Đặng Văn Sinh
Cuộc chiến tranh biên
giới phía Bắc (1979 - 1989) kéo dài 10 năm, trọng tâm là Mặt trận Vị Xuyên, Hà
Giang; Cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương vùng tây bắc của Tổ quốc đã khiến
5000 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, (con số được báo chí công bố gần đây), đã có
thời điểm bị lãng quên. Chính sử chỉ ghi được vài dòng, còn các nhà lãnh đạo
quốc gia, lấy lý do “vì đại cục” luôn tìm cách né tránh để duy trì “tình hữu
nghị” qua phương châm “mười sáu chữ vàng”.
Nơi biên ải tận cùng
Tổ Quốc, những chiến sĩ trận vong, thân xác nát tan bởi đạn pháo cày xéo, hồn
phách vất vưởng giữa ngàn lau hay vách đá cheo leo, đó là nơi mà một thời tại
những nơi từng được lính mệnh danh là: “lò vôi thế kỷ”, “ đồi thịt
băm”, “suối oan hồn”, “cửa tử”…
Cảnh tượng của trận
chiến thư hùng giữa “hai quốc gia”
một thời từng coi nhau là “anh em cùng
chung ý thức hệ” vào nửa cuối thế kỷ XX; cuộc chiến đó xem ra còn khủng
khiếp hơn nhiều những gì mà Đặng Trần Côn đã viết trong “Chinh phụ ngâm khúc”:
“Non Kỳ quạnh quẽ
trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu
hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù
thổi
Mặt
chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh
phu tử sĩ mấy người
Nào
ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?”*
Có thể nói,
những năm tám mươi của thế kỷ trước, vì sự phong tỏa thông tin có chủ ý ở vào
thời kỳ chưa có internet, chẳng những thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường,
mà ngay cả tầng lớp cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước hầu như cũng rất mù
mờ về cuộc chiến này. Trí nhớ con người có hạn; thời gian đã lùi về dĩ vãng đến
ba bốn mươi năm ; Bởi những gian truân vất vả của cuộc mưu sinh, các nhân
chứng tham gia chống giặc bành trướng dần dần về với tổ tiên để lại một khoảng
trống lịch sử. Rất có thể, rồi đây, cuộc chiến tranh bi tráng đầy máu và nước
mắt của một thời bị xóa nhòa trong ký ức dân tộc.
Hình như,
có một thế lực nào đó luôn tìm cách để các thế hệ người Việt lãng quên sự kiện
17/2/1979 và cuộc chiến những năm sau đó tại chiến trường Vị Xuyên. Vì thế,
suốt ba mươi năm, các phương tiện truyền thông vốn rất hùng hậu đều im lặng,
hoặc có đưa tin thì rất dè dặt, thậm chí không dám gọi thẳng tên kẻ thù đã gieo
rắc đau thương cho đồng bào ta cả một dải biên giới phía Bắc.
Một chuyên
gia nước ngoài chuyên bình luận về các sự kiện chính trị, gọi đó là “Cuộc
chiến tranh bị lãng quên” quả không sai. Tuy nhiên, có thể, những ai đó cố
tình lãng quên, thế nhưng thân nhân của những chiến sĩ đã bỏ mình nơi địa đầu
Tổ Quốc không bao giờ quên, bởi nó là niềm tự hào dân tộc đồng thời cũng là nỗi
đau thường trực trong tâm khảm những người còn sống. Phạm Viết Đào là một trong
số đó.
Là anh ruột
của liệt sĩ Phạm Viết Tạo (trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn 876,
sư đoàn 356) hy sinh trên cao điểm 772 ngày 12 tháng 7 năm 1984 trong chiến
dịch MB 84, nhà văn Phạm Viết Đào đã hàng chục lần, trong nhiều năm lên chiến
trường Vị Xuyên tìm hài cốt em trai mình. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc
tìm liệt sĩ, Phạm Viết Đào còn có kế hoạch lớn hơn. Ông muốn tái hiện một cách
tổng quát toàn cảnh chiến trường Vị Xuyên, nhất là vào giai đoạn 1983 - 1985,
nơi có những trận đấu pháo lịch sử với hàng chục vạn quả chỉ trong mấy tiếng
đồng hồ. Vào những thời khắc bộ binh hai bên giao tranh khốc liệt trên những
điểm cao: phía ta bị xóa sổ cả hàng tiểu đoàn; phía Trung Quốc bị xóa hàng
trung đoàn, sư đoàn…(Theo thông tin từ CCB F 313 Trần Ca, một lần anh được
Q. Sư trưởng F 313 Đại tá Bùi Như Lạc cho biết: Riêng Sư đoàn 313, mệnh danh là
Sư đoàn Tây Côn Lĩnh đã tiêu diệt 5000 lính Trung Quốc-Chú thích của Phạm Viết
Đào)…
Những hệ
lụy của nó đối với đất nước Việt Nam thời hậu chiến mà các cuốn quân sử chưa
từng đề cập tới về phía Việt Nam; Còn phía Trung Quốc các chính khách, tướng
lĩnh hàng đầu đã đặt chân tới Lão Sơn- là cách gọi của Trung Quốc về chiến
trường Vị Xuyên…
(Chính
khách, tướng lĩnh phía Trung Quốc đặt chân, hoặc trực tiếp tham
chiến tại chiến trường Lão Sơn như: TBT Hồ Diệu Bang, nguyên soái Diệp Kiếm
Anh, Từ Hướng Tiền, Đại tướng Túc Dụ và con trai Tướng Túc Nhung Sinh, Đại
tướng Dương Đắc Chí, Hứa Thế Hữu, Thượng tướng Lương Quang Liệt, Lưu Á Châu và
hàng chục tướng lĩnh và trên 50 vạn binh sĩ Trung Quốc can dự vào sự kiện Lão
Sơn…
Trung
Quốc đã làm phim, lập bảo tàng, viết sách rất nhiều về Lão Sơn. Nhà
văn-Thượng tướng Trung Quốc Lưu Á Châu, con rể Chủ tịch TQ Lý Tiên Niệm, nhà
văn Mạc Ngôn, Noobel văn học của Trung Quốc; nữ ca sĩ nổi tiếng, tướng Bành Lệ
Viên, hiện là vợ Tập Cận Bình đều đã can dự vào chiến cuộc Lão Sơn…
Theo
báo chí Trung Quốc, đã có khoảng trên dưới 70 chiến tướng Trung Quốc đã giáp
chiến chiến trường Lão Sơn-Vị Xuyên. Họ đã tham gia vạch kế hoạc tấn công,
phòng ngự; Họ đã viết sách, tiểu thuyết hoặc đem lời ca tiếng hát tới khích lệ
binh lính Trung Quốc tại chiến trường này…
Điều
khôi hài là: Trong khi đề tài Vị Xuyên bị coi là cấm kỵ với giới cầm bút Việt
Nam thì một nhà xuất bản của Việt Nam lại cho xuất bản cuốn tiểu thuyết
« Ma chiến hữu » của Mạc Ngôn, cuốn tiểu thuyết viết về lính Trung
Quốc đánh nhau tại Lão Sơn; Một tờ báo của Hội Nhà văn VN đã dịch giới thiệu
nhiều kỳ về cuốn tiểu thuyết của Tướng Lưu Á Châu, ca ngợi tận mây xanh, lãng
mạn hóa cuộc chiến đấu, hy sinh của binh sĩ Trung Quốc đánh ở Lão Sơn… Chú
thích của Phạm Viết Đào…)
Để viết
được " VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG" dày 900 trang, Phạm Viết Đào
đã bỏ thời gian và công sức sưu tầm tư liệu chiến tranh biên giới phía Bắc qua
nhiều nguồn thông tin, nhiều nhân chứng. Ông đã tìm đến từ những binh nhì mới
nhập ngũ làm nhiệm vụ giữ chốt trên các điểm cao Vị Xuyên, hay lính vận tải vũ
khí, lương thực, thực phẩm và thương binh tử sĩ, đến những sĩ quan chỉ huy
trung đoàn, sư đoàn, thậm chỉ có cả các vị tướng chỉ huy mặt trận.
Họ là những
người lính tham gia chiến dịch MB 84, thoát chết trong gang tấc, thậm chí còn
để lại một phần cơ thể tại chiến trường, trở về với đời thường; Họ luôn ám ảnh
về những cái chết tức tưởi của đồng đội, nhưng không phải ai cũng có dũng khí
nói ra sự thật. Nỗi sợ hãi cố hữu đã làm cựu chiến binh, kể các các vị tướng,
sau khi được phỏng vấn chỉ trả lời chung chung, luôn né tránh phần cốt yếu với
lý do lâu ngày đã quên...
Bằng phương
pháp loại trừ và tích hợp, Phạm Viết Đào đã xâu chuỗi các sự kiện, bóc tách
từng lớp tư liệu qua việc thâm nhập, móc nối với các tổ chức cựu chiến binh,
phỏng vấn kết hợp với điều tra những chi tiết tồn nghi, cuối cùng, nhà văn đã
viết loạt bài về « Mặt trận Vị Xuyên » đăng tải dần trên trang blog
của mình. Những bài phóng sự điều tra hay bình luận của nhà văn xứ Nghệ đã gây
tiếng vang lớn, làm thức dậy những ký ức đang bị mai một của thế hệ cựu chiến
binh chống Tàu làm cho cộng động xã hội, lần đầu tiên thấy được những góc khuất
của cuộc chiến mà người ta cố tình muốn giấu đi. Có những video clip được đăng
nhiều kỳ phỏng vấn những sĩ quan cao cấp của quân đội như Tướng Lê Duy
Mật-nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 2, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Tuyên, đại tá
Quách Hải Lượng, trưởng phòng tác chiến Quân chủng Phòng không, đại tá Phạm Phú
Bằng, Phạm Xuân Phương, Đại tá Bùi Như Lạc…đã làm người xem sửng sốt bởi sự hài
hước của ngành Tuyên giáo.
Có những
thông tin về mệnh lệnh rút quân khó hiểu của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khỏi các
cao điểm Vị Xuyên, khi quân ta đang chốt giữ; Phạm Viết Đào đã thu thập nhiều
nguồn tin để đi đến dự đoán: Chiến dịch mang mật danh MB 84 thất bại là bởi
tình báo Hoa Nam đã cài người vào Bộ Quốc phòng, nắm được toàn bộ kế hoạch tác
chiến của chiến dịch này .v.v.
Có lẽ
nguyên nhân nhà văn Phạm Viết Đào bị bắt và lĩnh án tù 15 tháng bắt đầu từ
tháng 6 năm 2013 là ở loạt bài đăng trên blog của ông. Có thể bỏ tù Phạm Viết
Đào đương nhiên là để răn đe những ai muốn đơn phương lật lại hồ sơ chiến tranh
biên giới phía Bắc 1979 - 1989. Chẳng thế mà, cho đến nay, sau bốn mươi năm,
vẫn còn ba ngàn hài cốt liệt sĩ chưa được quy tập về nghĩa trang. Đáng trách
hơn, có nơi người ta còn cố tình đục bỏ những tấm bia kỷ niệm, xóa
nhòa những chứng cứ tội ác dã man của quân đội Trung Quốc trên lãnh thổ Việt
Nam.
Ngay chiến
dịch MB 84 mở ngày 12/7/1984, con số bộ đội hy sinh trong một ngày đêm của
chiến dịch đã được báo chí công bố xung quanh con số 1100 cán bộ, chiến sĩ; Thế
nhưng, khi tác giả Phạm Viết Đào đã vào Nghĩa trang Vị Xuyên để kiếm đếm thì
chỉ thấy có khoảng 100 tấm bia mộ ghi tên những liệt sĩ chưa tìm thấy tên hy
sinh trận 12/7/1984; Hiện Nghĩa trang Vị Xuyên đã quy tập được gần 2000 liệt
sĩ.
Cũng tác
giả Phạm Viết Đào trong một bài điều tra: vào tháng 3/1985 anh lên Hà Giang và
được nhân dân và các nhân chứng tham gia khâm liệm, chôn cất liệt sĩ cho biết:
suốt 5-6 đêm bà con nghe tiếng ô tô chở thi hài liệt sĩ chạy suốt đêm qua thị
xã Hà Giang? Như vậy con số 100 liệt sĩ này có chính xác không? Có ai có ý dấu
bớt sự thật lịch sử đau thương tại Mặt trận và Chiến dịch MB 84 này không?
Đây là một
sự thật lịch sử liên quan tới tội ác của giặc Tàu xâm lược. Và mảnh đất Vị
Xuyên Hà Giang xứng đáng được vinh danh vào kho tàng lịch sử dân tộc một chiến
địa anh hùng như: Bạch Đằng, chiến tuyến Sông Như Nguyệt, Hàm Tử quan, như Chi
Lăng, Đống Đa, Ngọc Hồi, Điện Biên Phủ…
Và cũng
thật nực cười, trong khi cuộc sống của đồng bào các dân tộc Vị Xuyên còn muôn
vàn khó khăn, nơi an nghỉ của các liệt sĩ còn khiêm nhường, thì một ông Phó Ban
Đối ngoại trung ương lại tham gia mang 200.000 USD (trong số 500.000) dự định
mang sang biên kia biên giới, giáp giới Vị Xuyên “tặng” dân Mã Lật Pha để ...
xóa đói giảm nghèo dịp 27/7/2018 (!?). Ma Lật Pha là căn cứ hậu cần nơi Trung
Quốc tập trung 50-60 vạn quân để đánh Vị Xuyên từ 1979-1990…
Đó chính là
những nguyên nhân thôi thúc Phạm Viết Đào biên soạn cuốn sách “Vị Xuyên & Thế
sự Việt Trung”. Xét đến cùng, đổi 15 tháng “nhập kho” để lấy cuốn sách xem ra
là « khoản đầu tư » vẫn còn quá rẻ, « có lãi » với Phạm Viết
Đào ?! Bởi lẽ, “Vị Xuyên & Thế sự Việt Trung” là « tập đại
thành » của cuộc chiến biên giới dai dẳng 10 năm trên biên giới phía Bắc
được nhìn nhận từ nhiều phía, nhiều quan điểm chính trị khác nhau, kể cả cách
nhận xét đánh giá từ các nhà bình luận, các tướng lĩnh Trung Quốc.
Theo chúng
tôi, cách làm này là khách quan, công bằng. Và cũng chính bởi có tâm thế khách
quan, công bằng, mới có khả năng tìm ra sự thật đặng tiếp cận chân lý. Việc làm
của Phạm Viết Đào, đúng ra phải cần đến nhân sự của cả một Viện nghiên cứu Lịch
sử chiến tranh với những giáo sư, tiến sĩ có thực tài, thực học và trách nhiệm
công dân cao. Những chuyên gia này (nếu có) phải có đầu óc phân tích, tổng hợp
xuất sắc, phải có tinh thần phản biện sâu sắc, đồng thời lại phải như một bộ
lọc công nghệ cao để loại bỏ những dữ liệu giả dối, chỉ giữ lại những gì là
thực chất...
Thật ra,
trong thời điểm nóng bỏng của những cuộc giao tranh, kể cả những vị tướng, chỉ
có thể nắm được phần tổng quát diễn ra trong phạm vi đơn vị mình. Đó là chưa
nói đến các đơn vị tác chiến cấp trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Thậm chí ngay
cả vị tư lệnh chỉ huy chiến dịch cũng ngồi trong hầm điều phối bằng bộ đàm hay
đường dây hữu tuyến, hoàn toàn không thể nắm được diễn biến phát sinh trong
những hoàn cảnh cụ thể của từng trận đánh. Vậy mà, cuộc chiến đã có độ lùi ba
bốn mươi năm, cho dù có trí nhớ của thiên tài cũng không thể tái hiện lại đúng
với diện mạo của nó. Một nhà báo đã khuyên Phạm Viết Đào: Muốn tìm kiếm sự thật
liên quan tới cuộc chiến Vị Xuyên, tác giả chỉ còn cách tìm đến những người
lính bình thường và những ông Tướng đang sắp mất...thì may ra?!
Sự nan giải
này đã được tác giả giải quyết bằng bài toán huy động ký ức tập thể cựu chiến
binh. Đây là phương pháp duy nhất đúng nhưng cũng thập phần khó khăn. Và cũng
chính những bài viết về một thời máu lửa của các cựu chiến binh, những lời kể
đứt nối của nhiều nhân chứng sắp sang thế giới bên kia, đã góp phần làm nên sự
thành công của cuốn sách.
“Vị Xuyên
& Thế sự Việt Trung” là một bản thảo đồ sộ, dày 900 trang, khổ 16 x 24,5 cm
do tác giả tự in bằng photo. Điều này dễ hiểu. Nếu nhà văn đã từng ngồi bóc
lịch trong khám tù một năm 3 tháng, không tự in và tặng bạn bè, người thân,
chắc chắn không một nhà xuất bản “quốc doanh” nào có đủ dũng khí cấp giấy phép.
Bởi lẽ, cuốn sách có nhiều tư liệu quý, nhưng mặt khác nó cũng chứa đựng không
ít nguồn thông tin “nhạy cảm”, những góc khuất bí mật an ninh quốc phòng, những
bí mật nội bộ lần đầu tiên được bạch hóa, làm cho những nhóm lợi ích liên quan
không thể ngồi yên.
Những sự
việc khuất tất ngỡ như đã bị đào sâu chôn chặt cùng hàng ngàn linh hồn liệt sĩ
nơi chiến địa, giờ bỗng nhiên có một gã “cha
căng chú kiết” như Phạm Viết Đào đòi lật lại lịch sử, truy vấn những đối
tượng đã bán cái xương máu dân tộc trong canh bạc chiến tranh, đương nhiên lắm
kẻ hằn học...
“Vị Xuyên
& Thế sự Việt Trung” là cuốn sách do Phạm Viết Đào biên khảo gồm ba thể
loại: bút ký, tiểu luận và điều tra. Về nội dung, được chia làm bốn phần:
Phần
một: “Vị Xuyên khúc ca bi tráng (từ trang 4 đến trang 250)
Phần hai:
Tư liệu - Phóng sự - Điều tra (từ trang 251 đến trang 562)
Phần
ba: Thế sự Việt - Trung (từ trang 563
đến trang 804)
Phần
bốn: Tự do và nhà báo (từ trang 805 đến trang 840)
( Đây
là thông tin trong bản thảo in của Phạm Viết Đào mà tác giả Thái Văn được đọc;
Còn hiện nay theo nhà văn Phạm Viết Đào, bản thảo mới của ông đã lên 900 trang
và chắc chắn chưa phải là trang cuối cùng…)
Trừ phần
bốn là những thông tin liên quan đến Phạm Viết Đào, thông tin về thời gian ông
bị tạm giam do bị buộc tội « vi phạm điều 258, đã lợi dụng các quyền tự
do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân”; ba phần đầu là những bài viết của nhiều tác giả, được
trích dẫn từ nhiều kênh thông tin từ những cựu chiến binh trực tiếp tham gia
trận đánh khốc liệt trên các điểm cao Vị Xuyên, đến những bình luận của những
học giả nổi tiếng trong và ngoài nước. Đây là cách làm có phương pháp luận khoa
học, dựa trên cơ sở nguồn thông tin đa chiều, mục đích nhằm cung cấp cho độc
giả cái nhìn toàn diện về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
Phần một và
phần hai tuy nhan đề khác nhau nhưng nội hàm lại có nhiều nét tương đồng. Đó
là: xen kẽ với những bài phóng sự, bút ký do các nhân chứng lịch sử còn sống
sau cuộc chiến ghi lại, là loạt bài điều tra, bình luận của tác giả hoặc các
chuyên gia, học giả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng cung cấp cho
người đọc những tư liệu về quân đội và các tướng lĩnh Trung Quốc tham gia cuộc
chiến tranh biên giới của 8 trên 10 đại quân khu. Từ đó người đọc thấy được:
bản chất diều hâu, dã man, tàn bạo của nhà cầm quyền Trung Quốc và quân đội
Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam ; cho dù lúc nào họ cũng dùng thứ
“kim khẩu” “mười sáu chữ vàng” làm phương châm hành xử.
Tổng số bài
viết trong “Vị Xuyên & Thế sự Việt Trung” là 117, riêng tác giả có 49 bài,
bao gồm cả bút ký, phóng sự điều tra, trả lời phỏng vấn Đài BBC, RFA, RFI… và
bình luận, trong đó phần bình luận hầu hết là phân tích, đánh giá về tình hình
chính trị, ngoại giao, quân sự hai nước Việt Trung từ chiến tranh biên giới
1979 đến nay. Những bài bình luận ấy vừa sắc sảo vừa có bằng chứng thuyết phục,
với nhãn quan chính trị nhạy bén, cách tư duy khoa học và sự phản biện đầy
trách nhiệm công dân.
Ở phần thứ
nhất “Vị Xuyên khúc ca bi tráng”, mở đầu là các bài viết “Vị
trí chiến lược của Hà Giang” của nhà nghiên
cứu Hồ Bạch Thảo, bài “Sự thật về Đặng Tiểu Bình đưa quân đánh Việt
Nam” học giả Trung Quốc Trần Phá Không và “Các
mê lộ ‘bát trận đồ’ tấn công Việt Nam của Trung Quốc” của Tô Văn
Trường như một cái sườn cơ bản để dẫn dắt người đọc vào nội dung chính qua 32
hồi ức dưới dạng ghi chép, bút ký, phóng sự và 4 bài bình luận, phỏng vấn.
Những tác
giả tham gia viết hồi ức chiến tranh biên giới tại mặt trận Vị Xuyên khá đông
đảo, thành phần rất phong phú, từ người lính có thâm niên giữ chốt bốn năm năm
đến các tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng, thậm chí cả những
vị tướng trong ban chỉ huy chiến dịch MB84. Trong số đó, có thể kể đến Trần Nam
Thái, Vũ Bình Long, Trịnh Kiên Hạnh, Phạm Ngọc Quyền, Đặng Việt Châu, Nguyễn
Đức Lưỡng, Vi Hảo, Tô Thị Nhiêu, Nguyễn Lan, Nguyễn Minh Sơn, Vũ Tấn Long,
Nguyễn Đẹp, Dũng Hà, Lê Thành Công, Trần Duy Vỹ và Nguyễn Thành Lập, Nghiêm
Xuân Hàm… Người viết nhiều bài nhất là cựu chiến binh Trần Nam Thái, nguyên
lính đại đội vận tải 25, E14, F313.
Trong số 32
bài ký ở phần này, có không ít bài gây ấn tượng mạnh về sự dữ dội của chiến
tranh. Cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở Vị Xuyên còn khủng khiếp hơn cả
cuốn “Le Feu” (Lửa) của Henry Barbusse viết về cuộc Chiến tranh
thế giới thứ nhất, đến nỗi một nữ phóng viên đã phải thốt lên: “Đọc
‘Le Feu’ của ông xong, tôi có cảm giác như vừa ở dưới chiến hào chui lên”.
Bởi lẽ, Chiến trường Vị Xuyên còn khốc liệt gấp nhiều lần “Le Feu”. Chưa cần
đọc, chúng ta chỉ mới nhìn cái tựa đề đã thấy nổi da gà. Đó là, « Thằng giặc Trung Quốc tao căm thù
mày » của Nghiêm Xuân Hàm ; Đó là “Trận 12 tháng 7, chúng tôi đã
đổ nhiều máu để giữ đất Vị Xuyên” và “Những trận đánh chí tử trên
cao điểm 685 - Lò vôi thế kỷ - ba ngày trước tết Ất Sửu” (Phạm
Ngọc Quyền, C6, D2, E876, F356); “Thung lũng của những linh hồn và những đêm
không ngủ”, dài 25 trang như một phóng sự chiến trường, chính xác
đến từng phút từ ngày 8 đến 28 tháng 7 năm 1984 của Đặng Việt Châu, nguyên
chính trị viên D3, E876, F356; “Không tiếng kêu, tiếng khóc sau trận 12
tháng 7 năm 1984” và “Lính Vị Xuyên chia nhau từng cọng rau muống
già” (Trần Nam Thái, lính vận tải 25, E14, F313); “Em tôi, Phạm Viết Tạo
hy sinh trong trận 12 tháng 7 năm 1984 qua hồi ức đồng đội” (Nguyễn
Đức Lưỡng và Đặng Việt Châu kể); “Tôi đã không tìm lại được xác đồng đội sau
trận 12 tháng 7 (Nguyễn Minh Sơn, D3, E876, F356); “Sống
dưới mưa đạn pháo quân thù” (Vũ Tấn Long); “Bóng linh hồn tử sĩ đêm đêm
vật vờ trên chốt” (Nguyễn Đẹp); “Ghi chép về những ‘cửa tử’ trước hang Làng
Lò” (Trần Duy Vỹ, D1, E876, F356); “Hang Nà Cáy, trạm phẫu tiền
phương, dấu tích xương máu lính Vị Xuyên” (Phạm Viết Đào) và “Nhiều
bộ đội hy sinh do sạt núi, sập hầm tại Vị Xuyên” (Nguyễn Thành Lập) ;
« Tìm lại Trung đoàn 567 »
của Nguyễn Thái Long...
Đọc hồi ức
của những tráng sĩ Vị Xuyên, chúng ta mới ngộ ra: sức chịu đựng của con người
quả thật là không có giới hạn một khi bị đẩy đến bước đường cùng. Không một ai
trong lớp trẻ ngày nay có thể hình dung: bộ đội giữ chốt trên sườn núi đá Vị
Xuyên ba tháng, thậm chí sáu tháng mới thay phiên một lần. Muốn có nước phải
xuống dốc hàng trăm mét cõng lên dưới làn mưa pháo và hỏa lực từ các điểm cao
quân Trung Quốc chiếm đóng. Mùa hè, chiến sĩ buộc phải ăn cơm thiu với mắm kem,
và may lắm, vài tuần mới được vài cọng rau muốn già. Trong hoàn cảnh nằm hầm đá
lâu ngày, khí lạnh ngấm vào thân thể, nhiều chiến sĩ bị teo cơ...
Có vô vàn
cái chết thương tâm với những chàng trai trẻ mười tám đôi mươi trong các trận
đấu pháo hay bộ binh xáp lá cà. Kinh khủng nhất là trận 12 / 7/1984, khi đối
phương tràn ngập các điểm cao, cả thương binh lẫn tù binh đều bị quân Trung
Quốc xả súng bắn chết rồi tưới xăng đốt...
Phần
thứ hai của cuốn sách gồm 40 bài với tựa đề “Tư liệu –
Phóng sự - Điều tra”. Nhìn một cách tổng quát, về bố cục có những nét tương ứng
với phần một, nhưng về nội dung lại có nhiều thông tin quan trọng được tác giả
tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Những tư liệu này là kết quả của quá trình
điều tra lâu dài, bền bỉ qua nhiều phương pháp tiếp cận, không loại trừ cả sự
mạo hiểm để tìm ra sự thật. Nếu tính theo số lượng thì phần này có 19 bài tư
liệu, 8 hồi ức, còn lại là các bài điều tra dưới hình thức ghi chép, phỏng vấn
các cựu chiến binh.
Mở đầu phần
thứ hai là “Bị vong lục Bộ Ngoại giao CHXHCNVN” công bố trên báo Quân
đội nhân dân ngày 15 tháng 2 năm 1979 như là tiền đề cho các bài viết tiếp
theo. Bị vong lục có thể xem là bản cáo trạng của Nhà nước và Nhân dân Việt Nam
đối với tập đoàn lãnh đạo Trung Nam Hải. Qua “Bị vong lục”, chẳng những nhân
dân Việt Nam mà cả cộng đồng thế giới đều hiểu sự nguy hiểm của Chủ nghĩa bành
trướng Đại Hán do đích thân Mao Trạch Đông khởi xướng và chỉ đạo kể cả sau khi
ông ta chết. Đường Lưỡi bò trên Biển Đông và Con đường tơ lụa của Tập Cận Bình
trong ảo tưởng “Giấc mộng Trung Hoa”
ngày nay, cũng chính là tư tưởng Mao Trạch Đông biến tướng. Vì thế, cái gọi là
“Mười sáu chữ vàng” hay “Bốn tốt” do Đảng Cộng sản Trung Quốc ban
cho Việt Nam thực ra cũng chỉ là thứ khẩu hiệu bịp bợm. Và đây là phần mở đầu:
“Từ năm 1957 đến năm 1977, bằng nhiều thủ đoạn xấu xa, họ đã chiếm lãnh thổ
Việt Nam ở hơn 50 điểm trên toàn tuyến biên giới gồm 6 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên và Lai Châu. Đó là chưa kể những vùng
đất mà từ trước 1957 họ đã quản lý vượt quá đường biên giới lịch sử”. Một đoạn
khác, “Bị vong lục” viết: “Cũng trong thời gian từ năm 1975 đến năm 1977,
tàu thuyền Trung Quốc đã xâm phạm vùng biển Việt Nam trên 1500 lần chiếc, có vụ
vào sâu chỉ cách các đảo của Việt Nam từ 2-5 km. Sự kiện nghiêm trọng là ngày
20 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã dùng quân đội đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam. Họ còn đưa ra những đòi hỏi vô lý về những hòn đảo khác của Việt
Nam ở biển Đông”.
Có thể nói,
tư liệu ở phần thứ hai rất đậm dặc, hàm lượng thông tin cao, qua cách điều tra
có phương pháp được nâng lên hàng nghệ thuật của một nhà báo giầu kinh nghiệm
và bản lĩnh. Trong số 17 bài trên tổng số 40, ngoài tư cách điều tra, phỏng
vấn, Phạm Viết Đào còn có những bài bình luận xoáy sâu vào những điểm nhạy cảm,
những vết mờ nhòe của cuộc chiến biên giới. Từ đó, bằng những dẫn chứng thuyết
phục và luận cứ đanh thép, tác gia bác bỏ những thứ “ngụy sử”, những lời “chạy
tội” của những yếu nhân từng là “phương diện quốc gia” một thời, đã hành động
như những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, bán rẻ lợi ích dân tộc để đổi lấy sự
vinh thân phì gia qua sự bảo kê của các thế lực ngoại bang.
Như trên đã
nói, những phóng sự điều tra của Phạm Viết Đào rất có sức thuyết phục qua những
nhân chứng lịch sử, những người đã tham gia cả ba cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc
như đại tá Phạm Xuân Phương từng nhận xét: “Vì một lý do nào
đó, chúng ta chưa dám mạnh dạn tôn vinh một cách xứng đáng những
chiến công và tổn thất của cuộc chiến tranh này. Kỷ niệm không kỷ niệm, tổng
kết cũng không tổng kết. Trung Quốc là một đối tượng tác chiến mới của chúng ta
qua cuộc chiến tranh này... Sách giáo khoa lịch sử có cuốn nào đề cập tới cuộc
chiến tranh này đâu? Con em chúng ta bây giờ nhiều em không biết...”, còn
đại tá Phạm Phú Bằng cho rằng “Trung Quốc không đánh mà thắng”. Và
đây là một kỷ niệm nhớ đời của ông trong cuộc chiến biên giới Tây Nam: “Ông
tận mắt chứng kiến trận một trung đoàn anh hùng của Pol Pot, vào năm 1978, dưới
sự chỉ huy của cố vấn Trung Quốc đã bao vây, dồn một sư đoàn quân ta, cũng là
một sư đoàn anh hùng, vào một chiếc cầu độc mộc để tiêu diệt... Trận đánh kéo
dài từ 10 giờ trưa hôm nay đến 10 giờ trưa hôm sau. Trong trận này, 800 bộ đội
ta đã ngã xuống tại chỗ, mặc dù quân ta có xe tăng, có pháo binh, có trực thăng
hỏa lực hơn hẳn quân Pol Pot...”. Ông còn nói, về chính trị thì chúng
ta đã rước về “mười sáu chữ vàng” là cả một điều nhục nhã, không ra cái
gì... Khi Việt Nam sắp có cuộc họp gì quan trọng, lập tức cán bộ cao cấp của họ
sang hết thăm dò, gợi ý, gây áp lực...”.
Trong khi
đó, đại tá Quách Hải Lượng, nguyên Trưởng phòng Tác chiến Quân chủng Phòng
không, từng là Tùy viên quân sự Sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh (1981-1986) thì
kể lại một câu chuyện khá là khôi hài về thói “kiêu ngạo cộng sản” của các quan
chức giám sát tư tưởng công dân qua bài “Tới 17 tháng 2 năm 1979, Tuyên giáo
nói ‘cho kẹo’ Trung Quốc cũng không dám đánh Việt Nam (!?). Vậy mà, trước đó ít
lâu, vào tháng 8 năm 1978, chính ông đã được nghe Tổng bí thư Lê Duẩn nói
chuyện tại Học viện Quốc phòng, rằng “Các đồng chí chuẩn bị đánh với 1,5 triệu
quân Trung Quốc chuẩn bị xâm lược ta”.
Đọc kỹ
những phóng sự điều tra của Phạm Viết Đào với các nhân chứng còn sống ở phần
thứ hai này mới thấy: cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã phơi bày những âm
mưu thâm hiểm của kẻ thù, sự khốc liệt của từng trận giao tranh và thái độ rất
khó hiểu của Bộ Quốc phòng Việt Nam giai đoạn đó. Đồng thời, cũng từ những bài
viết đầy trách nhiệm và tinh thần yêu nước này, người đọc hiểu thêm được những
thông tin về sự mất đất, mất biển, mất chủ quyền lãnh thổ từ mấy chục năm qua
nhưng luôn bị bưng bít với danh nghĩa “bí mật quốc gia”. Bài “Trung
Quốc lấn chiếm biên giới Vị Xuyên từ năm nào” là một
trong số đó.
Ví dụ, theo
CCB Tạ Văn Phòng, năm 1979 Trung Quốc đã đánh Hà Giang rồi. 4 giờ sáng ngày 17
tháng 2 năm 1979, Trung Quốc nổ súng ở khu vực cửa khẩu Thanh Thủy, Vị Xuyên.
Còn cao điểm 1800A, 1800B, 872 mất năm 1980; cao điểm 1509 tháng 4 năm 1984 mất
hẳn. Cũng trong bài ghi chép này, cựu chiến binh Nguyễn Văn Thanh cho biết:
trận đánh giữ cao điểm 1688, tiểu đoàn 8, sư 313, hai phần ba đơn vị đã hy
sinh.
Loạt ghi
chép và phóng sự điều tra có giá trị lịch sử của Phạm Viết Đào còn phải kể đến “Cao
điểm 1509 thất thủ, bùng nổ cuộc chiến Vị Xuyên”; “Bắt trung úy Uông Bân trong
trận 28 tháng 4 năm 1984 tai cao điểm 1509; “Thông tin từ Nhật Bản về các trận
đánh ở Lão Sơn”, do Hà Minh Thành, Việt kiều tại Nhật biên
dịch gửi cho tác giả, bao gồm “Mạng Trung Quốc viết về chiến dịch MB 84”;
“Thông tin của Hà Minh Thành từ Nhật về ngôi mộ tập thể bộ đội ta trên 1509”;
“Nguyên nhân 47 đặc công bị pháo ta sát thương trước cửa Hang Dơi 1984?”; “Đôi
lời khép lại cuộc thảo luận về vụ Hang Dơi”; “Sử dụng vũ khí Mỹ, hủy diệt quân
Trung Quốc tại chiến trường Vị Xuyên”; “Nguyên nhân thất trận chiến dịch M84”
(12 tháng 7 năm 1984); “Tìm 2000 bộ đội nghi mất tích trong các trận đánh luồn
sâu trên đất Trung Quốc”; “Vị trí chiến lược quân khu 2 - địa bàn phòng thủ
quốc gia?”; “Ba lần lui quân trước Trung Quốc, công hay tội của Bộ trưởng Quốc
phòng Lê Đức Anh?”; “Tướng Lê Duy Mật: Không lãng quên một cuộc chiến tranh”;
“Tướng Nguyễn Đức Huy: Đề nghị tặng các danh hiệu Nhà nước cao quý cho cựu
chiến binh Vị Xuyên”; và cuối cùng là “Bản kiến nghị 5 điểm về một
cuộc chiến tranh có nguy cơ bị bỏ quên” do tướng Lê Duy Mật, 3
đại tá và nhà văn Phạm Viết Đào ký tên gửi đến những cấp có thẩm quyền cao nhất
của Đảng và Nhà nước CHXHCNVN nhưng tất cả đều không có hồi âm.
Bên cạnh
những phóng sự điều tra của Phạm Viết Đào, ở phần hai còn có loạt hồi ức về các
trận giao tranh dữ dội trên toàn truyến biên giới Vị Xuyên. Trong số đó có thể
kể đến những bài “Trận đầu trung đoàn 122 sư 313 đánh quân Trung Quốc tại Lao Chải” của
Ngọc Anh; “; “Kỷ niệm không bao giờ phai những ngày chốt giữ cao điểm 1800A- Lao Chải” của
Nguyễn Mạnh; “Chiến đấu ở bắc dãy Tây Côn Lĩnh” của Vũ Bình Long
(E122, F313); “Vị Xuyên, mùa đông ấm áp” của Tô Đình Ngữ (chỉ huy D3,
E866, F31, QĐ3).
Để cung cấp
cho bạn đọc cái nhìn đa chiều về cuộc chiến Vị Xuyên, Phạm Viết Đào còn sưu tầm
được khá nhiều bài viết của các nhà bình luận chính trị nước ngoài từng đăng
tải trên những tờ báo có uy tín như “Sau ‘Lão Sơn’ và ‘Gạc Ma’, quân đội Việt Nam
‘xuống hạng’ tại Châu Á” của nghiên cứu viên Nakamura Masanori,
Tùy viên quân sự, Sứ quán Nhật giai đoạn 1984; “Việt Nam học cách sống dưới
‘cái bóng’ của Trung Quốc” của Sebastian Strangio.
Về phía
Trung Quốc, đương nhiên chúng ta không thể tin tất cả những gì họ công bố trên
các phương tiện truyền thông, tuy nhiên, cho dù hệ thống kiểm duyệt báo chí gắt
gao, tại Đại lục, vẫn có những bài “lọt lưới” nói lên một phần sự thật về cuộc
chiến biên giới 10 năm. Đó là bài báo “Lão Sơn thảm bại, Túc Nhung Sinh thăng quan” của
tác giả Lưu Gia Bình do Nguyễn Thị Anh Thư chuyển ngữ...
Với tiêu đề
“Thế sự Việt -Trung”, phần thứ ba có 36 bài bình luận. Ngoài các tác giả Nguyễn
Vĩnh Long Hồ, Hồ Bạch Thảo và Trần Nam Thái, Phạm Viết Đào có 30 trên tổng số
36 bài. Mục này tuy là phần bình luận nhưng để tăng sức thuyết phục, các tác
giả đã sử dụng rất nhiều số liệu thống kê lịch sử để minh họa cho bài viết của
mình. Đây là những bài bình luận ở đẳng cấp cao, có tầm nhìn chiến lược nhưng
không viển vông duy ý chí mà bám sát thực tiễn, đồng thời đề xuất được những
kiến giải khả thi trong bối cảnh mối quan hệ phức tạp Việt Nam Trung Quốc. Đáng
chú ý ở phần này là “Những tử huyệt của ‘Trung Hoa mộng”; “Tập Cận Bình đã đẩy Trung Quốc vào thế kỵ hổ
hạ nan”; “Bàn về ‘Độ tin cậy chính trị’ của quan hệ Việt – Trung”; “Lợi ích
chung của Việt - Trung lớn hơn bất đồng, một quyết toán gian?”; “Sự thật về sự
‘viện trợ’ ác độc của Trung Quốc dành cho Việt Nam”...
Trong bài “Những
tử huyệt của Trung Hoa mộng”, Phạm Viết Đào nêu ra 4 điểm “chết người” của nền chính trị Trung
Quốc, trong đó điểm mấu chốt là “thể chế
Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo nhà nước” áp đặt sức mạnh “cứng” thay vì “hệ điều hành nguồn lực mềm” của nhân
loại tiến bộ. Ở tử huyệt thứ ba, rất tiếc tác giả chỉ nêu hai trường hợp
Napoleon Bonapart và Nikita Khrushchev mà không nhắc gì đến Adolf Hitler, tên
trùm phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Thực chất hiện tại, Tập Cận Bình
và tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh đang dẫm vào vết xe đổ của Đức Quốc xã. Thất bại
thảm hại của người Đức qua hai cuộc thế chiến há chẳng phải là bài học nhỡn
tiền cho những kẻ có tham vọng bá chủ thế giới bằng bạo lực hay sao? “Bàn về ‘Độ tin cậy chính trị’ của quan hệ
Việt - Trung” cũng là bài bình luận sâu sắc, có chính kiến và logique. Theo
tác giả, cái gọi là “độ tin cậy” ấy chẳng khác gì chiếc vòng “kim cô” của Quan
Thế âm bồ tát tròng vào đầu Tôn Ngộ Không, vô hiệu hóa 72 phép thần thông của
hắn. Đến bài “Sự thật về sự ‘viện trợ’ ác
độc của Trung Quốc dành cho Việt Nam” thì từ những bình luận chính trị, tác
giả kết hợp với các số liệu liên quan đến “viện trợ” của Trung Quốc, mang đặt
lên bàn cân, rồi phân tích, đánh giá mức độ lợi hại qua bài toán kinh tế. Hóa
ra, sự viện trợ của Đảng Cộng sản Trung Quốc không vô tư trên tinh thần quốc tế
vô sản như họ từng lớn tiếng tuyên bố. Sự thực, viện trợ ấy là những cái bẫy,
mỗi ngày lại đưa Việt Nam tiến dần vào sự phụ thuộc như một nước chư hầu thời
hiện đại.
Cũng trong
phần này còn có bài viết rất công phu của nhà nghiên cứu Nguyễn Vĩnh Long Hồ “Chiến
lược bành trướng của Tập Cận Bình: Nam tiến, Đông Bắc tiến và Tây tiến”
với lời đề từ “Tình trang dân số Tàu cộng đã quá tải, cộng với sự tăng
trưởng kinh tế quá nhanh làm cho nước này phải đối mặt với các vấn đề cực kỳ
phức tạp ở chỗ, dân Tàu Hoa Lục sẽ không còn đủ đất để sống. Nước Tàu sẽ không
thể tồn tại trong các đường biên giới của nó hiện nay nếu không bành trướng để
chiếm đoạt các nguồn tài nguyên và lãnh thổ các quốc gia khác...”.
“Vị
Xuyên & thế sự Việt Trung” mới định dạng là bản thảo nhưng sẽ là một
cuốn sách, không chỉ giới hạn trong phạm vi bạch hóa những mảng khuất lấp của
cuộc chiến 10 năm ở biên giới phía Bắc chống quân bành trướng Trung Quốc, mà còn
là tác phẩm biên khảo có hàm lượng trí tuệ cao, với những bài bình
luận sắc sảo về mối quan hệ Việt Trung từ khi Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đến nay. Trong phạm vi hạn hẹp, người viết bài
này không thể đi sâu vào chi tiết toàn bộ mà chỉ điểm xuyết qua những phần tiêu
biểu. Muốn có cái nhìn toàn cảnh về cuộc chiến Vị Xuyên, nhất là trận đánh thất
bại mang mật danh MB 84 ngày 12 tháng 7 năm 1984, xin hãy đọc toàn văn cuốn
sách này.
HG,
tháng 11 năm 2019
(Những
ngày gió lạnh từ phương Bắc tràn về)
Đ.V.S
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét