Posted on 06/12/2017
Nguồn: Francis Fukuyama, “Why Populist Nationalism Now?”, The American Interest, 30/11/2017
Biên dịch: Huỳnh Hoa
Có ba lý do tại sao chúng ta đang chứng khiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc dân túy vào nửa sau của thập niên 2010: kinh tế, chính trị và văn hóa.
Những nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa dân túy đã được chú ý và bàn luận rộng rãi. Lý thuyết thương mại nói với chúng ta rằng, tính gộp lại tất cả các quốc gia tham gia vào cơ chế thương mại tự do đều giàu có lên; nhưng cũng chính lý thuyết ấy nói với chúng ta rằng không phải mọi cá nhân ở mỗi quốc gia đó đều khá giả lên: những người lao động kỹ năng thấp ở các nước giàu sẽ thua thiệt trước những công nhân cũng có kỹ năng thấp nhưng được trả công thấp hơn ở các nước nghèo.
Trong thực tế, đó là chuyện đang xảy ra ở nhiều nước công nghiệp phát triển cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, Mexico và nhiều nước tương tự. Theo một nghiên cứu gần đây của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khoảng 50% người dân Mỹ đã không giàu có hơn so với năm 2000, xét về mức thu nhập thực; một tỷ lệ nhiều hơn nữa những người ở điểm giữa của sự phân phối thu nhập đã bị tụt xuống hơn là chuyển lên nấc cao hơn trên bậc thang kinh tế. Ở Hoa Kỳ, cuộc suy thoái tương đối này của tầng lớp trung lưu và người lao động đã diễn ra cùng với một số tệ nạn xã hội, chẳng hạn như mức gia tăng số gia đình tan vỡ, nạn nghiện thuốc kích thích mà riêng trong năm 2015 đã cướp đi sinh mạng của hơn 60.000 người. Cũng trong thời gian này, những lợi lộc của toàn cầu hóa lại tập trung chủ yếu vào giới tinh hoa được học hành bài bản và nhạy bén, những người có chiều hướng đặt ra những khuynh hướng văn hóa rộng rãi hơn.
Nguồn gốc thứ hai của chủ nghĩa dân túy là chính trị. Lời than phiền truyền thống chống lại chế độ dân chủ tự do, vốn có vô số cơ chế kiểm tra và cân bằng, là chế độ này có khuynh hướng sản sinh ra các chính phủ yếu kém. Khi những hệ thống chính trị như vậy kết hợp với khối cử tri bị phân cực, hoặc bị chia rẽ nghiêm trọng, thì kết quả thường là sự tê liệt chính trị khiến cho công cuộc quản trị bình thường cũng trở nên rất khó khăn. Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của chính phủ đảng Quốc đại trước đây là một ví dụ tiêu biểu cho tình trạng này, các dự án xây dựng hạ tầng và các cuộc cải cách kinh tế cần thiết đều nằm ngoài khả năng thực hiện của chính phủ. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra tại Nhật Bản và Ý, nơi chính phủ thường đối mặt với tình trạng tắc nghẽn trong bối cảnh kinh tế trì trệ kéo dài. Một trong những trường hợp nổi bật nhất là Hoa Kỳ, nơi một hệ thống rộng lớn các thiết chế kiểm tra và cân bằng được hiến pháp ủy quyền đã sản sinh ra cái mà tôi có lần đặt tên là “chế độ phủ quyết” (vetocracy): nghĩa là một nhóm nhỏ có khả năng phủ quyết hành động của một đa số lớn hơn. Chính điều này đã gây ra cuộc khủng hoảng mỗi năm một lần ở quốc hội Mỹ khi thông qua ngân sách quốc gia – một việc không thể nào hoàn tất được dưới cái gọi là “trật tự quy củ” trong ít nhất một thế hệ, và đã ngăn cản những cuộc cải cách nhạy cảm trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nhập cư và quản lý hệ thống tài chính.
Sự yếu kém cảm nhận được về khả năng của các chính phủ dân chủ trong việc đưa ra quyết định và hoàn thành công việc là một trong nhiều yếu tố đã tạo bệ phóng cho sự trỗi dậy của những người có khả năng trở thành “người hùng” (strong men), người có thể phá hủy luồng chướng khí bao trùm nền chính trị bình thường để đi tới kết quả. Đây là một trong những lý do mà Ấn Độ bầu ông Narendra Modi, và tại sao ông Shinzo Abe lại trở thành một trong các thủ tướng Nhật Bản cầm quyền lâu nhất. Sự trỗi dậy của ông Vladimir Putin như một người hùng xảy ra trong bối cảnh những năm tháng loạn lạc dưới thời ông Boris Yeltsin. Và cuối cùng, một trong những luận điểm vận động của ông Donald Trump là, với tư cách một doanh nhân thành đạt, ông ta sẽ có thể làm cho chính phủ Mỹ trở lại hoạt động đúng chức năng.
Hơn thế nữa, có những thất bại chính trị nghiêm trọng mà giới tinh hoa ở Mỹ và châu Âu đã phạm phải. Trong thập niên 2000, Hoa Kỳ đã can dự vào hai cuộc chiến tranh không thành công ở Trung Đông, rồi lại trải qua một cuộc suy thoái tệ hại nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930. Cả hai sự kiện này đều có gốc rễ từ những quyết định của giới tinh hoa nhưng mang lại hậu quả thảm khốc cho mọi công dân bình thường. Liên minh châu Âu đã tạo ra một liên minh tiền tệ chung quanh đồng euro mà không có phương cách tương ứng để thống nhất chính sách tài khóa, dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp. Và châu Âu lập ra khu vực Schengen và hàng loạt những luật lệ khác để tự do hóa việc di chuyển của người dân bên trong châu Âu mà không thiết lập ra một cơ chế tin cậy được để kiểm soát các đường biên giới giữa châu Âu với bên ngoài. Nhìn từ quan điểm kinh tế và đạo đức, đây là những chính sách đáng hoan nghênh, nhưng khi thiếu vắng một cơ chế kiểm soát như vậy, tự do đi lại trong nội bộ châu Âu lại trở thành vấn đề. Và điều này đã dẫn tới cuộc khủng hoảng về tính chính danh sau khi xảy ra những làn sóng nhập cư đông đảo, bị kích hoạt bởi cuộc nội chiến ở Syria năm 2014.
Động lực cuối cùng của chủ nghĩa dân tộc dân túy là văn hóa và có liên quan với vấn đề bản sắc. Nhiều năm về trước, Samuel Huntington đã chỉ ra rằng giai cấp nguy hiểm nhất về kinh tế chính trị không phải là người nghèo và người thất cơ lỡ vận đứng bên ngoài tiến trình phát triển xã hội – những người thường thiếu thời gian và nguồn lực để huy động, mà thay vào đó là tầng lớp trung lưu – những người cảm thấy họ bị sa sút về kinh tế và không được hệ thống chính trị nhìn nhận một cách tương xứng. Những con người như vậy có thể tạo ra các yêu cầu kinh tế, nhưng họ cũng có xu hướng diễn dịch sự mất mát vị thế của mình cả về phương diện văn hóa: họ đã từng là các tập thể xác định nên bản sắc dân tộc, nhưng giờ đây họ bị thay thế bởi những kẻ mới đến, lại là những người được hưởng lợi thế không công bằng so với họ. Thế rồi họ bị thôi thúc bởi quan điểm chính trị căm ghét giới tinh hoa được hưởng nhiều lợi lộc từ hệ thống, và họ có xu hướng đưa người nhập cư thành vật tế thần và coi người ngoại quốc như là những tác nhân gây ra tình trạng thất thế của họ.
Ở khía cạnh này, động cơ kinh tế trùng lắp một cách căn bản với mối quan tâm về văn hóa và về nhiều phương diện không thể tách bạch hai thứ đó với nhau. Nó cũng giúp phân biệt chủ nghĩa dân túy Bắc Âu hoặc Hoa Kỳ với chủ nghĩa dân túy ở Nam Âu và châu Mỹ Latin. Nền tảng xã hội của các cử tri bỏ phiếu cho Brexit, Trump và bà Le Pen nằm ở sự suy thoái của tầng lớp trung lưu và nhân dân lao động, trong khi phong trào Podemos ở Tây Ban Nha, Syriza ở Hy Lạp, Chavez ở Venezuela hoặc Kirchners ở Argentina là những đảng chính trị cánh tả truyền thống hơn, vốn là đại diện cho người nghèo trong xã hội.
Đây cũng chính là cái đã làm cho vấn đề nhập cư trở nên quan trọng, thôi thúc chủ nghĩa dân tộc dân túy ở các nước bắc và đông châu Âu và cả ở Hoa Kỳ. Trong thực tế, tỷ lệ người di dân và tị nạn đã lên rất cao ở châu Âu và Hoa Kỳ; các mối lo ngại về sự thay đổi văn hóa nhanh chóng đã thôi thúc nhiều cử tri ủng hộ các đảng dân túy, các nhà lãnh đạo dân túy cho dù người dân có phải gánh chịu mối đe dọa kinh tế trực tiếp. Xu hướng này được phản ánh trong mục tiêu thường được các đảng dân túy tuyên bố công khai: “giành lại đất nước mình”. Ở nhiều phương diện, các câu hỏi về bản sắc – như ngôn ngữ, sắc tộc, tôn giáo và truyền thống lịch sử – đã xuất hiện để thay thế các giai cấp kinh tế như là những đặc điểm xác định quan điểm chính trị hiện thời. Điều này có thể giải thích sự suy tàn của các đảng chính trị trung tả và trung hữu truyền thống ở châu Âu – các đảng đang dần dần thất thế trước các đảng và phong trào mới thành lập dựa trên các vấn đề về bản sắc.
Đây là phần thứ hai của bài về chủ nghĩa dân túy. Phần đầu ở đây. Phiên bản truyền hình trên internet (podcast) cũng có ở đây.
Nguồn: Viet-studies
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét