Thứ Hai, 15 tháng 6, 2020

ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG THỂ LÀ NHỮNG KẺ CHUNG ĐƯỜNG

Phạm Viết Đào

Vừa qua, nhà báo Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí CS đã bị “ném đá “ tơi bời do công bố trên Báo Đầu tư bài báo có nhan đề: ”Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành dân tộc”; Nhị Lê đã phải nhận lấy những lời chỉ trích pha lẫn sự chế diễu nặng nề do quan niệm mà ông đưa ra được người đọc hiểu là chiêu trò “đảng hóa dân tộc”…
Dư luận không chấp nhận khái niệm của Nhị Lê đưa ra bởi: "Thứ nhất, dân tộc đang bị đảng hóa. Thứ hai: người viết chả hiểu thế nào là dân tộc, thế nào là một đảng chính trị..." Có người thì đùa trên Facebook rằng "Trong đại gia đình các dân tộc VN, giờ Đảng tộc đông chỉ sau mỗi Kinh tộc". Bạn Nguyễn Hiệu thì viết trên Facebbook của BBC News Tiếng Việt: "Nói chung là không hiểu gì? Vậy người không đảng không phải dân tộc hay sao. Lại nữa, thế từ trước đến giờ Đảng là gì mà bây giờ mới ngày càng xứng đáng??? Ôi đau đầu quá. Duclong Hoang nêu ý kiến: "...Cho Đảng là dân tộc là việc không đúng cả về khoa học và trong thực tế. Chỉ có những người u mê do bị nhồi sọ mới có những ý kiến viển vông như thế." ( BBC)
Trước những chỉ trích của cư dân mạng, Nhị Lê đã lên tiếng thanh minh; ông cho rằng khái niệm đưa ra được dẫn trích từ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Khi bàn về tính dân tộc của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.
Sau sự thanh minh này, những độc giả thông thạo tiếng Anh và tiếng Đức đã tìm đến văn bản gốc; Họ đã phát hiện đoạn dịch trên trong Tuyên ngôn Đảng CS sang tiếng Việt là không sát đúng với văn bản của Marx viết. Theo văn bản tiếng Anh độc giả Nguyên Tổng cho rằng đoạn này phải dịch:“Vì giai cấp vô sản trước hết phải có được uy quyền về chính trị (chứ không phải “giành được chính quyền”), phải tự vươn lên thành giai cấp dẫn dắt dân tộc, phải tự mình mang tầm vóc dân tộc”…Các ý kiến phản đối ý kiến của Nhị Lê cho rằng: Cần hiểu Tuyên ngôn Đảng CS do Marx viết 1888 về vai trò của Đảng Cộng sản là "tự vươn lên thành lực lượng chủ đạo trong dân tộc", chứ không bao giờ lại "thành dân tộc"…
Qua vụ Nhị Lê, độc giả thêm một lần hồ nghi: Liệu Việt Nam đang xây dựng một thể chế theo học thuyết Marx- Lenin nguyên gốc hay đi theo đường lối của người phiên dịch?
Các  khái niệm của chủ nghĩa Marx- Le nin bị nhiều người đặt vấn đề phải được xem xét không chỉ riêng Tuyên ngôn Đảng CS…

“Communism” dịch “ Chủ nghĩa cộng sản” có chính xác? Chữ “cộng sản” () từ đâu ra ?

Tiếng Anh Communism chủ nghĩa cộng sản, hay Communist – người cộng sản mà Việt Nam và Trung Quốc gọi, có bắt nguồn từ gốc tiếng Latin Communis nghĩa là common với ý nghĩa là chung với tinh thần cộng đồng – communitas. Đó cũng là gốc của từ community – cộng đồng, nơi mọi người sinh sống, làm ăn đều bình đẳng với nhau, chia sẻ tài vật, vì sự phát triển chung. Communist là những người sống trong cộng đồng.
Các Mác đặt cho học thuyết của ông bằng tiếng Đức là Kommunismus (tương đương tiếng Pháp là communisme, tiếng Anh là communism, tiếng Nga là коммунизм). Nếu dịch đúng ra tiếng Việt thì tên học thuyết phải là “Chủ nghĩa cộng đồng”; Vì thế, tên đảng phải là “Đảng cộng đồng Việt Nam”.
Người Trung Quốc đầu thế kỷ 20 cố ý dịch đại khái Kommunismus thành “Chủ nghĩa cộng sản”. Nguyên do nhóm các giáo sư đại học Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, sau đó là cử nhân sư phạm Mao Trạch Đông và những người thành lập Đảng cộng sản TQ năm 1921 đã dịch ẩu và đặt ra như thế.
[Gongshan (
) hay Cộng Sản do nhóm Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu dịch từ Kommunismus của Karl Marx vào thập niên 1910. Thực ra, Marx chỉ nói đến chế độ công hữu thời xã hội nguyên thủy [primordial society] mà chưa ai chứng nghiệm—tương tự như Fu Xi [Phục Hi], Bao Xi [Bào Hi] [2852 TTL] của Ban Gu [Ban Cố], trong Han shu [Hán thư], dẫn lại trong I Ching [Chu Dịch]. Hoàn toàn không sát nghĩa với Comunism…
Vì sao không dùng “cộng đồng” mà dùng “cộng sản”?
Với trình độ học vấn đại học, ba ông Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Mao Trạch Đông không thể hiểu lầm chữ nghĩa.
Họ cố ý thay “cộng đồng” (
共同) bằng “cộng sản” () hẳn là có một ý tứ nhất định.
Thực ra trong Hán ngữ, tương đương với “cộng đồng” cũng có chữ “đại đồng” (大同) xuất hiện từ thời Khổng tử. Trong Kinh Lễ, Khổng Tử từng ước mơ xây dựng nên một xã hội lý tưởng gọi là thế giới đại đồng. “Đại đồng” gần nghĩa như “cộng đồng”. Nhưng “cộng đồng” và “đại đồng” vẫn là trừu tượng đối với đại đa số dân chúng Trung Hoa vô sản thất học. Chữ “cộng sản” tiếng Hán có nghĩa “cùng sản xuất, chung sở hữu tài sản, cùng sinh đẻ”- nghe thô kệch, vụn vặt, phiến diện, ngô nghê nhưng được cái cụ thể sinh động, dễ hiểu.
Thực ra “cộng sản” chỉ là một phần trong nội hàm của khái niệm “cộng đồng”. Chả lẽ lãnh tụ Đảng TQ không rành chữ Hán và chữ Đức?! Không phải thế, họ dịch ra “cộng sản” một cách thực dụng, bởi nghĩ rằng khái niệm “cộng sản” với nội hàm cụ thể đơn giản sẽ khiến cho dân đen dễ hiểu. Đặc biệt người dân nghèo, thợ thuyền chẳng có tài sản gì đáng kể, nay vô Đảng để đi đấu tranh, giành giật hết tài sản của giai cấp địa chủ và tư sản làm của chung thì thích lắm, mê lắm. Mác cũng từng nói “giai cấp vô sản đấu tranh chẳng có gì để mất, nếu có mất thì chỉ mất đi xiềng xích dây trói mà thôi”.
Tất nhiên, cái tên đảng cộng sản cụ thể hấp dẫn như vậy sẽ trở thành khẩu hiệu, lá bài, bùa mê dễ khêu gợi, tập hợp dân chúng cần lao; Hô hào, lôi kép họ hăng hái đi theo đảng cộng sản. Lãnh tụ CSTQ đã bất chấp chữ “cộng sản” chỉ là một phần nhỏ, phần thô không trọn nghĩa khái niệm “cộng đồng” của Mác, nhưng họ cứ phiên dịch đại đi. Như vậy, Đảng cộng sản TQ từ khi ra đời đã mang theo chứng chỉ khai sinh giả mạo, gian manh!
Ông Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu “cộng sản” Việt Nam họp từ ngày 6/1/1930 đến ngày 8/2/1930 tại Hương Cảng để bàn bạc thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương hợp thành Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn dùng nguyên chữ “cộng sản” đặt tên đảng, noi theo đàn anh TQ, mặc dù ông Nguyễn khá giỏi chữ Tây và cả chữ Hán. Ông Nguyễn thừa biết là dịch sai, nhưng có hề gì, miễn là cùng tên chứng tỏ cùng phe cánh với Đảng cộng sản Trung Quốc là được (!).
Đã có thời, ông Hồ Chí Minh sửa tên đảng là “Đảng lao động Việt Nam”, như thế là khôn ngoan, già rơ về chính trị. “Đảng của người lao động Việt Nam”, lao động chân tay và lao động trí óc, bất kể anh là “giai cấp công nhân” hay trí thức.
Như vậy, thể chế, hệ điểu hành quản trị theo mô hình XHCN của Việt Nam thực chất là một thứ "hàng Tàu" xách tay. Khi là loại hàng hóa không thuộc diện nhập chính ngạch thì người sử dụng vừa phải trả giá bản quyển cao, chịu nhiều cạm bẫy rủi ro. Do không được nhập từ chính hãng nên không được sự bảo hành và nhận các chính sách hậu mại như mặt hàng chính hiệu, chính phẩm đặt mua bằng mở L/C khi nhập xuất …
Nếu coi Kommunismus đến tay ông Hồ Chí Minh thành F 3, Lê Duẩn F 4, Trường Chinh F 5, Nguyễn Văn Linh F 6, Đỗ Mười F 7, Nông Đức Mạnh, F 8, Nguyễn Phú Trọng thành F 9 và đến Thuấn Covid-19 thì thành F mười mấy rồi…
Trong lai tạo giống sinh, thực vật, lai tạo đến F 3 đã coi vào hàng thoái hóa, lại giống rồi. Đằng này Cộng Sản Việt Nam đã lên tới F 9, F 10 rồi thì làm sao còn có khả năng phát triển.
Tại sao không là kẻ chung đường?
Ngay cả cái gốc của hệ điều hành KOMMUNISMUS ở các quốc gia sản sinh ra nó cũng đã không còn sức sống; Vậy thì cái thứ con lai, con rơi sao chép làm sao còn sức sống, sức phát triển?
Chủ nghĩa Marx ( Kommunismus ) được đám Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Mao Trạch Đông du nhập vào Trung Quốc đâu có “nguyên đai nguyên kiện”; nó bị biến thể, nó được cắt xén chỉ để sử dụng một góc phù hợp với Trung Quốc, nơi từ cổ chỉ kim đã bị ám bởi chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán. Đó là thứ chủ nghĩa hợp tạng, bắt rễ, ăn sâu vào máu thịt, tiềm thức của giới cai trị Trung Hoa. Trung Hoa đó là dân tộc hàng ngàn năm nay chỉ ôm mộng, nuôi chí bành trướng, ôm vơ của cái tài sản của nước khác cộng về cho mình, đó là dân tộc Trung Hoa với phương châm xử thế: Vinh thân- Tề gia-Trị quốc-Bình thiên hạ...
Xuất phát gốc của người Hoa Hạ chỉ nằm xung quang khu vực sông Hoàng Hà; còn ngày nay biên giới lãnh thổ của Trung Quốc đã vươn ra tận đâu? Điều này cho thấy từ xa xưa người Trung Hoa đã thực thi chủ nghĩa cộng sản thành công tới mức nào…
Chừng nào Việt Nam còn vay mượn, sao chép, còn nấp chui trong cái lồng, rọ “ GONGSHAN-Cộng Sản Tàu”- chừng đó còn bị kìm kẹp, còn bị rút ruột, còn bị cái “vòng kim cô“ cương tỏa. Cái hệ điều hành quản trị “xách tay” từ Trung Quốc nó làm cho chu u mê, nó siết cho không ngóc đầu lên được.
Muốn thoát Trung, bảo vệ được Biển Đông phải đổi tên Đảng
Ngày 17/4/2020, Trung Quốc đã gửi Công hàm tới Tổng thư ký Liên hiệp quốc đáp trả Công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam với những lời lẽ ngang ngược, hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực với Việt Nam:"Trung Quốc luôn phản đối sự xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp của Việt Nam đối với một số đảo và đá trên Quần đảo Nam Sa của Trung Quốc, và những hành động xâm phạm quyền và lợi ích của Trung Quốc ở những vùng biển thuộc quyền Trung Quốc. Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp".
Trong khi đó, các công hàm tương tự của Trung Quốc gửi LHQ sau khi có các công hàm của Philippines và Malaysia gửi LHQ về chủ quyền biển đảo của họ ở biển Đông, không thấy xuất hiện những đòi hỏi kiểu như: "Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp".
Nội dung đổi trắng thay đen, chà đạp lên Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 ( UNCLOS) của công hàm 17/4 còn công khai thái độ hăm dọa, đe dọa sử dụng vũ lực và của nhà cầm quyền TQ đối với Việt Nam.
Tiếp theo Công hàm ngày 17/4/2020, ngày 18/4 Trung Quốc tuyên bố thành lập chính quyền “khu Tây Sa” và “khu Nam Sa” tiếp tục lấn thêm những bước đi mạnh bạo.
Ngày 19/4/2010, Bộ Dân chính Trung Quốc tiếp tục thực hiện một động thái ngang ngược, đơn phương: Công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, bãi đá cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông. 25 đảo, bãi đá cùng 55 thực thể được đặt tên này tập trung ở phần phía tây Biển Đông. Một số nằm dọc theo "đường lưỡi bò" và rất sát Việt Nam.
Chẳng hạn, Nhàn Đàm Hải Đài (Xiantan Haitai) ở vị trí 11 28'.7 N/110 14' E, cách Cam Ranh khoảng 60 hải lý; Vạn An Hải Để Hạp Cốc Quần (Wan'an Haidixiaguqun) ở vị trí 10 30' N/109 50' E, cách đảo Phú Quý khoảng 50 hải lý; Tiêu Tương Hải Khâu (Xiaoxiang Haiqiu) ở vị trí 9.32'.1 N/109 44'.1 cách Hòn Hải khoảng 45 hải lý.
Động thái này một lần nữa cho thấy: Trung Cộng càng ngày càng thể hiện ngang ngược tham vọng độc chiếm biển Đông, đồng loạt triển khai nhiều hành động cả trên thực địa, pháp lý và hành chính, thông tin tuyên truyền.
Trước thái độ ngang ngược, đổi trắng thay đen, gắp lửa bỏ tay người, chà đạp Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS); Trung Quốc còn đe doạn sử dụng vũ lực thách thức an ninh và chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, một thành viên Liên hiệp quốc và một số quốc gia Đông Bắc Á. Với những tuyên bố và hành xử của Trung Quốc những ngày gần đây, họ còn dẫm đạp lên những gì mà chính những người đứng đầu Đảng, nhà nước Trung Quốc từng tuyên bố trước đây. Xin trích ra đây một số tuyên bố công khai được báo chí Việt Nam, Trung Quốc và quốc tế đã đưa tin:
-Tháng 11 năm 2000, khi hội đàm với Tổng bí thư mới Đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đến thăm TQ, Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Giang Trạch Dân nêu “16 chữ vàng”, đồng thời “nhắc nhở” VN hãy luôn coi đây là phương châm quan trọng nhất để chỉ đạo sự phát triển quan hệ hữu hảo và hợp tác lâu dài của hai nước Trung -Việt.
Ông Giang phân tích và làm rõ ý nghĩa, nội dung của 16 chữ vàng như sau:
- “Ổn định lâu dài" (长期稳定, Trường kỳ ổn định): Nhấn mạnh tình hữu nghị Trung -Việt là phù hợp lợi ích căn bản của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước, bất kỳ lúc nào, bất kỳ tình hình nào đều phải giữ sự ổn định và phát triển lành mạnh của quan hệ hữu nghị, khiến nhân dân hai nước đời đời hữu nghị;
- “Hướng tới tương lai" (
面向未来, Diện hướng vị lai) là phải xuất phát từ hiện nay, nhìn về lâu dài, kế thừa truyền thống, mở ra tương lai tốt đẹp hơn cho quan hệ Trung - Việt;
- “Hữu nghị láng giềng" (
邻友好, Mục lân hữu hảo) là yêu cầu hai bên phải làm người láng giềng tốt, người bạn tốt, trước sau xử lý mọi vấn đề trong quan hệ hai nước với tinh thần hữu nghị láng giềng;
- “Hợp tác toàn diện" (全面合作, Toàn diện hợp tác) là phải không ngừng củng cố, mở rộng và sâu sắc sự giao lưu và hợp tác giữa hai đảng, hai nước trong mọi lĩnh vực, để mưu cầu hạnh phúc cho hai nước và nhân dân hai nước, đồng thời góp phần cho việc giữ gìn và thúc đẩy nền hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
Đến tháng 3 năm 2003, khi Hồ Cẩm Đào được bầu làm Chủ tịch nước kiêm TBT, tiếp Đoàn cán bộ Cấp cao VN sang thăm và chúc mừng tân TBT, Hồ Cẩm Đào lại khái quát bổ sung thêm một phương châm nữa, gọi là “4 TỐT”! Đó là “Láng giềng tốt; Bạn bè tốt; Đồng chí tốt; Đối tác tốt” !
Được mời phát biểu tại Diễn đàn Quốc hội Việt Nam ngày 6/11/2015, khi nói về quan hệ hai nước, ông Tập Cận Bình đã trích dẫn ngạn ngữ Trung Hoa: "Huynh đệ đồng tâm, ký lợi đoạn kim" (anh em đồng làm thì đủ sắc bén để cắt vàng). Ông Tập cho rằng hiện nay tình hình của thế giới đang có những diễn biến phức tạp thì hai nước Việt - Trung với “núi liền núi, sông liền sông” càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau để vượt qua thử thách, khó khăn, cùng nhau phát triển. Nguyên văn lời ông Tập:
Thứ nhất, thực tiễn chứng minh rằng phương hướng sẽ quyết định vận mệnh. Thực tiễn đã chứng minh là nhân dân, hai Đảng, hai nước đã lựa chọn đúng con đường phát triển và cả hai dân tộc cần phải kiên định lòng tin, chung tay tiến lên, quyết không để thế lực nào cản trở sự hợp tác đó. Phía Trung Quốc kiên định ủng hộ Việt Nam xây dựng XHCN và mong muốn Việt Nam phát triển càng nhanh càng tốt.Thứ ba, Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng tốt của nhau. Ông Tập dẫn ngạn ngữ “mất hàng ngàn vàng mua láng giềng gần” và cho rằng đây là câu ngạn ngữ mà nhân dân hai nước đều dùng, đều tâm đắc.”
Như vậy, phương châm “16 chữ vàng” & “4 tốt” đều là do phía TQ chủ động đề xuất và khái quát đưa ra; đồng thời họ yêu cầu VN - nói đúng hơn là họ “dạy” VN phải làm tốt những nội dung này!
Thế mà giờ đây, bước qua năm 2020, chỉ sau mấy năm họ quay lại 180 độ, vu cho Việt Nam xâm lược biển đảo của Trung Quốc? Nếu quả thực Việt Nam sử dụng sức mạnh quân sự cưỡng chiếm lãnh hải của Trung Quốc thì tại sao họ lại thốt lên những lời “vàng ngọc” xỏ lá trong thời gian trước đó nhằm mục đích gì?
Xin nhớ: Trung Quốc là một quốc gia trên 1 tỷ dân; Có tổng thu nhập quốc dân đứng thứ 2 thế giới; Trung Quốc là thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ sau năm 1971… Thế mà lãnh hải bị Việt Nam “xâm lược” như Trung Quốc lu loa, họ lại không hé răng nói năng nói nửa lời trong mấy chục năm qua…
Với “cuộc chiến pháo hạm” ăn cướp Biển Đông
Không dừng lại ở các thao tác công hàm, thông tin tuyên truyền, Trung Quốc còn cho triển khai “Cuộc chiến pháo hạm” nhằm mục đích ăn cướp Biển Đông. Hành vi pháo hạm này không chỉ đụng chạm, thách thức chủ quyền của Việt Nam mà nó còn chà đạp lên các định chế quốc tế hiện hữu.
Phải chăng do Tàu Cộng biết mình ở thế bất nhân, bất nghĩa nhưng cứ họ cứ ra đòn trước để thành chuyện đã rồi; buộc thiên hạ phải mặc cả, lại quả, phải cúi mình trước hắn ta; Phòng ngự bằng phương pháp tấn công vốn là cách, miếng võ đã có từ trong cổ sử Tàu…
Tàu Cộng đã vứt bỏ “lá nho” cuối cùng để trơ ra trước thế giới bộ mặt nhơ nhuốc, bệnh hoạn, hung đồ, đại bá; Vừa ăn cướp, vừa la làng vào đầu năm Canh Tý-2020.
Đại dịch Covid-19 lan ra khắp thế giới bắt đẫu từ thành phố Vũ Hán, nhưng lại không lan ra Bắc Kinh-Thượng Hải-Quảng Châu-Thẩm Quyến; Qua đây cho thấy: Cái con virus này mang “tính đảng” Cộng Tàu, “tính giai cấp” rất chi là sâu sắc, rất cao. Nó biết tấn công, thâm nhập vào đâu và nó biết liên minh bắt tay với những khu vực nào. Nếu không có sự dẫn dắt chỉ đạo của Trung Nam Hải thì làm sao những con “virus Tàu Cộng” này biết đường biết lối mà đi. Các chuyên gia đã lần ra dấu vết “hộ chiếu” của những con virus này bám theo hàng ngàn hộ chiếu của người Hoa về quê ăn Tết dịp Tết Nguyên Đán; Gần đây Mỹ đã tuyên bố tìm ra được bệnh nhân số 0…
Người Việt Nam có câu “Ốm tha già thải”…Trong khi Việt Nam và nhiều nước đang tập trung đối phó với dịch Covid 19 thì Trung Quốc đơn phương phát động một cuộc chiến tranh pháo hạm…Xin hỏi “ GONGSHAN” Trung Quốc cò còn là một con người bình thường nữa hay không hay họ bị điên? Thế giới đang nghị họ tạo ra nạn dịch COVID 19 làm cho điêu đứng cả thể giới, tiếp liền sau đó họ đe dọa gây họa binh đao với các nước láng giềng…
Với nền tảng kinh tế- xã hội-khoa học kỹ thuật của mỗi nước, của cả khối vốn đã có quan hệ đồng minh, Mỹ, Canada và các quốc gia tây phương và Việt Nam rồi sẽ vượt qua đại dịch tai ác này. Và khi họ đã tỉnh ra thì điều gì đến ắt sẽ đến…Không đời nào thế giới lại cho GONGSHAN Trung Quốc thoát khỏi sự trừng phạt, vấn đề là thời gian sẽ trả lời câu hỏi này…Cái nhìn và cách ứng xử với Trung Quốc chắc chắn sẽ thay đổi…
Các bước tiếp theo
Đánh tiếng là đưa tầu, hạm đội ra Biển Đông tập trận, nhưng cái đích của tàu sân bay Liêu Ninh theo người viết bài này đó là hai mục tiêu: Bãi Tư Chính và Cá Voi Xanh, hai vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam; Nơi trầm tích các mỏ dầu và khí lớn vào loại nhất nhì của thế giớí. Như vậy, Trung Quốc bất chấp liêm sỉ, bất chấp luật pháp quốc tế, học theo cách “Chí Phèo ăn vạ nhà Bá Kiến” trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao…
GONGSHAN” đúng là “GÔNG CÙM”
Trước thái độ của Trung Quốc, dẫu không muốn nhưng buộc lòng Việt Nam phải xem xét, cài đặt lại toàn bộ các mối quan hệ chính trị-kinh tế-văn hóa-an ninh-quốc phòng với Trung Quốc…
Về quan hệ chính trị: Đây là lúc mà Đảng CS Việt Nam cần tính đến phương án đổi tên Đảng CS để cho thế giới thấy quyết tâm của Việt Nam tách triệt để khỏi GONGSHAN Trung Quốc; Từ mặt Trung Quốc về chính trị. Việt Nam không đồng chí, anh em gì hết với Trung Quốc GONGSHAN.
Đất xấu vắt chẳng nên nồi
Mày đi lấy vợ để tao lấy chồng
Mô hình GONGSHAN của Trung Quốc là một dạng “KOMMUNISMUS” “nửa dơi nửa chuột”. Sau dịch COVID 19 thế giới thật sự kinh hãi về những gì đang xảy ra với gần 100 nước trên thế giới. Rất nhiều nhà khoa học, nhiều quốc gia cho rằng tất cả những di hại của dịch bệnh do bàn tay của GONGSHAN CHINA? Nhiều tổ chức tại nhiều quốc gia trên thế giới đanh tính việc đưa GONGSHAN Tàu ra tòa.
Muốn giữ được độc lập dân tộc, muốn bảo vệ được Biển Đông, giữ được quan hệ đối ngoại thì không chỉ nghĩa đến tấm quần manh áo, ( danh xưng, danh hiệu, kinh doanh gọi là thương hiệu) mà phải độc lập, tự đứng vững được trên đôi chân kinh tế của mình; Trong thời đại ngày nay, ngay cả nền kinh tế số một thế giới là Mỹ, qua covid 19 cũng cho thấy lao đao khi bị cách ly ra khỏi thị trường thế giới…
Mặt khác do quan hệ làm ăn với Trung Quốc, quá tin vào Trung Quốc do 2 nước đều dưới sự lãnh đạo của GONGSAN; Thật tại hại thấy cái gì vương vướng về pháp lý thì giơ cái bảo bối: Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đồng thuận; Không được làm gì trái với thỏa thuận của cấp cao hai nước? Mà thỏa thuận cấp cao giữa hai GONGSHAN cấp cao là gì thì không ai biết?! Tại Việt Nam nhiều công trình, dự án đã thất bại để lại những gánh nặng quốc gia. Hơn một chục dự án đầu tư tính ra suýt soát gần 100 tỷ USD có nguy cơ phá sản, nguy cơ phái hủy dự án hoặc kinh niên thua lỗ như Thép Thái Nguyên, Đạm Ninh Bình, Nhà máy đóng tàu Đình Vũ, Bauxite Tây Nguyên …Cộng với nhửng tiêu cực phát sinh do “ lỗi hệ thống”, lỗi cơ chế cho nên thay đổi tên Đảng cũng là cách khôi phục, gầy dựng lòng tin…
Cái danh xưng, nói theo ngôn ngữ thị trường “THƯƠNG HIỆU GONGSHAN CHINA” đang bị dị ứng, phản cảm trong con mắt của cộng đồng thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà sau ngày 2/9/1945, việc đầu tiên của ông Hồ Chí Minh là cho giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương; Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh được Chính phủ Hồ Chí Minh giao cho phụ trách Viện Nghiên cứu Marx-Lenin. Chính ông Hồ Chí Minh sớm nhận ra: Muốn tập hợp được lực lượng, đoàn kết được toàn dân để chống lại thù trong giặc ngoài thì phải loại Cộng sản ra khỏi chính quyền non trẻ. Đến năm 1951, khi quyết định sử dụng lại Đảng, ông Hồ Chí Minh đã cho Đảng khai sinh một cái tên mới: Đảng Lao động Việt Nam, đây là quyết sách chuẩn bị cho việc tập hợp lực lượng, dồn sức vào bước quyết định của cuộc kháng chiến…
Vào thời điểm hiện tại, muốn bảo vệ được độc lập dân tộc, bảo vệ được Biển Đông thì phải làm theo cách mà ông Hồ Chí Minh từng làm: Lấy tên Đảng là Đảng Lao động Việt Nam của Đại hội 2. Còn nếu tiếp tục giữ tên Đảng Cộng sản, là cái tên, cái “ thương hiệu” dịch từ GONGSHAN thì Việt Nam sẽ không tập hợp được nhân dân quyết sống mái với quân Trung Quốc xâm lược, bảo vệ Biển Đông…
Giữ nguyên Đảng Cộng sản khi người dân Việt Nam đã hiểu được “CỘNG SẢN” Việt Nam là một phiên bản từ GONGSHAN tiếng Tàu; Nếu bị hiểu như thế thì người dân cho rằng: Việt Nam mãi mãi vẫn chỉ là một đảng bộ của Tàu…
Nhân cơ hội Trung Quốc công khai giở mặt, gây hấn trước là dịp các nhà lãnh đạo phải học lại cách làm của ông Hồ Chí Minh: Đổi tên Đảng để tập hợp toàn dân tìm cách “thoát Trung”, để bảo vệ Biển Đông…Chỉ khi đổi tên Đảng, không vướng víu nợ nần, không dây mơ rễ má gì với GONGSHAN CHINA thì người dân mới tin: Việt Nam là một quốc gia độc lập, cóc chủ quyền, không đi đêm, trở thành “con nghiện” của GONGSHAN CHINA…
Việt Nam không thể xây tường ngăn biên giới với Trung Quốc như Mỹ với Mexico. Ngoài ra, Việt Nam chưa có gì đảm bảo giữ toàn vẹn chủ quyền các vùng đặc quyền kinh tế Biển Đông, nơi trầm tích nhiều tài nguyên thiên nhiên cũng như cửa ngõ giao thương lớn bậc nhất của thế giới.Việc giao lưu trao đổi hàng hóa hai nước là nhu cầu tự thân của hai nền kinh tế, vì lợi ích của người tiêu dùng của hai quốc gia. Hiện nay kinh tế Việt Nam nếu nhìn vào số liệu cán cân xuất nhập khẩu giữa hai nước cho thấy: Việt Nam thường xuyên chịu thực trạng nhập siêu với thị trường Trung Quốc. Việt Nam phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu sang Trung Quốc các mặt hàng nông, hải sản; Phụ thuộc cả vào số lượng nhập khẩu của thị trường này và cả về giá cả. Còn nhập khẩu thì Việt Nam lệ thuộc vào các nguyên vật liệu công nghiệp, thủ công mỹ nghệ…
Bản thân thị trường Trung Quốc là thị trường chứa đựng lực hút về nhu cầu của gần 1,5 tỷ dân; Thị trường này thật sự giống như một "cục nam châm" cực lớn thu hút không chỉ Việt Nam. Nhiều quốc gia mạnh hơn Việt Nam mà còn phải chịu lệ thuộc vào Trung Quốc, phải bắt tay với Trung Quốc.
Trong khi đó Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới chung gần 1500 km. Mặt khác nhân dân hai nước Việt-Trung ở khu vực đường biên đã hàng ngàn năm nay có quan hệ qua lại làm ăn, thậm chí có quan hệ họ hàng, hôn nhân…Do vậy, muốn thoát khỏi sự chi phối, phụ thuộc, giữ được độc lập không chỉ riêng lĩnh vực kinh tế đã là một bài toán không dễ giải; chưa kể các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, y tế…
P.V.Đ



Không có nhận xét nào: