Lời toà soạn: Lịch sử 5.000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Á Đông gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay. 
Lý Bạch (701 – 762), tự Thái Bạch, được đánh giá là một trong những ngôi sao chói lọi nhất của thi ca thời Đường. Ông được người đời sau tôn kính gọi là “Thi Tiên”, đã làm hàng ngàn bài thơ. Thơ Lý Bạch thấm đẫm phong cách lãng mạn, trữ tình, phong thái siêu trần, thoát tục, từ hàng ngàn năm qua đã in sâu vào lòng độc giả Á Đông. Loạt bài về Lý Bạch sẽ giúp bạn có được cái nhìn toàn diện nhất về thi nhân vĩ đại này. 
Xem thêm:  Phần 1,  Phần 2,  Phần 3,  Phần 4,  Phần 5,  Phần 6,  Phần 7
Ngoài những bài thơ tuyệt tác, rung động lòng người, Lý Bạch còn có một số tác phẩm từ (từ là dạng thơ biến điệu, gieo vần và kết cấu thoải mái hơn thơ luật, mang âm hưởng nhạc). “Tôn tiền tập” có chép 12 bài, “Hoa am tuyệt diệu từ tuyển” có chép 7 bài. Trong đó, các bài “Thanh bình điệu”, “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” lúc đó được nhạc sư Lê Viên phối nhạc diễn xướng.
Tản văn của Lý Bạch, ngày nay còn lại hơn 60 bài. Đa phần là câu đối ngẫu, nhưng ngôn từ tự nhiên, rất trôi chảy, so với phong cách thơ ca của ông cũng có chỗ tương đồng. Trong đó, hai bài tản văn “Dữ Hàn Kinh Châu thư” (Thư gửi ông Hàn ở Kinh Châu)“Xuân dạ yến tòng đệ đào hoa viên tự” (Lời tựa dạ tiệc đêm xuân theo em đến vườn hoa đào), được người đời sau lựa chọn, truyền tụng rộng rãi.
Đồng thời, Lý Bạch viết rất nhiều thơ về sơn thủy, ý thơ mĩ diệu, tươi đẹp. Có những câu thơ nổi tiếng như trong bài “Tầm Dương tống đệ Xương Cự Bà Dương Tư Mã tác”:
Nhân thừa hải thượng nguyệtPhàm lạc hồ trung thiên
Dịch thơ:
Người cưỡi trăng trên biểnGiữa trời nước buồm rơi
Hay bài “Nguyệt dạ giang hành Thôi viên ngoại Tông Chi”:
Nguyệt tùy bích sơn chuyểnThủy hợp thanh sơn lưuYểu như tinh hà thượngĐãn giác vân lâm u
Dịch thơ:
Trăng theo non xanh chuyểnNước cùng núi biếc trôiMênh mông Ngân Hà thẳmVắng lặng rừng mây xa
Hoặc như bài “Kim Lăng thành tây lâu nguyệt hạ ngâm”:
Kim Lăng dạ tịch lương phong phátĐộc thướng tây lâu vọng Ngô ViệtBạch vân ánh thủy dao không thànhBạch lộ thùy châu trích thu nguyệt