Chủ Nhật, ngày 10/04/2016, 06:30
Cần làm rõ yếu tố Trung Quốc trong việc tham gia vào nhiều dự án trọng điểm. Cần làm rõ trách nhiệm của từng người đã xây dựng, tham gia, phê duyệt các đầu tư thất bại này.
Ngày nay với các phương tiện truyền thông, người dân bắt đầu biết, làm quen với các con số ngàn tỷ đồng thất thoát, thua lỗ, hoặc các dự án đắp chiếu, hiệu quả không có hay không sản xuất ra được sản phẩm. Ai cũng biết những con số hàng chục ngàn tỷ bị thất thoát, thua lỗ như Vinashin, Vinalines đã rơi vào im lặng , không có khả năng thu hồi sau khi các giám đốc vào tù.
Có những dự án đã đầu tư đến hơn 5.800 tỷ đồng như Dự án mở rộng Nhà máy luyện cán thép Thái Nguyên đến nay vẫn dở dang sau 10 năm xây dựng, muốn đầu tư tiếp phải có trên dưới 4.000 tỷ nữa mà hiệu quả đã thấy trước là thua lỗ . Nhà máy xơ sợi Đình Vũ Hải Phòng (thuộc Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam) đã đầu tư hơn 7.000 tỷ đồng, chỉ giữa năm 2015 đã lỗ đến 1.732 tỷ đồng và từ tháng 9.2015 đến nay, nhà máy đã dừng sản xuất mà theo Tổng giám đốc nhà máy thì đó là cách tiết kiệm nhất để chống thua lỗ kéo dài!
Nhà máy liên hợp gang thép Vạn Lợi Hà Tĩnh, đầu tư hơn 1.700 tỷ đồng vốn của các Ngân hàng quốc doanh (chiếm hơn 85%) chưa ra một sản phẩm nào thì đến nay UBND tỉnh Hà Tỉnh chính thức chấm dứt, xoá bỏ thu hồi đất của dự án. Nhưng có dự án gây phản ứng dư luận ngay từ ban đầu nghiên cứu là các dự án Bauxite ở Tây Nguyên. Dự án Tân Rai, vốn ban đầu dự kiến trên dưới 8.000 tỷ thì khi hoàn thành lên đến 687 triệu USD (hơn 14000 tỷ đồng) và đã được dự kiến lỗ trong 3 năm là 460 tỷ đồng; còn Nhân Cơ sẽ lỗ hơn 3.000 tỷ trong 5 năm.
Ngược lại thời gian trước, từ 1995 đến năm 2000, Chương trình 1 triệu tấn đường với số vốn bỏ ra hơn 8.200 tỷ đồng (tương đương 750 triệu USD) xây dựng ồ ạt 44 nhà máy đường ở 29 tỉnh , thành phố, đã để lại số nợ khó đòi không có khả năng thanh toán là 7.158.863 triệu đồng. Những năm 90 cuối thế kỷ trước, Chương trình 3 triệu tấn xi măng lò đứng được nhanh chóng triển khai với hơn 40 nhà máy có vốn đầu tư là hơn 160 triệu USD cũng nhanh chóng tan biến vì chất lượng xi măng quá kém, ô nhiễm môi trường nặng nề.
Năm 1997, triển khai Chương trình đánh bắt xa bờ được Chính phủ giao cho Bộ Thuỷ sản chủ trì cho ngư dân vay 1340 tỷ đồng (tương đương 120 triệu USD) đóng mới và cải tiến hơn 1.000 chiếc tàu thì chỉ hơn nửa năm sau đã có 250 chiếc nằm ụ phơi sương, còn 520 chiếc thì đánh bắt không hiệu quả nên không ra khơi mà chỉ đánh quanh quẩn gần bờ. Kết quả bán đấu giá 250 tàu còn khá nhất chỉ thu lại 26,5% giá trị đầu tư.
Còn khá nhiều dự án hạ tầng, dự án phục vụ dân sinh như các dự án làm đường, làm giếng nước, bỏ nhà sàn để tái định canh, định cư cho người dân tộc miền núi đã gần như thất bại hoàn toàn. Hầu hết những dự án thất bại có những điểm tương đồng cho ta rút ra được những mẫu số chung như sau:
Trước hết những dự án này đều rơi vào doanh nghiệp nhà nước. Có doanh nghiệp đang làm ăn bình thường, sau đầu tư mới, mở rộng sinh ra lụn bại như Nhà máy gang thép Thái nguyên. Những "quả đấm thép" này của nhà nước đã cố chạy cho được dự án và chú trọng khâu xây dựng hòng kiếm chác quyền lợi riêng mà bất chấp hiệu quả công trình. Họ luôn xem việc xin cho từ ngân sách như "chùm khế ngọt" mà ai cao thì hái được nhiều! Nạn tham nhũng chỉ có thể trong sự thực hiện các đầu tư mới, càng lớn càng tốt.
Nhiều vật liệu xây dựng đã bị gỉ sét tại dự án mở rộng nhà máy Gang thép Thái Nguyên giai đoạn hai- Ảnh: Nguyễn Khánh- Tuổi trẻ.
Lập và thẩm quyền phê duyệt dự án không đúng, chỉ là hình thức. Chính cơ quan chủ trì phê duyệt lại có Công ty tư vấn hay bộ phận giúp chủ đầu tư xây dựng dự án. Như Dự án đánh bắt xa bờ thì Bộ Thuỷ sản có Công ty Tư vấn Thiết kế đầu tư thuộc Bộ lập các dự án hầu hết giống nhau để Bộ phê duyệt. Tương tự các dự án xi măng lò đứng; Chương trình 1 triệu tấn đường cũng vậy.
Với cách làm đó, hầu hết các dự án đều được lập với những dữ kiện giả tạo, đẹp đẽ, thuận lợi, cầm chắc thua lỗ mà các chủ đầu tư luôn đổ lỗi tại sự biến động thị trường, tại phát sinh các yếu tố khác. Như Nhà máy xơ sợi Đình Vũ cho là mình xây dựng phương án giá sợi polyester khi giá dầu còn cao, giá dầu biến động nên mua nguyên liệu về đã lỗ, sản phẩm làm ra giá thành cao hơn thị trường. Nhà máy đường thì không quy hoạch vùng nguyên liệu, không đầu tư chuyên canh cây mía nên mía có năng suất thấp, nông dân trồng mía bị ép giá bán thấp. Nhà máy gang thép Thái Nguyên thì dự án kéo dài hơn 10 năm, phát sinh hơn gấp đôi dự toán đầu tư ban đầu.
Phát sinh do chậm tiến độ hay do giá nguyên liệu , thiết bị tăng hoặc do tỷ giá ngoại tệ tăng cao so với tiền đồng. Các hợp đồng thường được các chủ đầu tư "ưu ái" để kẽ hở cho bên nhận thầu có những thuận lợi tăng giá. Các dự án Bauxite đã tách rời đường vận chuyển để giảm giá đầu tư để lại khó khăn cho xã hội khi vận chuyền nguyên liệu, thành phẩm hư hỏng đường. Phát sinh có khi gấp đôi, gấp ba giá tổng dự toán ban đầu.
Yếu tố Trung Quốc là rõ nhất trong việc gây thất bại của nhiều dự án. Gang thép Thái Nguyên đã ứng đến hơn 93% tiền mua thiết bị nhưng thiết bị theo tổng thầu EPC Trung quốc đã không đưa sang phần điện và điều khiển nên chỉ có họ nắm giữ, vận hành , nếu không nó chỉ là những đống sắt rời rạc phơi mưa nắng hàng năm bảy năm nay.
Năm 1996, Trung Quốc đã có chủ trương phá bỏ 300 triệu tấn xi măng lò đứng thì lập tức các thiết bị ấy được chuyển sang ta để chỉ trong vòng 3 đến 5 năm, nước ta cũng phải dẹp các sản xuất lạc hậu này. Công nghệ lạc hậu của Trung Quốc được lắp đặt với giá không còn có thể cao hơn. Để chỉ mở rộng thêm 500 ngàn tấn thép và phôi, nhà máy gang thép Thái Nguyên đã ứng cho nhà thầu Trung Quốc là hơn 5.800 tỷ đồng (tính theo từng thời điểm thì tương đương 320 triệu USD) mà vẫn chưa xong. Chính phủ đã thống nhất điều chỉnh lên 8.109 tỷ đồng , nhưng theo các chuyên gia thì cần đến hơn 4.500 tỷ đồng mơi mong hoàn thành.
Trong khi đó, thép Pomina III đầu tư tổng vốn chỉ hơn 300 triệu USD để thực hiện 1 nhà máy luyện thép (phôi) 1 triệu tấn/năm; 1 nhà máy cán thép công suất 500 ngàn tấn/năm; một cảng biển bốc dỡ 3 triệu tấn/năm. Mà công nghệ của Pomina III là công nghệ tiên tiến của Ý, Đức, Mỹ. Vậy với dự án Thái Nguyên, chúng ta có cần phải bỏ thêm 200 triệu USD để rước về một dây chuyền công nghệ lạc hậu mà sự thua lỗ đã cầm chắc khi giá thành cao. Hơn nữa sự chậm trễ 10 năm qua đã biến sự đầu tư này không còn có ý nghĩa khi thị truòng nước ta đã có nhiều ông lớn ngành thép nhảy vào như Formosa (Hà Tĩnh), Pomina, Kyoie, Hoà Phát ...
Có thể thấy yếu tố Trung Quốc trong khá nhiều trường hợp là tác nhân chính đưa đến thất bại của các dự án. Ham rẻ, dễ dàng tiêu cực, giá bỏ thầu và được chọn bao giờ cũng thấp bằng một nửa hay có khi bằng 1/3 giá hoàn thành dự án. Chậm tiến độ là nguyên nhân gây mất cơ hội đầu tư, khiến thị trường và giá cả biến động không còn thuận lợi như thời điểm đầu tư.
Có yếu tố chính trị muốn phá hoại kinh tế nước ta hay không cũng cần xem xét nhiều mặt, nhưng chậm trễ, tăng giá, công nghệ lạc hậu của các nhà thầu Trung Quốc đã gây khó khăn không ít, hay có thể phá hỏng dự án là điều khá rõ. Về phía chủ quan cũng cần làm rõ yếu tố Trung Quốc trong việc tham gia vào nhiều dự án trọng điểm. Cần làm rõ trách nhiệm của từng người đã xây dựng, tham gia, phê duyệt các đầu tư thất bại này. Gần như chưa hề có quy tội cho những người khởi xướng, đứng đầu dự án khi đổ vỡ. Chính sự nhập nhèm, bao che đã đưa đến nền kinh tế bị suy yếu, gây khó khăn cho phát triển vậy.
Nguyễn Trung Dân
(http://danviet.vn/tin-tuc/thu-tim-mau-so-chung-cho-nhung-du-an-ngan-ty-dap-chieu-672776.html )
YẾU TỐ TRUNG QUỐC LUÔN XUẤT HIỆN Ở CÁC DỰ ÁN KHỦNG HÀNG NGÀN TỶ ĐẮP CHIẾU
Yếu tố Trung Quốc là rõ nhất trong việc gây thất bại của nhiều dự án. Gang thép Thái Nguyên đã ứng đến hơn 93% tiền mua thiết bị nhưng thiết bị theo tổng thầu EPC Trung quốc đã không đưa sang phần điện và điều khiển nên chỉ có họ nắm giữ, vận hành , nếu không nó chỉ là những đống sắt rời rạc phơi mưa nắng hàng năm bảy năm nay.
Năm 1996, Trung Quốc đã có chủ trương phá bỏ 300 triệu tấn xi măng lò đứng thì lập tức các thiết bị ấy được chuyển sang ta để chỉ trong vòng 3 đến 5 năm, nước ta cũng phải dẹp các sản xuất lạc hậu này. Công nghệ lạc hậu của Trung Quốc được lắp đặt với giá không còn có thể cao hơn. Để chỉ mở rộng thêm 500 ngàn tấn thép và phôi, nhà máy gang thép Thái Nguyên đã ứng cho nhà thầu Trung Quốc là hơn 5.800 tỷ đồng (tính theo từng thời điểm thì tương đương 320 triệu USD) mà vẫn chưa xong. Chính phủ đã thống nhất điều chỉnh lên 8.109 tỷ đồng , nhưng theo các chuyên gia thì cần đến hơn 4.500 tỷ đồng mơi mong hoàn thành.
Trong khi đó, thép Pomina III đầu tư tổng vốn chỉ hơn 300 triệu USD để thực hiện 1 nhà máy luyện thép (phôi) 1 triệu tấn/năm; 1 nhà máy cán thép công suất 500 ngàn tấn/năm; một cảng biển bốc dỡ 3 triệu tấn/năm. Mà công nghệ của Pomina III là công nghệ tiên tiến của Ý, Đức, Mỹ. Vậy với dự án Thái Nguyên, chúng ta có cần phải bỏ thêm 200 triệu USD để rước về một dây chuyền công nghệ lạc hậu mà sự thua lỗ đã cầm chắc khi giá thành cao. Hơn nữa sự chậm trễ 10 năm qua đã biến sự đầu tư này không còn có ý nghĩa khi thị truòng nước ta đã có nhiều ông lớn ngành thép nhảy vào như Formosa (Hà Tĩnh), Pomina, Kyoie, Hoà Phát ...
Có thể thấy yếu tố Trung Quốc trong khá nhiều trường hợp là tác nhân chính đưa đến thất bại của các dự án. Ham rẻ, dễ dàng tiêu cực, giá bỏ thầu và được chọn bao giờ cũng thấp bằng một nửa hay có khi bằng 1/3 giá hoàn thành dự án. Chậm tiến độ là nguyên nhân gây mất cơ hội đầu tư, khiến thị trường và giá cả biến động không còn thuận lợi như thời điểm đầu tư.
Đường Cát Linh - Hà Đông: Sắp đón nhận thêm điều tồi tệ?
(Tin tức thời sự) - Hiện công tác mua sắm thiết bị tuyến Cát Linh - Hà Đông triển khai rất chậm ảnh hưởng đến tiến độ toàn bộ dự án.
Đó là một trong những nội dung quan trọng do Cục Quản lý xây dựng và chất lượng công trình giao thông (Cục QLXD & CLCTGT) vừa báo cáo Bộ GTVT về tiến độ tuyến đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông.
Cụ thể, trong văn bản nêu rõ, trong 12 chuyên ngành về thiết bị, đến nay mới triển khai được 1/12 là sản xuất đoàn tàu, còn 11/12 chuyên ngành chưa triển khai được do chưa phê duyệt được hồ sơ mời thầu.
Hiện tại hầu hết nhà ga đã thi công xong phần ke ga và chuẩn bị tiến hành lắp đặt hệ khung giàn mái che các nhà ga. Tuy nhiên, còn một số các hạng mục phụ trợ tổng thầu vẫn chưa ký hợp đồng với các nhà thầu phụ.
Cụ thể tổng thầu đã ký được bốn hợp đồng thầu phụ, 8 nhà ga còn lại chưa được tổng thầu ký kết.
Dù Cục QLXD & CLCTGT đã có nhiều văn bản chỉ đạo và cử các tổ công tác thường xuyên có mặt tại hiện trường để đôn đốc.
Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông chậm tiến độ do Tổng thầu Trung Quốc thiếu vốn
|
Trước sự chậm trễ trên, Cục QLXD & CLCTGT yêu cầu tổng thầu khẩn trương đàm phán, thương thảo hợp đồng với các nhà thầu phụ những hạng mục còn lại của nhà ga xong trước ngày 15/4 để các nhà thầu phụ triển khai thi công.
Đồng thời, khẩn trương chỉ đạo các nhà thầu phụ huy động thêm nhân lực, máy móc, thiết bị để triển khai thi công các hạng mục còn lại của dự án… đẩy nhanh tiến độ, bù lại tiến độ bị chậm trong thời gian qua.
Thế nhưng, theo báo cáo của tổng thầu, giá thép đang tăng so với trước đây, các nhà thầu phụ đang kiến nghị tổng thầu điều chỉnh lại giá thép cho phù hợp với thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, theo hợp đồng EPC, tổng thầu ký kết với Ban Quản lý dự án đường sắt đơn giá cố định nên không thể điều chỉnh được.
Nhưng Cục kiến nghị Bộ GTVT tổ chức cuộc họp để nghe các bên liên quan báo cáo để xem xét, giải quyết, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc.
Cũng theo Cục QLXD & CLCTGT, gần đây đơn vị đã báo cáo Bộ GTVT về việc ký hợp đồng với thầu phụ thi công các hạng mục trên khu Depot, đặc biệt là thi công cọc PCC quá chậm. Bộ GTVT đã có công điện gửi Công ty hữu hạn Tập đoàn Cục 6 đường sắt Bắc Kinh Trung Quốc, yêu cầu đấy nhanh tiến độ. Tuy nhiên, chưa có chuyến biến tại hiện trường.
Đây không phải lần đầu tiên, dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông bị nhắc nhở về việc thiếu tiền và chậm tiến độ. Tại cuộc họp với Bộ GTVT, ngày 2/3, báo cáo về tình hình thực hiện từng hạng mục của dự án, ông Yu Jiang (người đại diện cao nhất của Tổng thầu EPC Trung Quốc tại Việt Nam) cho biết, dù đã nỗ lực nhưng tiến độ thi công vẫn chậm so với yêu cầu đặt ra. Tính đến thời điểm này, vấn đề mấu chốt nhất của mọi vấn đề là do thiếu tiền.
“Hiện Tổng thầu đang nợ các thầu phụ Việt Nam khoảng 400 tỷ đồng. Vấn đề bây giờ chỉ thiếu tiền, có tiền sẽ giải quyết được tất cả…”, ông Yu Jiang cho hay.
Nói về nguyên nhân thiếu tiền, theo ông Yu Jiang là do công tác giải ngân dự án, do Tổng thầu. Hiện nay việc xin tăng 19 triệu USD tổng mức đầu tư chưa được phía Trung Quốc chấp thuận nên không có tiền để giải ngân, gây khó khăn cho công tác triển khai dự án.
Trong khi đó, tính đến ngày 29/2 thì Tổng thầu nợ khoảng 554 tỷ đồng. Việc nợ đọng này đã gây khó khăn cho các thầu phụ triển khai thi công và đây là một trong những nguyên nhân chính khiến dự án chậm tiến độ.
Thêm một lần nữa, Bộ GTVT dự kiến sẽ phải làm việc với Đại sứ quán Trung Quốc, ngân hàng Trung Quốc để tìm hướng giải quyết dòng tiền đảm bảo thi công, tránh nguy cơ “vỡ” tiến độ dự án.
Đáng lo ngại, khi Bộ GTVT đưa ra mục tiêu cuối năm 2016 dự án phải kết thúc và đưa tuyến đường sắt đi vào vận hành. Thế nhưng, đến nay đã là giữa tháng 4, chỉ còn 8 tháng mà nhiều hạng mục vẫn chưa được hoàn thành từ phần thô.
Điều đáng lưu ý, sau một thời gian thi công, đến đầu năm 2014, dự án được điều chỉnh tổng mức đầu tư từ mốc ban đầu là 522,86 triệu USD lên 868,04 triệu USD (tăng 315,18 triệu USD so với ban đầu).
Tuệ Lâm (Tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét