ chế thị trường đó để trở về với chính mình thì vấn nạn "học giả - bằng thật" mới chấm dứt.
GS TRẦN HẢI LINH, Trường ĐH Inha (Hàn Quốc):
Cần giải pháp thay đổi triệt để
Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng số lượng cán bộ khoa học, giảng dạy có trình độ cao, trước hết là các TS. Tuy nhiên, bên cạnh việc tăng số lượng, phải đặc biệt coi trọng và có những giải pháp thay đổi một cách triệt để nhằm nâng cao chất lượng đào tạo TS. Nhìn sang Hàn Quốc, có thể thấy quy trình bảo vệ luận án ở đó dù bất cứ lĩnh vực nào cũng đều rất chú trọng và xem việc "công bố khoa học" là một trong những chuẩn mực và hạn chế bớt các thủ tục rườm rà khác cho nghiên cứu sinh.
Các nước có nền khoa học phát triển (bao gồm khoa học tự nhiên, công nghệ, khoa học xã hội, kinh tế, giáo dục…) luôn coi nghiên cứu sinh như là một lực lượng thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Người thầy phải là người thiết kế, hướng dẫn và đánh giá kết quả từng công đoạn nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Nghiên cứu sinh ở đây không phải chỉ tập dượt nghiên cứu mà còn được giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học vừa tầm vừa sức của mình. Luận án khi bảo vệ phải bảo đảm có "tính mới" trong khoa học. Với cách làm đó, nghiên cứu sinh sẽ tiếp cận được với phương pháp triển khai nghiên cứu khoa học và trở thành "những người có trình độ khoa học" nhất định khi có bằng TS.
TS AN NHIÊN, Thừa Thiên - Huế:
Cho tự chủ nhưng thiếu kiểm soát
Bất cập lớn trong đào tạo TS ở Việt Nam thời gian qua là cho các trường quyền tự chủ về đào tạo TS nhưng thiếu sự kiểm soát. Sự dễ dãi trong nhiều khâu dẫn đến việc đào tạo khó có chất lượng, nhất là khi nhiều người không thuộc các trường ĐH hay viện, ít liên quan đến lĩnh vực đào tạo hay nghiên cứu khoa học nhưng đua nhau đi học để lấy học vị TS vì những mục đích khác.
Để việc đào tạo TS của Việt Nam tiệm cận với tiêu chuẩn của các nước có nền giáo dục tiên tiến, cần triệt để thay đổi trên nhiều khía cạnh. Thứ nhất, khi tuyển sinh phải tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu của đầu vào, nhất là ngoại ngữ. Thứ hai, thời gian học nên áp dụng hình thức nghiên cứu toàn thời gian từ 3-4 năm. Nghiên cứu sinh phải tập trung học tập các chuyên đề bắt buộc, sau đó có mặt ở phòng nghiên cứu, lab, thư viện để chuyên tâm cho luận án. Nếu có hình thức đào tạo bán thời gian thì tối thiểu 6-8 năm mới được tốt nghiệp. Thứ ba, trong quá trình học tập phải tuân thủ báo cáo tiến độ (theo khung thời gian đề cương) hằng tuần hoặc 2 tuần/lần đối với GS hướng dẫn, 2 năm/lần đối với đơn vị phụ trách đào tạo sau ĐH của viện hoặc trường. Thứ tư, trong quá trình nghiên cứu, nghiên cứu sinh phải tham gia các hội thảo khoa học chuyên ngành. Thứ năm, thực hiện nghiêm túc quy định về công bố các công trình xuất bản liên quan đến đề tài nghiên cứu có chỉ số khoa học như sách, báo, chương sách. Thứ sáu, có cơ chế hỗ trợ sinh hoạt phí (học bổng) cho nghiên cứu sinh trong quá trình đào tạo. Thứ bảy, sau khi hoàn thành luận án và nộp cho trường, luận án được gửi cho 2 hoặc 3 GS chuyên ngành ngoài trường chấm. Quá trình chấm hoặc phản biện phải kín, khách quan để bảo đảm tính công bằng.
Y.ANH ghi
LÊ VINH QUỐC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét