Nguyên Ngọc
(Xem phần (1) ở đây. Và ở đây,
hoặc ở đây).
Tố
Hữu vừa bước vào phòng họp hội nghị đảng viên, liền nắm lấy chùm râu Nguyên
Hồng hỏi:
– Râu
thật hay giả?
Hay
là ông ta vẫn chưa chịu quên được câu tuyên bố thẳng thắn ngang tàng của Nguyên
Hồng mấy chục năm trước?
Hội
nghị đảng viên họp ở 51 Trần Hưng Đạo, vẫn trong cái căn phòng lát gỗ lịch sử
ấy. Phòng họp có một cái bục gỗ.
Tố
Hữu bước tới bục, đứng một lúc, rồi bắt đầu nói. Câu đầu tiên:
– Cái
bục này đối với tôi là hơi cao đấy. Đối với anh Nguyên Ngọc, chắc còn cao hơn.
Vậy
là tôi hiểu rồi.
Ông
nói khoảng ba giờ liền. Tôi không nhớ hết. Đại ý bản Đề dẫn bị phê phán kịch
liệt. Nó chệch hướng. Nó có mùi vị tự do tư sản. Nó cổ vũ cho tư tưởng cá nhân
tư sản.
–
Nghe nói có người nhắc đến chuyện nhà văn tự sát bên Liên Xô. Ở đây, ai muốn,
thử tự sát coi?…
Ông
nói về sự ưu việt của chủ nghĩa tập thể. Ông kể rằng ông vừa đi một chuyến Cao
Bằng, đến một thôn xóm nào đó, xa lắm, gặp một anh giữ máy bơm nước hợp tác xã.
Anh ấy văn hóa i tờ, kỹ thuật chẳng học hành gì, nhưng bao nhiêu năm nay cái
máy vẫn chạy ngon lành. Đó là cái gì? Vì sao? Tập thể có thể làm nên những điều
kỳ diệu như vậy đấy. Con người mới đâu? Đi đi, rồi sẽ thấy…
… Hội
nghị lặng như tờ. Không biết ai đó ngồi phía sau tôi, thì thào:
–
Phen này bỏ mẹ thằng Ngọc.
Tôi
cũng im lặng. Về sau Nguyễn Khải bảo: lúc đó mình nhìn thằng bạn, thấy mặt nó
cứ lầm lì. Cái thằng!
…
Cuối buổi, tất nhiên tôi phải thay mặt anh em nói mấy lời. Tôi nói cảm ơn anh
Tố Hữu về những ý kiến của anh, và chúng tôi sẽ nghiêm túc nghiên cứu.
Chế
Lan Viên tiễn Tố Hữu ra cổng.
Nguyễn
Trọng Oánh đèo xe đạp tôi về. Oánh bảo:
–
Không thể chịu được cái chuyện anh máy nước hợp tác xã của ông Tố Hữu. Kỳ không
thể chịu được!
Tối
hôm đó, chúng tôi lại ngồi với nhau ở 4 Lý Nam Đế, trong phòng ngày xưa Nguyễn
Thi thường nằm bò ra sàn, cái khăn ướt quấn chặt trên đầu, hì hục viết.
Có ba
anh em: Nguyễn Khải, Giang Nam và tôi. Cũng lạ, chúng tôi vẫn bình tĩnh tính
chuyện ngày mai. Chúng tôi vẫn tin rằng ý kiến của chúng tôi đúng, có thể có
nhiều sơ hở, nhưng cơ bản là đúng, sơ hở thì điều chỉnh lại, chả sao.
Bất
ngờ Chế Lan Viên đến. Hình như anh đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo lên tận đây. Ngồi
một lúc, anh bảo:
– Khi
chiều, mình đưa anh Tố Hữu ra cổng, anh ấy dặn: Nói thế thôi, chứ phải bảo vệ
thằng Ngọc để nó làm việc.
Chúng
tôi pha trà, mời anh uống. Uống xong chén nước, anh đứng dậy, nói:
–
Thôi bây giờ thế này, để mình dẫn cậu Ngọc lên xin lỗi anh Tố Hữu. Đi với mình.
Nguyễn
Khải, Giang Nam không nói gì.
Còn
tôi, thực tình lúc đó tôi giận lắm.
– Cảm ơn anh – tôi nói – nhưng… một là, tôi thấy tôi chẳng có gì
phải xin lỗi ông Tố Hữu. Hai nữa, tôi cũng là người lớn rồi, anh ạ, cần đi, tôi
đi một mình cũng được. Cảm ơn anh.
Chế
Lan Viên hằm hằm bỏ ra về.
Chúng
tôi còn họp tiếp một ngày nữa. Cuối cùng, là người chủ trì hội nghị, tôi phát
biểu kết luận. Tôi nói:
– Hội
nghị chúng ta cơ bản nhất trí với bản Đề dẫn của Đảng đoàn…
Ra về,
nhiều anh em bắt tay tôi. Người bảo:
–
Được lắm!
Người
bảo:
– Mày
thật quá quắt. Chết, con ạ.
Cũng
có người quay mặt đi.
*
Chúng
tôi vẫn làm việc, nhưng công việc như cứ rã dần ra. Không khí nặng nề.
Có
hôm Nguyễn Khải nói:
–
Mình tưởng cậu có ông Chu Huy Mân, ông Võ Chí Công sau lưng cậu chứ. Hóa ra…
–
Không, tôi chẳng có ai sau lưng cả. Tự mình chịu trách nhiệm.
Báo Văn
nghệ lại đăng cái bài “hiện thực phải đạo” của Hoàng Ngọc Hiến (6).
Giang Nam, Tổng biên tập, có đưa cho tôi xem trước, hỏi ý kiến. Tôi nói:
– Tôi
thấy bài anh Hiến có ý hay, nhưng không chặt. Có chỗ anh phiến diện giải thích
văn học trực tiếp từ cơ sở kinh tế – xã hội, theo tôi, không ổn. Nhưng đó là ý
kiến riêng của tôi. Tôi đề nghị nguyên tắc làm việc thế này: Đảng đoàn không
duyệt từng bài báo. Tổng biên tập có thể hỏi ý kiến, tham khảo, nhưng đăng hay
không, tự anh phải quyết định.
Nhiều
người bảo bài viết của anh Hiến là “đồng loã, bố trí hợp đồng” với bản Đề dẫn
của tôi. Hoàn toàn không phải như vậy. Có lẽ hai chúng tôi gần nhau ở một số ý
tưởng nào đó, thế thôi.
Tôi
lại vụng về trong quan hệ với Nguyễn Khải. Có lần anh hỏi tôi:
– Hay
là mình chuyển sang bên Hội, ra khỏi quân đội luôn.
Tình
hình biên chế của cơ quan Hội đang rất gay go. Quỹ lương nặng quá. Người thừa
nhiều. Tôi nói:
– Để
tính đã, ông ạ. Biên chế còn căng quá.
Khải
giận tôi. Ít lâu sau, anh chuyển hẳn vào Sài Gòn.
Trong
Đảng đoàn, Chế Lan Viên là người công kích tôi dữ dội hơn cả. Anh ở Sài Gòn,
lâu lâu mới ra Hà Nội, đi đây đi đó nắm tình hình, lên chỗ Tố Hữu thăm dò… Rồi
đến kỳ họp, tấn công tôi ráo riết. Anh viết cả bài đánh tôi trên báo Văn
nghệ. Giang Nam hỏi tôi:
– Có
đăng không?
Tôi
nói:
– Tùy
anh. Nhưng theo tôi, cứ đăng. Chẳng sao đâu.
Những
ngày ấy, nhiều lúc tôi thấy cô đơn vô cùng. Đi làm về, mệt nhoài, căng thẳng,
chẳng biết nói với ai.
Tôi
cám ơn anh Tô Hoài. Anh vẫn làm việc với tôi, chia sẻ bao nhiêu việc linh tinh
phức tạp hàng ngày. Anh làm việc chu đáo, tận tụy và nhẹ nhàng. Chỉ thường vắng
mặt, ốm đau hay đi đâu đó, những khi có cuộc đấu đá căng.
Cũng
có nhiều người khuyên tôi:
– Cậu
nên gặp ông Tố Hữu một bữa. Gặp, nói đôi lời, lại đâu vào đấy cả thôi. Cậu tự
ái lớn quá.
Tôi
không đi. Vì thấy chẳng có gì để nói.
Từ
ấy, mãi cho đến nay, tôi chỉ đến nhà Tố Hữu một lần. Ấy là lần Phan Tứ ốm nặng.
Phan
Tứ ở Đà Nẵng, bị đau quằn quại kéo dài ở bụng suốt hàng mấy năm. Bệnh viện C Đà
Nẵng chạy chữa đủ cách, không bớt. Lúc nghi tắc ống dẫn mật, lúc nghi gan, lúc
bảo có thể có chuyện gì đó ở thận… Rất may bấy giờ có một hội nghị toàn quốc
ngành y họp ở Đà Nẵng. Các anh ở bệnh viện C nhờ Bác sĩ Đặng Văn Chung xem hộ.
Đó là vị Bác sĩ chẩn đoán giỏi số một ở nước ta. Nghe bảo ông không cần dùng
đến cả tai nghe, chỉ sờ nắn qua ở bụng, nói ngay:
– Chỉ
có thể là ở tuỵ. Ra Hà Nội ngay đi!
Tứ ra
bệnh viện Việt Xô Hà Nội. Tôi vào gặp anh Điệng, Phó chủ nhiệm Khoa ngoại, là
người quen cũ. Tôi bảo:
– Tứ
là bạn tôi, tôi lại là người có trách nhiệm ở Hội, bệnh tình anh ấy thế nào,
anh nói thực với tôi đi.
Điệng
hỏi:
– Ông
có quen ông nào thật to không?
–
Cũng có thể.
– Vậy
nhờ ông ấy nói hộ một tiếng với ông Tôn Thất Tùng bên Việt Đức sang xem cho một
chút, có ý kiến, bọn mình làm sẽ chắc tay hơn.
Đêm
ấy tôi đến nhà Tố Hữu, kể tình hình Phan Tứ, và nhờ ông nói hộ với Bác sĩ Tôn
Thất Tùng. Tố Hữu rất nhiệt tình.
– Cậu
ngồi đây một lát, mình gọi điện thoại cho anh Tùng ngay.
Ông
vào phòng trong, gọi điện, trở ra, bảo:
–
Được rồi.
Sáng
hôm sau, bác sĩ Tôn Thất Tùng bỏ một phiên họp Quốc hội, vào Việt Xô xem cho
Phan Tứ. Về sau chính ông mổ và điều trị cho anh.
Chuyện
là vậy.
Tôi
gắng gượng hết sức làm mọi việc còn có thể làm ở Hội, những việc mà tôi tâm
huyết: giúp củng cố và phát triển Trường Nguyễn Du, lo cho những anh em trẻ có
triển vọng, lo tờ Văn học nước ngoài, củng cố báo Văn nghệ (anh
Nguyễn Văn Bổng lại trở về thay Giang Nam), làm trại sáng tác ở Huế, ở Vũng
Tàu, v.v.
Nhưng
cái Đảng đoàn cứ rã dần ra. Nó rã từ bên trong. Đến triệu tập họp cũng không
được: Chế Lan Viên, Anh Đức không thèm ra.
Cho
đến trước Đại hội Nhà văn lần thứ III, lúc này do Hà Xuân Trường trực tiếp chỉ
đạo, thì nó thực tế bị giải thể lặng lẽ; không hề có một quyết định nào của Ban
bí thư là tổ chức đã quyết định lập ra nó.
Đại
hội III họp tháng 9 năm 1983. Lần ấy Nguyễn Duy có đến phỏng vấn cụ Nguyễn
Tuân. Cụ bảo:
–
Mình đã dự mấy cái Đại hội nhưng chưa thấy Đại hội nào tợn như cái này.
Trong
Đại hội tôi vẫn được bầu vào Ban chấp hành, nhưng không trực tiếp làm công tác
gì ở Hội nữa. “Được giải phóng đi sáng tác”.
Lại
bắt đầu một thời kỳ lêu lổng lang thang rất thú vị. Cái Đề dẫn đã làm khốn đốn
tác giả của nó gây xao động một thời, đến nay tôi chẳng giữ được bản lưu nào
trong tay (7). Bản cuối cùng, tôi gửi cho ông Lê Đức Thọ theo yêu cầu của ông,
sau không thấy gửi trả lại.
Nguyên
là đầu 1981, một hôm tôi đang họp Quốc hội thì được điện của văn phòng ông Lê
Đức Thọ gọi: 8 giờ sáng mai đến gặp “anh Sáu” tại 6 Nguyễn Cảnh Chân.
Ông
Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội, rất nghiêm. Ông tuyên bố:
– Đối
với đại biểu Quốc hội thì trong khi Quốc hội đang họp, không có gì quan trọng hơn
là họp Quốc hội.
Có
bữa ông Lê Hiến Mai, bấy giờ là Bộ trưởng Thương binh xã hội, đến chỗ thư ký
đoàn Quốc hội, nhờ tôi thưa hộ với Cụ một tiếng, xin nghỉ một buổi họp.
Cụ
hỏi:
–
Việc gì?
Tôi
bịa ra một việc gì đó quan trọng lắm.
–
Quan trọng hơn cả Quốc hội à?
Nhưng
rồi Cụ cho phép.
Tôi
xin phép nghỉ một buổi. Đúng 8 giờ sáng có mặt ở 6 Nguyễn Cảnh Chân. Anh Ngọc,
thư ký riêng của Cụ ở đấy, bảo:
– Anh
Sáu còn ăn sáng. Anh ngồi chờ một lúc.
Tôi
ngồi chờ hai mươi phút. Trong hai mươi phút ấy, lần đầu tiên tôi được chứng
kiến sự vận hành của cái guồng máy ở cấp tối cao. Tôi ngồi nghe anh Ngọc gọi
điện thoại liên tục đến hơn chục nơi khác nhau, các Bộ của Nhà nước, các Ban
của Đảng, các cơ quan và thủ trưởng cao nhất, nơi nào cũng nói nguyên một câu:
“Vấn đề các anh thỉnh thị hôm qua, ý kiến anh Sáu như sau…”.
Ra
trong một đêm hôm qua, con người tôi sắp được gặp, “anh Sáu”, đã giải quyết và
cho chỉ thị về hàng chục công việc hết sức khác nhau, toàn những việc trọng
đại, liên quan đến vận mệnh quốc gia. Bộ óc ấy làm việc suốt đêm qua, bây giờ
mệnh lệnh được ban ra qua cái điện thoại của người thư ký này.
Ngồi
đó hai mươi phút, tôi có cảm giác được nghe tận tai, thấy tận mắt cái bánh xe
vận mệnh đất nước đang quay, lịch sử đang đi, rõ ràng…
Ông
Lê Đức Thọ hỏi tôi:
– Đầu
đuôi thế nào, anh kể xem?
Tôi
kể hết đầu đuôi. Nghe xong, ông bảo:
–
Tiểu sử của anh, tôi có biết. Anh là người có kinh nghiệm, nhưng chủ yếu là
kinh nghiệm chiến tranh, chiến trường. Bây giờ anh về lãnh đạo Hội Nhà văn. Ở
đấy là một cái bụi gai, anh chưa kinh nghiệm gì, vấp là phải. Hôm nay tôi chỉ
có thể nói với anh, tôi xác nhận ba điều: anh là người trung thực, anh có tâm
huyết, và là người làm việc. Ba điều đó, có thể khẳng định. Còn chuyện quan
điểm, tôi chưa đọc bản Đề dẫn, anh về gửi cho tôi một bản, tôi sẽ có ý kiến
sau. Cũng phải còn trao đổi lại với anh Tố Hữu nữa.
Tôi
về gặp Trà Giang, nghệ sĩ điện ảnh, bấy giờ cũng là đại biểu Quốc hội. Cô lo
lắng:
– Thế
nào anh?
Tôi
bảo:
– Cơ
bản là được. Nhưng còn một cái cơ bản hơn nữa, quan điểm, Cụ chưa có ý kiến.
Trà
Giang cười:
–
Đáng kiếp, ai bảo đi làm lãnh đạo.
Nguyễn
Trọng Oánh ngày nào cũng đến tôi. Anh rất ít nói, chỉ hay thở dài. Vậy mà quyết
liệt đáo để. Anh viết thư xin gặp ông Lê Đức Thọ. Khi được gặp, anh nói thẳng
với ông:
–
Nguyên Ngọc đúng. Tố Hữu sai.
Anh
về bảo tôi:
–
Mình nói vậy, mà không thấy ông Sáu phản ứng gì cả. Không biết đằng nào mà lần.
Riêng
tôi, tôi biết những cuộc gặp gỡ ấy chẳng đi đến đâu. Tự do, kể cả tự do sáng
tác, không phải là thứ có thể đi cầu xin. Cuộc sống còn phải vận động, theo
những qui luật nhọc nhằn của nó.
Tôi
biết công việc ở Hội lùng nhùng, chẳng ra sao, ngày càng rời rã. Nhưng tôi cũng
biết, cũng tin Hội Nhà văn không đồng nghĩa với nền văn học. Cái Hội chúng tôi
có bệ rạc đến đâu, mặc, đời sống văn học vẫn đi theo con đường của nó, có thể
càng thêm vất vả hơn, nhưng chẳng gì ngăn được.
Điều
ấy đúng với cả từng nhà văn.
Nguyễn
Khải bỏ vào Sài Gòn, anh không cùng tôi chèo chống tiếp những ngày sóng gió.
Nhưng anh không trát bùn trên “mặt trận” chính của anh: sáng tác. Cha
và con, và… khiến tôi hiểu và vẫn yêu Nguyễn Khải, dầu đôi khi, cô đơn
quá, tôi cũng có giận anh ít nhiều.
Nguyễn
Minh Châu chẳng nói chẳng rằng. Trong suốt cái cuộc cãi vã vụ Đề dẫn ấy anh hầu
như hoàn toàn đứng ngoài. Đôi khi hơi cười mỉa. Nhưng chính trong những ngày
ấy, anh vật vã tìm một con đường mới, trước hết cho chính anh, và như sau này
ta sẽ thấy, cho cả chúng ta, cho bước chuyển khó nhọc mà quyết liệt của văn
học.
Và
bao nhiêu anh chị em trẻ, ở khắp nơi. Chưa rõ rệt có một cái gì, song đồng thời
lại cũng rõ ràng không thể như trước nữa…
Tôi
có một người quen, là một nhà phê bình trẻ rất uy tín ở Liên Xô, Evguéni
Sidorov. Anh là Giám đốc Học viện Văn học Gorki. Một nhà phê bình uyên bác, táo
bạo và tinh tế, là người đã phát hiện Evtouchenko. Anh sang Hà Nội, hỏi thăm
tôi, anh em bảo tôi đã vào Huế. Đến Huế hỏi, anh em bảo tôi vừa đi Sài Gòn. Vào
Sài Gòn, anh em lại bảo tôi đi Cần Thơ rồi. Sidorov nhắn xuống Cần Thơ:
– Về
ngay, muốn gặp một chút.
Tôi
mượn xe của Văn nghệ Hậu Giang, chạy lên. Ôm hôn nhau ba lần, đúng kiểu Nga.
Sidorov
ghé tai:
–
Nghe nói cậu bị đi đày, phải không?
– Tầm
bậy. Làm gì có. Mình đang đi du lịch.
Tối,
chúng tôi ngồi uống cognac với nhau trên tầng cao nhất của khách sạn Độc Lập
Sài Gòn.
Tôi
hỏi:
– Ông
thấy văn học chúng tôi thế nào?
Sidorov
bỗng nghiêm trang, anh đặt cốc rượu xuống bàn:
– Các
anh có một nền văn học, thật đấy. Không nói nịnh đâu. Nhưng nó… ở ngoài Hội Nhà
văn.
–
Uống đi – tôi bảo – Đến đáy nhé… Nhưng mà này, hỏi thêm một câu: như vậy là tốt
hay là không tốt?
– Ông
cật vấn tôi nhiều quá, chủ nhà thế là hơi bất lịch sự đấy.
Đêm
ấy tôi uống hơi nhiều. Ngủ lại với Sidorov ở khách sạn Độc Lập. Gần sáng tỉnh
dậy nhìn ra mặt sông Sài Gòn còn mờ sương, sau lớp cửa kính càng hư vô.
Sidorov
hỏi:
– Sao
dậy sớm thế?
–
Mình đi đây.
– Đi
đâu?
– Cần
Thơ.
– Có
người yêu dưới ấy à?
–
Cũng có thể.
–
Thằng quỷ, thế thì đi đi. Chào!
Những
ngày ấy sao lạ thế. Tôi vừa như một kẻ thất nghiệp, thừa rỗi rãi, lang thang,
vừa lại cứ nôn nóng thế nào ấy trong người, không yên. Chờ đợi một cái gì đó sẽ
đến, nhất định phải đến chứ. Khó nhọc lắm, nhưng tất yếu, đáng chờ, đáng tin.
Tôi
không bao giờ nghĩ bản Đề dẫn luộm thuộm nọ đã mở ra một cái gì cho văn học,
cho người viết, gợi ý cho một sự bừng nở mới.
Có lẽ
trái lại mới đúng, chính sự trăn trở âm thầm trong hàng trăm người cầm bút ngày
ấy đã gợi ý cho nó. May ra thì ưu điểm chủ yếu của nó, nếu có, là nó đã ít
nhiều đánh hơi được “cái gì đó”. Và lên tiếng báo hiệu.
*
(Đến
tháng 5 năm 1987, báo Văn nghệ của Hội Nhà văn thật sự đã
chết. Báo đình bản liền ba số, vì ế quá, không còn tiền mua giấy và trả nhà in.
Báo là kiểu “sự nghiệp có thu”, nghĩa là được nhà nước trả lương, nhưng còn mọi
thứ khác phải lấy tiền bán báo mà làm. Đào Vũ, quyền Tổng biên tập, chủ trương
giữ một cái marge (một cáỉ lề) an toàn tuyệt đối, anh tuyên bố “chỉ đá bóng
giữa sân, tuyệt đối không ra biên”. Khi báo hết tiền, anh gửi một cái công văn
lên Thường vụ Hội Nhà văn và Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương báo tin là báo
phải đóng cửa và bỏ đi Sài Gòn.
Văn
nghệ dẫu sao cũng là tờ báo lớn trong cả nước, đột nhiên đình bản, dễ khiến dư
luận trong ngoài nước thắc mắc nên “trên” rất lo, nhiều lần giục Thường vụ Hội
Nhà văn tìm gấp Tổng biên tập mới. Thường vụ lúng túng. Một hôm Nguyễn Minh
Châu hồi ấy cũng là ủy viên Ban Chấp hành hội, đến chơi ở 65 Nguyễn Du, nói với
Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu: “… Hay ta mời anh Ngọc về làm báo. Anh ấy từng
làm báo trong cả hai cuộc chiến tranh…”. Gặp anh Trần Độ, Nguyễn Đình Thi và
Chính Hữu báo lại ý kiến Nguyễn Minh Châu. Anh Độ bảo vậy các cậu về làm công
văn đề nghị chính thức đi. Nhưng rồi hai anh về lại phân vân, chần chừ. Anh Độ
cho người xuống giục. Cuối cùng mới có công văn chính thức của Thường vụ Hội.
Tôi về làm Tổng biên tập Văn nghệ từ tháng 6-1987. Được đúng 1
năm 6 tháng. Đến cuối năm 1988 thì quan hệ giữa báo và Thường vụ Hội căng thẳng
cao độ, bởi Thường vụ cũng chỉ muốn “đá bóng giữa sân”, giữ marge an toàn rộng,
còn tôi thì quyết “đưa bóng ra biên”, đối mặt trực tiếp với đời sống phức tạp…
Cuối cùng quan hệ đổ vỡ…
Tôi
muốn dành một chương dài nói riêng về “vụ báo Văn nghệ”. Xin hẹn…)
(8)
*
Đầu
tháng 12-1988, lúc quan hệ giữa báo Văn nghệ và Ban thư ký Hội
Nhà văn đã rất căng thẳng, những động tác cuối cùng đang được ráo riết tiến
hành để cách chức Tổng biên tập báo (được gọi lịch sự là “ thuyên chuyển công
tác ”), trong một cuộc họp giữa Ban biên tập chúng tôi và thường trực Ban thư
ký, chị Ngọc Trai bấy giờ là Phó tổng biên tập nói:
– Các
anh nên chú ý: tờ báo bây giờ đang rất có uy tín, số lượng lên hàng chục vạn,
nó có hàng triệu độc giả.
Chính
Hữu, Phó tổng thư ký trực, trả lời:
–
Đừng vin vào số lượng. Một cô gái cởi truồng đứng ở ngã tư đường, cũng khối
người xúm lại xem.
Hôm
ấy trời rét, tôi đi giày da. Ở chiến trường những phen ác liệt, tôi vẫn được
tiếng là người bình tĩnh, trong quan hệ hàng ngày cũng được xem là biết tự kìm
chế. Nhưng lần này không nén được mình nữa, tôi đứng dậy, nện gót giầy đùng
đùng xuống sàn gỗ của phòng bầu dục gác hai nhà 65 Nguyễn Du, chỉ mặt anh ta,
mắng lại.
Nguyễn
Đình Thi can:
– Anh
Chính Hữu có lỡ lời, thôi anh Ngọc đừng giận quá.
Chính
Hữu nói mấy lời xin lỗi gì đó.
Tôi
ngồi xuống, cố kìm mình lại. Cuộc bàn bạc lại tiếp tục. Bàn cách sắp đặt cuộc
ra đi của tôi như thế nào!
Riêng
tôi, giận xong, lại buồn. Buồn nhiều hơn giận. Tôi biết Nguyễn Đinh Thi cũng
nghĩ về tờ báo chẳng khác gì Chính Hữu, nhưng nhẹ nhàng khôn khéo hơn, anh can.
Gần mười năm trước, vụ đổ vỡ Đảng đoàn Hội Nhà văn, anh cũng từng làm vai trò
ấy: người can gián, điều hòa. Còn Chính Hữu thật thà hơn, anh nói thẳng ý nghĩ
anh ra.
Chính
Hữu với tôi cũng có thể gọi là bạn quen đã rất lâu năm. Hồi 1956-57 đến 1962,
cùng nhà 4 Lý Nam Đế, Chính Hữu ở phòng Văn nghệ, tôi ở tạp chí Văn
nghệ Quân đội. Cái tập thể 4 Lý Nam Đế một thời trẻ trung, ấm áp, sống, làm
việc, đùa nghịch vô tư. Chúng tôi từng đồng lõa với nhau làm bao nhiêu vụ yêu
đương nghịch ngợm và man dại.
Ở
chiến trường khoảng 1967-68 tôi viết thư cho anh Văn Phác bấy giờ cũng đã vào
Nam Bộ: “Hết chiến tranh rồi, còn sống, thế nào cũng cùng trở về 4 Lý Nam Đế,
anh nhé!”. Tôi cũng hay viết thư ra Hà Nội cho Chính Hữu lúc này đã làm Trưởng
phòng Văn nghệ rồi Cục phó Cục Văn hóa Quân đội, nhắc những kỷ niệm xưa, và
nhiều lần giục anh chi viện thêm lực lượng viết trẻ vào cho chúng tôi. Cũng đôi
khi bực anh, chỉ yêu cầu có thế mà anh chần chừ quá, mãi 1971 mới gửi cho chúng
tôi mỗi Nguyễn Trí Huân.
Sau
1975, trở ra Hà Nội, tôi gặp lại một Chính Hữu đã khác, chậm chạp, bệ vệ và
công chức hơn. Đôi lần làm việc đã có vài va chạm nhỏ, tôi muốn nhanh, gọn, dứt
khoát, anh do dự, cân nhắc, “nghiên cứu” mãi… Nhưng cũng chưa có gì rạn nứt.
Cái quán tính của niềm hăng say trong chiến trường còn mạnh. Ngày tôi cưới vợ,
cả nhà 4 Lý Nam Đế xúm lại lo cho. Chính Hữu đứng làm chủ hôn. Đám cưới rất
buồn cười, mượn hội trường Ban Thống nhất trung ương ở Thuỵ Khuê, trên tường
còn treo nguyên đầy đủ ảnh Mác, Ănghen, Lênin và cụ Hồ, chỉ cất đi mỗi ông
Stalin…
Hình
như cho đến vụ Đề dẫn thì mọi sự mới rõ rệt. Trên tạp chí Văn nghệ Quân
đội lúc bấy giờ chỉ có hai bài phê phán kịch liệt Đề dẫn, cả hai đều
do Chính Hữu viết.
Sau
Đại hội Nhà văn lần thứ III, Chính Hữu được điều động từ quân đội ra làm Phó
tổng thư ký trực của Hội (cùng ra với Hữu Mai) để chấn chỉnh cái Hội đã bị tôi
làm hư hỏng.
Đến
chuyện báo Văn nghệ thì Chính Hữu trở thành người cứng rắn
nhất trong Ban Thường vụ. Tôi cũng là loại bướng, không khí ngày càng căng. Có
lần anh gửi cho tôi bài phát biểu của Bondarev, kèm theo mấy chữ bảo báo nên
đăng, anh cho đó là một bài thể hiện quan điểm đúng đắn. Tôi trả lời: nếu là
chỉ thị của Ban Thường vụ phải đăng thì xin có công văn, chữ ký và đóng dấu rõ
ràng. Mấy chữ viết thư tay, tôi sẽ coi như một lời khuyên, đăng hay không là
quyền quyết định và trách nhiệm của tổng biên tập.
Các
anh bảo tờ báo là tiếng nói của Ban Thường vụ. Tôi chủ trương: nó chịu trách
nhiệm trước Ban thư ký, Ban chấp hành và trước pháp luật, nhưng nó là tiếng nói
của cả nền văn học. Nó có tính độc lập tương đối của nó. Và chính Tổng biên tập
chịu trách nhiệm về cái phần tính độc lập tương đối đó. Báo Văn nghệkhông
phải là công báo của Hội Nhà văn. Nếu không, cần có Tổng biên tập làm gì?
Chính
cuộc va chạm đó dẫn đến việc thường trực Ban thư ký gửi một “tờ trình” gay gắt
lên Ban Bí thư Trung ương Đảng tố cáo báo Văn nghệ đã thoát
khỏi sự kiểm soát của Ban thư ký Hội Nhà văn, đã lọt vào bàn tay điều khiển của
Ban Văn hóa văn nghệ, của anh Trần Độ. Ban thư ký tuyên bố không chịu trách
nhiệm về tờ báo nữa. Dưới cái tờ trình nổi tiếng ấy, có chữ ký của ba người:
Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Nguyễn Khải.
Về
việc này, có mấy chuyện buồn cười.
Anh
Hoài Vũ là người làm việc rất lâu năm ở báo Văn nghệ, qua đến bốn,
năm đời Tổng biên tập, bảo:
– Thì
xưa nay có bao giờ Ban thư ký “chỉ đạo” tờ báo đâu. Chẳng hề nói đến bao giờ.
Sao bây giờ lại đòi chỉ đạo ráo riết thế!
Trong
hội nghị Ban chấp hành tháng 9-1988, Nguyễn Đình Thi yêu cầu Ban chấp hành biểu
quyết Ban chấp hành nhất trí tán thành nội dung Tờ trình đã gửi lên Ban bí thư
từ tháng 6-1988.
Anh
Nguyễn Văn Bổng không chịu. Anh bảo:
– Tôi
có đồng ý cái tờ trình ấy đâu mà biểu quyết nhất trí!
Bàn
cãi lung tung một lúc, Nguyễn Đình Thi lại nảy ra sáng kiến:
– Vậy
đề nghị hội nghị biểu quyết tán thành rằng Ban thư ký có quyền gửi một tờ trình
lên Ban bí thư Trung ương.
Ơ,
tôi ngạc nhiên. Gửi một tờ trình thì ai mà chẳng có quyền. Tôi cũng giơ tay nè.
Quay lại, thấy Nguyễn Khoa Điềm vẫn ngồi im, nhất định không chịu giơ tay. Điềm
nói:
– Tôi
cũng là uỷ viên Ban thư ký. Nếu là tờ trình của Ban thư ký thì chỉ cần Tổng thư
ký hoặc một phó thay mặt Tổng thư ký ký. Đằng này có ba người ký. Vậy là thế
nào? Vậy đấy không phải là một tờ trình của Ban thư ký. Đấy là một hành động có
tính chất bè phái của ba người ấy.
Tôi
phục lăn Nguyễn Khoa Điềm. Anh là người làm chính trị thật. Giỏi thế. Tôi vẫn
chỉ là cái anh nghệ sĩ tùy tiện, lang thang.
Nguyễn
Minh Châu, lúc này đã ốm nặng lắm, bảo tôi:
– Có
cái tờ trình đó là để đi đến diệt tờ báo đấy. Cậu chuẩn bị tinh thần đi là vừa.
Nhưng cứ phải giữ vững cho đến cùng, cho đến phút chót. Số cậu khổ đấy.
Châu
nói đến cái số khổ của tôi. Anh không hề nói đến cái số của anh. Những ngày ấy,
căn bệnh hiểm nghèo đã phá vỡ gần hết hồng huyết cầu của anh.
Cũng
về chuyện cái tờ trình đó, đâu vào khoảng tháng 10-1988, một hôm ngồi với
Nguyễn Khải ở 43 Đồng Khởi Sài Gòn, nói chuyện gần suốt buổi, Khải bảo tôi:
–
Nhiều suy nghĩ của Ngọc, mình tán thành cả, Ngọc cũng biết rồi. Nhưng việc ông
để cho tờ báo đi theo con đường ấy thì mình rất lo. Mình lo có những người,
những lực lượng muốn dùng tờ báo, dùng cả cái Hội của ta, cho những mục đích
chính trị riêng của họ. Rất nguy hiểm.
Tôi
nói:
–
Thôi được, những suy nghĩ, những mối lo của từng người trong chúng ta có thể
khác nhau. Nhưng trong quan hệ bạn bè và quan hệ cùng làm việc với nhau, có một
cái ranh giới không thể vượt qua được, nếu đã cùng tin nhau, cùng làm việc với
nhau vì một ý hướng chung. Ông ký tên dưới cái tờ trình nọ là ông đã vượt qua cái
ranh giới ấy rồi đấy. Như vậy là không được.
Khải
không nói gì nữa.
Gần
hai tháng sau, khi ở Hà Nội người ta đưa tôi đi khỏi báo Văn nghệ,
đột ngột Nguyễn Khải từ Sài Gòn gửi ra một bức điện: “Tôi không đồng ý thay
Tổng biên tập báo Văn nghệ”.
Tất
nhiên cái bức điện của vị Phó Tổng thư ký Hội ấy có làm cho một số người ở Hà
Nội khó chịu, nhưng nó chẳng có tác dụng gì. Có lẽ nó chỉ có một chút tác dụng
nào đó đối với chính Khải thôi.
Tôi
hiểu Khải, người bạn rất lâu năm của tôi, từ ngày “Ơ, cái thằng này nó biết đọc
tiếng Tây chúng mày ơi!” (9). Tôi hiểu bi kịch của Khải. Có lẽ trong cái cuộc
vừa qua, anh là người buồn và cô đơn nhất. Anh biết tất cả nhưng vừa biết vừa
thường làm ngược lại cái biết rất sắc sảo của anh. Anh cô đơn với chung quanh
nhưng chắc còn gay go hơn, buồn hơn, cô đơn với chính mình.
Có
thời gian Nguyễn Khải hiểu lầm anh Trần Độ, nghi rằng anh Độ muốn loại Khải ra
trong phương án dự kiến của anh. Nhưng tôi thì tôi biết rõ. Chính vào lúc quan
hệ giữa Khải và tôi đang căng, lại thêm sự xúc xiểm của một số kẻ trung gian,
anh Trần Độ nói với tôi: “Đừng nghĩ sai về Khải. Hãy đọc những cái Khải viết.
Cậu ấy có thể nói, làm thế này thế khác, nhưng trong cái viết, Khải vẫn rất rõ
ràng, mạnh mẽ. Đó mới là cái chính…”.
Gần
đây, một hôm ở Sài Gòn, Khải hỏi tôi:
–
Nghe nói sức khoẻ anh Độ yếu đi nhiều phải không?
Tôi
nghe trong giọng anh một mối lo chân thành, một tình cảm quý trọng thật sự.
Con
người như vậy đó. Chẳng đơn giản chút nào.
Chính
Hữu chắc chắn khác hẳn Nguyễn Khải. Khải chưa bao giờ, không bao giờ là công
chức. Anh vừa sống trong một guồng máy chính quyền, quân đội, nhẫn nhục chịu sự
chi phối của guồng máy nặng nề ấy, trông anh lúc nào cũng buồn buồn, có chút gì
đó như chán nản, lại vừa sống ngoài rìa bộ máy, thông minh và sắc sảo nhìn cái
bộ máy ấy bằng đôi mắt mỉa mai, một sự mỉa mai pha lẫn bất lực. Anh chưa bao
giờ là một nhà văn-chiến sĩ. Không làm được và cũng không muốn nhận cái chức
hiệu hùng hồn ấy; nhưng lại cũng không đủ sức làm một người tự do thật sự. Có
lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà một quyển tiểu thuyết gần đây của anh mang cái tên
vừa to tát vừa buồn: Một cõi nhân gian bé tí.
Nguyễn
Minh Châu cũng có một quyển tiểu thuyết chưa kịp viết, định lấy tên là Cõi
người. Châu muốn đắm mình, như một sinh linh bé nhỏ, trong cái đắm chìm khổ
đau kiếp người. Khải cũng nhìn thấy và muốn nói về cái cõi ấy, nhưng anh không
đủ sức, không dám thả hết mình vào đó như Châu. Anh vừa mỉa mai coi khinh cái
guồng máy, vừa vẫn cứ bám vào nó mà sống, đôi lúc còn tham gia sự vận hành của
nó nữa.
Khối
mâu thuẫn ở Khải dường như cũng là khối mâu thuẫn của không ít trí thức ở ta
bây giờ.
Chính
Hữu thì không được đến vậy. Anh bị công chức hóa sâu hơn, liên tục hơn, dài hơn
và đậm hơn nhiều. Tư thế công chức tận tụy và nghiêm túc giết đi gần hết cái
phần nhà thơ từng có thể tài hoa, con người vốn từng lãng mạn trong anh. Anh
cưỡng lại ngày một yếu ớt, và cuối cùng tự mình trở thành một bộ phận của cái
thế lực bắt con người phải quy phục mà chính anh từng là nạn nhân của nó.
Đấy
cũng là một thứ bi kịch, càng đáng buồn hơn.
Ở
Chính Hữu tôi thường thấy cùng một lúc hai thái độ sống chừng như đối nghịch:
anh không thích nhiễu sự, có phần an phận nữa là khác, nhưng lắm khi lại cũng
rất dữ dằn, quyết liệt gây sự. Tôi tin rằng trong con người ấy cũng từng có sự
giằng xé, nhưng sự giằng xé ngày càng yếu đi, mòn mỏi, đến gần như chẳng còn
gì.
Những
con người như vậy sẽ xa dần đời sống sinh động thực – không phải chỉ đời sống
xã hội hỗn độn bên ngoài. Họ xa dần, mất liên lạc dần và đến mất hẳn, tắt hẳn
mọi liên lạc với đời sống phức tạp và hạnh phúc, khát vọng và quằn quại bên
trong con người.
Lời
nói độc địa và hỗn xược của Chính Hữu coi công chúng thời ấy của báo Văn
nghệ chỉ là đám người u mê xúm quanh “cô gái cởi truồng đứng giữa ngã
tư đường” còn tờ báo thì chính là cô gái ô uế nọ, tôi tin rằng anh hoàn toàn
nghĩ thật, nói thật. Anh không hề lỡ lời đâu. Tôi dận gót giầy đùng đùng xuống
mặt sàn gỗ căn phòng gác hai 65 Nguyễn Du và hung hăng mắng lại anh, là một
hành động nóng giận tức thời của tôi lúc ấy. Nhưng rồi sau đó tôi buồn nhiều
hơn giận.
Không,
anh không hiểu nổi cuộc chiến đấu của chúng tôi, của tôi. Nói thế này thì nghe
kiêu căng quá, nhưng thật vậy: nó ở ngoài tầm với của anh. Biết làm sao?!
Trong
hội nghị Ban chấp hành Hội Nhà văn tháng 9-1988 họp nhờ ở hội trường nhà khách
Trung ương Đoàn 15 Hồ Xuân Hương, tuyệt đại đa số Ban chấp hành kết tội kịch
liệt báo Văn nghệ, thông qua một cái nghị quyết chấn chỉnh tờ báo
“về mặt tổ chức”, tức là sẽ cách chức người phụ trách báo, anh Nông Quốc Chấn
là người lên án báo dữ dội nhất. Đến giờ giải lao, ra hành lang, anh hỏi tôi:
– Tôi
nói thế, anh có giận không?
Tôi
cười:
–
Chẳng chuyện gì mà giận. Chỉ có điều anh lạc hậu quá, theo tôi anh chậm mất khoảng
mười năm đấy.
Về
sau tôi kể lại với Nguyễn Khoa Điềm. Điềm bảo:
– Anh
nói thế là còn ít quá đấy!
Quả
thực cuộc đi tới gian nan và kịch liệt của xã hội, mà văn học như một mũi thăm
dò tiên phong, đã chia rẽ chúng tôi quá xa. Có người bảo là bè phái. Tôi không
thấy như vậy. Tôi thấy đấy là một sự chia rẽ sâu sắc. Cần gọi cho đúng cái tên
của nó.
*
Trước
Đại hội Nhà văn lần thứ III vài tháng, anh Đào Duy Tùng, là Ủy viên Bộ Chính
trị, đứng đầu phụ trách công tác tư tưởng, có mời tôi đến chơi. Chắc không phải
“đến chơi”, bởi đến chơi thì mời về nhà riêng. Anh mời tôi đến chỗ làm việc của
Ban bí thư Trung ương Đảng, đường Nguyễn Cảnh Chân. Vậy tức là “làm việc”.
Tôi
biết sắp Đại hội Nhà văn rồi, các anh có lo lắng về tôi. Việc tôi đi khỏi
báo Văn nghệ vậy mà ầm ĩ khá rộng và lâu, đến gần Đại hội lại
càng rộ lên, căng hơn. Chắc chắn trong Đại hội – mà lần này là đại hội toàn thể
– nhiều người sẽ đặt lại vấn đề tờ báo. Thậm chí có nguy cơ một số không ít anh
chị em sẽ ly khai khỏi Hội, nếu việc báo Văn nghệ không được
giải quyết thỏa đáng. Và việc báo Văn nghệ thì trực tiếp liên
quan đến tôi. Tôi bỗng nhiên trở thành một thứ điểm trung tâm chú ý của hai
phía. Nhiều anh chị em muốn dựng tôi thành một thứ “ngọn cờ đấu tranh” (!). Cấp
trên thì lo không biết thái độ của tôi trong Đại hội sẽ như thế nào?
Anh
Đào Duy Tùng mời tôi đến hẳn là vì chuyện này thôi.
Kỳ
thực sau vụ báo Văn nghệ tôi muốn đứng ra ngoài cuộc. Có buồn,
bực bội ít lâu, nhưng rồi tâm trạng tôi lại thanh thản. Bởi vì tôi tin rằng tôi
đã làm xong một công việc cần thiết và đúng lúc, do tình thế giao vào tay tôi
một năm rưỡi ấy. Công việc đã làm ở báo có hay có dở, có đúng có sai, vụng về
và lầm lẫn cũng có, nhưng tôi cho rằng về cơ bản tờ báo Văn nghệ đã
làm tròn vai trò tất yếu của nó trong một bước đi tất yếu của xã hội và của văn
học. Bước ấy đã xong, văn học sẽ tự nó đi tiếp bước khác, có thể còn phức tạp,
gian nan, mệt mề hơn, nhưng không gì cản lại được nữa. Tôi tin. Hồi ấy, trên
một tờ báo, tôi có nói: “Tôi là người lạc quan”.
Phần
riêng tôi, tôi chỉ còn một lo lắng và đau khổ, lớn hơn nhiều: tôi vẫn chưa trở
lại viết được!
Anh
Lê Ngọc Trà từ Sài Gòn viết thư ra cho tôi:
“Ở
trong này anh em vẫn nhắc đến anh và biết tin vui buồn về anh. Anh em thương
anh nhiều. Riêng tôi, tôi nghĩ đợt này nếu anh có thì giờ tập trung viết một
cái gì đó, chắc sẽ rất hay. Văn học là nỗi đau mà. Người đang đau như anh có
nhiều điều để nói hay lắm. Huống chi ở anh vốn sẵn có chất trữ tình rất đậm và
sâu của người vùng Trung Bộ. Chất trữ tình ấy không nên thơ bay bổng bằng như
chất thơ xứ Bắc, nhưng nó hấp dẫn và cuốn hút lắm…”.
Tôi
gặp Lê Ngọc Trà lần đầu tiên là ở Maskova, sau khi đã đăng bài Văn học
và chính trị của anh ít lâu. Lê Ngọc Trà đang bảo vệ luận án tiến sĩ.
Đêm Maskova rét không thể tưởng, đâu đến âm 30 hay 35 độ. Chúng tôi dìu nhau đi
lang thang trên các hè phố vắng ngắt và băng đóng trơn như mỡ. Chúng tôi nói
với nhau về những triển vọng và khát khao của văn học ta. Tôi đề nghị Lê Ngọc
Trà sau bài Văn học và chính trị rồi, bây giờ chuyển viết tiếp
cho chúng tôi vấn đề Văn học và hiện thực. Trà bảo:
– Anh
suy nghĩ vậy là đúng rồi. Tôi cũng đang nghĩ vấn đề ấy. Phải lần lượt cố gắng
giải quyết một số vấn đề cơ bản anh ạ.
Trà
hỏi:
–
Tình hình ở nhà, sau nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, như thế nào?
Tôi
nói:
– Cái
nghị quyết ấy thật hay, nhưng có phần hơi sớm hơn tình hình chung. Cơ sở xã hội
cho một nghị quyết như vậy ở ta chưa có đủ. Cho nên tôi chắc sắp tới nó (cái
nghị quyết ấy) sẽ rất vất vả, thậm chí có thể bị đẩy lùi. Nhưng dầu sao cũng đã
cắm được một cái mốc mới. Quan trọng lắm…
Hơn
tháng sau, trở về Hà Nội, tôi nhận được bài Văn học và hiện thực của
Lê Ngọc Trà. Đó là một trong những bài lý luận văn học cơ bản nhất trên mặt
báo, suốt thời gian tôi làm Văn nghệ.
… Lê
Ngọc Trà bảo là tôi “đang đau”. Tôi rất hiểu anh: anh hoàn toàn không muốn nói
là tôi đau vì tôi mất chức, cũng không phải là nỗi đau của một phen trả giá. Cứ
cho là nỗi đau đi thì đấy là do tôi hiểu đời và hiểu người hơn, hay chính xác
hơn, tôi hiểu chính tôi hơn. Cuộc vật lộn vừa qua rốt cuộc, lạ thế, lại đưa tôi
đến chỗ đối diện với chính mình. Với cả cuộc đời mình.
Tôi
hiểu ra rằng đất nước, dân tộc này đang đối diện với chính mình. Văn học đang
đối diện với chính mình. Từng người cũng vậy. Tôi cũng vậy.
Đối
diện, và cố tự tìm hiểu chính mình, cuộc đời mình, toàn bộ hành trình và hành
trang của chính mình. Một sự cố gắng vào loại khó khăn nhất, ráo riết và đau
đớn nhất. Đòi hỏi dũng cảm lớn nhất.
Tôi
lại muốn đi lang thang. Hình như trong khi đi lang thang, dễ suy nghĩ hơn…
Cho
nên, thật tình tôi cho rằng sự lo lắng của các anh, của anh Tùng về cái “thái
độ” của tôi ở Đại hội Nhà văn sắp tới là lạc lõng và nhỏ nhặt quá. Tôi chẳng
quan tâm gì lắm đến chuyện ấy. Có quan trọng gì lắm đâu cái Đại hội, cả cái Hội
ấy nữa, mà các anh lo đến sốt vó thế!…
Quả
nhiên anh Tùng hỏi tôi dự kiến Đại hội sẽ thế nào? Theo tôi nên thế nào?
Tôi
nói thẳng với anh:
– Tôi
chẳng có ý kiến gì. Bởi vì, theo tôi, Đại hội lẫn cả cái Hội nữa chẳng quyết
định gì đối với văn học đâu. Có một cái Hội Nhà văn tốt hay không tốt thì về cơ
bản cũng chẳng làm sao đối với văn học cả. Các anh quá lo, là lầm. Khó nhất đối
với nhà văn là việc anh ta ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với cái “pháp
trường trắng” của anh, như Nguyễn Tuân nói. Đối mặt với nó, chỉ độc có mỗi mình
anh. Chẳng ai, chẳng thế lực, chẳng hội hè nào giúp được anh chút gì trong cuộc
đối mặt cô đơn và khủng khiếp đó. Bởi đó là cuộc đối mặt của anh với chính anh.
Bản chất của công việc sáng tác là vậy. Chỉ mong đừng có ai làm phiền nhiễu
thêm họ khi họ ngồi trước trang giấy, trước chính họ, trong cuộc đối chất đau
đớn, khắc nghiệt đó. Hội hè tuyệt nhiên chẳng hỗ trợ gì cho họ lúc ấy đâu. Hỗ
trợ cho họ lúc ấy, anh ạ – tôi nói – xin anh đừng ngạc nhiên, có khi chẳng hạn
lại là sự có mặt của một người đàn bà mà họ yêu say đắm, vô lý và tuyệt vọng…
Tôi xin lỗi anh, không biết anh có hiểu không?
Thế
đấy, vậy việc gì các anh phải quá lo lắng thế. Tôi e các anh nhầm. Vấn đề là ở
chỗ khác kia.
– Ở
chỗ nào? – Anh Tùng hỏi.
– Ở
chính người sáng tác.
– …?
– Anh
đã mời tôi đến, anh đã hỏi, thôi hôm nay tôi sẽ xin nói. Tôi sẽ nói về một vấn
đề có thể anh cho là lạc đề nhưng tôi lại nghĩ là quan trọng hơn nhiều.
Tôi
sẽ nói về giới trí thức, giới “sĩ phu” ở nước ta, mà cũng chỉ xin nói riêng
trong văn nghệ. Tôi muốn đề nghị Đảng nhìn lại tận gốc vấn đề này, bởi đây mới
là vấn đề gốc.
Hãy
lấy ví dụ như nước Nga, mà ta từng rất gần. Trước Cách mạng tháng 10, nước Nga,
dầu là nước Nga phong kiến, đã là một quốc gia độc lập lâu đời. Họ có một giới
sĩ phu đàng hoàng, cao lớn, độc lập. Những nhân cách đại thụ, đại biểu cho cả
dân tộc, cho cả nền văn minh không chỉ của nước Nga. Những Tolstoi và
Dostoievski, những Nekrassov và Tourgueniev, những Ghersen và Dobrolioubov,
những Leskov và Garchin. Chính vì có truyền thống lớn đó, mà sau Cách mạng, cả
trong những năm đen tối nhất dưới chế độ Stalin, họ vẫn còn những tài năng và
nhân cách sừng sững, có thể bị giết chết chứ không thể bị bẻ gục: những Bounin
và Pilniak, những Mandelstam và Tvardovski, những Soljenitsyn và Pasternak,
những Tsetaieva và Akhmatova, những Boulgakov và Eisenstein… Họ vẫn còn một nền
văn học và nghệ thuật lớn…
Giới
trí thức văn học nghệ thuật ở ta trước Cách mạng tháng Tám có một chỗ mạnh và
rất quan trọng: lòng yêu nước nồng nàn. Và cuộc cách mạng của chúng ta suốt mấy
chục năm qua chủ yếu là cuộc cách mạng cứu nước, giải phóng dân tộc. Hãy nhớ
lại xem: hầu hết lớp văn nghệ sĩ ta thường gọi là tiền chiến, những người tên
tuổi và tài năng nhất đều đi theo cách mạng và kháng chiến. Chúng ta chỉ mất
đôi ba người. Chẳng hạn trong hội hoạ, người tài năng nhất, Nguyễn Gia Trí,
không đi với kháng chiến. Nhưng ông cũng không theo giặc. Ông vào Sài Gòn, cặm
cụi vẽ, rồi sang Paris, vẫn cặm cụi vẽ. Trong âm nhạc, có lẽ chúng ta mất một
tài năng đáng tiếc: Phạm Duy… Nhưng cũng chỉ đôi ba người, đếm được trên đầu
ngón tay, vậy thôi. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Tô Hoài, Chế Lan
Viên, Nam Cao, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Bùi Xuân Phái, Văn Cao… đều đi với
Cách mạng, cho đến tận ngày nay. Thật quí, không dễ gì được thế.
Nhưng
đồng thời, tôi mạnh dạn nghĩ và hôm nay nói rõ với anh, về cơ bản lớp trí thức
văn nghệ tiền chiến ở ta cũng chỉ là lớp trí thức nhỏ bé của một nước thuộc địa
nhỏ bé. Một trong những nét tính cách bẩm sinh ở họ là sự ươn hèn. Một lớp sĩ phu
ươn hèn. Những Phan Bội Châu, những Phan Châu Trinh đã hết.
Trong
giới chúng tôi có một người cầm bút lão thành vẫn được tiếng là người cương trực
nhất. Tôi kính trọng ông. Đám tang ông, tôi đã làm rất to trên tờ báo của tôi.
Nhưng tôi cũng biết cái cương trực của ông, nói cho cùng, cũng chỉ là cương
trực… vặt. Người ta dại dột đi sơn cái Tháp Rùa, ông chửi vung lên. Xây nhà cao
tầng nhiều quanh Hồ Gươm, ông cũng lại chửi om lên, bảo là biến cái hồ đẹp thế
thành cái giếng mất… Vậy đó thôi. Chứ những chuyện đại sự quốc gia, đã bao giờ
thấy ông dám có tiếng nói lớn, độc lập. Boulgakov có thể ngửa tay xin Stalin
một chân kéo màn rạp hát để kiếm sống, nhưng nhà văn cổ điển của thời đại văn
học xô-viết ấy, trong quan điểm và sáng tác của mình, đến chết không hề chịu
lùi một li. Pasternak khi bị cả Hội Nhà văn Liên Xô la ó đuổi ra khỏi Hội vì
cái giải Nobel trao cho ông, đã viết mấy chữ gửi Hội Nhà văn: “Tôi hiểu hoàn
cảnh buộc các bạn phải làm việc này, tôi tha thứ cho tất cả các bạn”.
Còn
ông già tài hoa và cương trực của chúng tôi, ông biết ông vừa bị chế độ nghi
ngờ, khinh rẻ, lại vừa được chế độ vì nể, ông bèn “làm nũng” với chế độ, thỉnh
thoảng lại làm mình làm mẩy đôi chút. Thế thôi. Ít lâu trước khi mất, ông tâm
sự buồn rầu và chua chát: “Mình còn sống được đến ngay nay là vì mình biết…
sợ”.
Trong
mỗi vị “sĩ phu” ấy của chúng ta đều có một viên công chức nhỏ bé của Tchekhov…
Cái
chất viên chức nhỏ bé Tchekhov bẩm sinh đó, từ sau Cách mạng lại bị một loạt
cuộc vùi dập thô bạo liên tục: cải cách ruộng đất, chỉnh huấn, cải tạo này rồi
đến cải tạo khác, tư tưởng văn nghệ Diên An, các vụ án văn nghệ liên tiếp… càng
làm cho nhỏ bé thêm đi, co lại, gập xuống…
Chúng
ta không có một lớp trí thức tiền chiến lớn – đó là điều cần nhìn thẳng và suy
nghĩ.
Đến
thế hệ chúng tôi, dầu muốn dầu không, chúng tôi cũng kế thừa họ. Cả chất ươn
hèn lẫn sự khôn ngoan vặt của họ. Chúng tôi vừa coi thường họ vì chúng tôi biết
nhân cách của họ cũng chỉ lằng nhằng thế thôi, lại vừa học bài học đau đời của
họ: phải biết sợ để mà sống.
Sự kế
thừa ấy còn kéo dài đến cả thế hệ sau chúng tôi, trong tình thế bây giờ lại còn
pha thêm những tạp chất cơ hội và lưu manh; tất nhiên không phải ở tất cả,
nhưng đại thể là như vậy.
Các
anh thường hỏi: tại sao chúng ta chưa có tác phẩm lớn? Tôi xin trả lời: vì
chúng ta chưa có những nhân cách lớn.
Đổi
mới trong xã hội và trong văn nghệ mấy năm qua đã đem lại những gì? Có tác phẩm
khá hơn, có đời sống văn học nghệ thuật phong phú sinh động hơn. Nhưng nói thật
cũng chưa có gì ghê gớm đặc sắc lắm đâu. Và cũng không phải là cái quan trọng
nhất.
Thành
quả quan trọng nhất vừa qua, theo tôi, là sự bắt đầu nhận ra, bắt đầu ý thức và
khôi phục cái vị thế, cái tư cách đàng hoàng, độc lập, tự do, trách nhiệm của
người cầm bút, ở trong chính người cầm bút, trước đất nước, nhân dân và Đảng
của mình.
Đó là
sự giải phóng bên trong của người nghệ sĩ, tự do bên trong thật sự của người
cầm bút. Theo tôi, cái ấy đã bắt đầu, đã bắt đầu có. Và sự thức tỉnh đó là
quyết định, tức là không thể đảo ngược được, dầu còn rất nhiều đau đớn và trả
giá.
Nếu
phải nói một điều gì đó về Đại hội nhà văn sắp tới thì tôi xin nói: tôi tin Đại
hội sẽ diễn ra theo hướng đó. Và như vậy là đáng mừng, cho Đảng, cho đất nước,
cho văn học.
Nhưng
hình như các anh lại lo lắng về chính cái điều tôi cho là đáng mừng đó, các anh
vội tìm cách ngăn lại.
Có lẽ
cũng ít chế độ nào nâng niu chăm sóc bao cấp cho văn nghệ sĩ bằng chế độ ta.
Nhưng đó là kiểu nuôi nấng o bế một đám con hát, một đám cung văn. Chúng tôi
không cần cái ấy, chúng tôi chiến đấu cho một tư thế độc lập, tự do đàng hoàng
và đầy trách nhiệm của nhà văn trước đất nước…
Anh
Tùng lắng nghe, không cắt lời tôi. Cuối cùng anh bảo:
– Vấn
đề anh nêu ra là đáng suy nghĩ, có chỗ tôi đồng ý, cũng có chỗ chưa đồng ý. Lần
khác ta sẽ trao đổi tiếp.
Trước
khi ra về, tôi nói:
– Tôi
không còn làm báo Văn nghệ nữa. Nếu còn làm thì dự định của
tôi là sau mảng đề tài nông thôn, tôi sẽ triển khai tiếp vấn đề quan trọng hơn
là vấn đề trí thức…
Không
thấy anh nói gì.
Cũng
không thấy anh mời tôi đến chơi nữa.
*
Những
điều tôi nói với anh Đào Duy Tùng hôm đó thật sự là những điều tâm huyết của
tôi suốt thời gian tôi “nắm” tờ báo Văn nghệ. Khi không ở báo nữa,
đó vẫn là tâm huyết của tôi trong mọi việc tôi còn có thể làm chút gì đó cho
văn học. Và cũng là, trước hết, tự làm cho chính tôi. Tự giải phóng mình.
Trong
mỗi chúng ta, đều có một kẻ nô lệ. Lạ thay cái chế độ của chúng ta, cái chế độ
khát khao hơn bất cứ thời đại nào trước giải phóng cho đất nước, cho con người…
cuối cùng lại đi đến vùi dập, bóp nghẹt con người. Lại làm đậm thêm cái chất nô
lệ trong con người.
Tôi
biết, tôi tin rằng những người cầm bút, đặc biệt những cây bút trẻ, đã ý thức
ngày càng rõ điều ấy, và quyết phá vỡ ra. Mỗi người một cách, ở những mức độ
khác nhau.
Nguyễn
Khải rụt rè nói về “cái thời lãng mạn ấy”. Tính anh vốn thế, chẳng quyết liệt
bao giờ. Nhưng tôi nhận ra, đằng sau cái rụt rè còn mong manh ấy một cái cười
chua chát tự chế riễu mình. Được chừng ấy cũng đã là quý lắm rồi.
Nguyễn
Minh Châu lầm lì nhưng liều lĩnh, tuyên bố Ai điếu cho một thời văn nghệ minh
hoạ. Bài đưa ra tòa soạn, nhiều anh em rất ngại, nhưng tôi cứ quyết định đăng.
Bởi tôi biết Nguyễn Minh Châu cố một trận quyết rứt mình ra để đi tới, chuyển
sang một trận khác. Tôi cảm phục anh và biết tiếng nói của anh sẽ giúp thêm
nghị lực cho bao nhiêu người còn chần chừ.
Dương
Thu Hương vừa đằm thắm – ít ai viết được về người mẹ quê Việt chúng ta đậm sâu
như chị trong Những thiên đường mù – lại vừa đáo để, đến cả
hỗn xược – cũng trong chính Những thiên đường mù.
Phạm
Thị Hoài táo tợn muốn tháo bỏ tất cả mọi ràng buộc, cho đến cả những khu vực có
tính bản năng của con người. Cây bút nữ ấy chẳng chút xấu hổ muốn lột trần trụi
con người ra trước chính nó. Tôi biết nhiều lúc chị hơi quá thông minh và điệu
đà. Nhưng tôi ủng hộ chị. Cũng là một cửa mở cho sự giải phóng.
Nguyễn
Huy Thiệp thì đã hoàn toàn khác. Mọi giá trị từng được thờ cúng với anh đều trở
thành trần tục hết. Anh không ngại đến cả thô lỗ và tục tĩu khi lạnh lùng phanh
phui sự thật. Con dao mổ ấy quá sắc, quá lạnh, nhiều khi đến chối. Nhưng để bắt
đầu lại, làm lại một thế giới người cho ra người khác, tránh sao được những
cuộc phá vỡ có khi tàn bạo?
Tôi
đăng Thiệp không phân vân.
Những
sáng tác trên báo Văn nghệ thời ấy không phải cái nào cũng là
văn chương, – tôi biết. Nhiều người trách: tờ báo hạ thấp văn chương. Nguyễn
Đình Thi làm tạp chí Tác phẩm mới chủ trương văn chương phải
sang trọng.
Tôi
thì lúc này tôi nghĩ khác: cuộc cày xới thì ngổn ngang. Tôi chấp nhận cái ngổn
ngang ấy. Nó xới lên hơi đất hôi hổi của cuộc sống thực.
Rồi
đến một lúc mới có thể Bước qua lời nguyền và Nỗi buồn
chiến tranh.
Không
ai sang trọng được khi đang cày vỡ ruộng.
Lại
cũng có người trách: tôi tâng bốc quá đáng lớp trẻ, làm mất lòng bao nhiêu
người già.
Có lẽ
quả có thế thật. Tâng bốc thì không đúng. Nhưng đặt nhiều lòng tin vào họ thì
có. Tôi biết cuộc phá vỡ này quá quyết liệt, để lớp người đã nặng nợ nhiều với
quá khứ khó có thể đủ sức làm nổi.
Về
sau tờ báo bị kết tội gây bè phái chia rẽ làm rối tung nội bộ Hội Nhà văn. Tôi
thì tôi muốn nói chính xác hơn: nó làm phân hóa rõ rệt lực lượng trong cuộc đi
tới quằn quại dữ dội này của văn học. Cái tội đó, nó xin chịu.
*
Tháng
12-1988, sự nứt vỡ đã không còn cứu vãn được nữa. Những thế lực chống lại sự đi
tới đã căm tức đến cực độ. Sự phân hóa đã quá lớn.
Còn
tôi thì quá nhiều sơ hở vụng về để cho trận địa của mình bị tiến đánh từ mọi
phía. Một trong những vụng về nguy hiểm là tôi đã để cho tờ báo nhô lên quá
nhọn. Trong đội hình đi tới chung của báo chí, và có thể của cả xã hội lúc này
đang có phần bị đẩy chững lại. Trong chiến đấu, cái khối lồi lù lù như thế tất
sẽ bị gạt đi cho kỳ được.
Tôi
ra đi là phải.
Biện
pháp đã được dùng để đẩy tôi đi có thể là vụng về, thô bạo. Nhưng chẳng quan
trọng gì cái chuyện ấy. Có thể khéo hơn, lịch sự nhẹ nhàng hơn một chút. Nhưng
rồi tất cũng thế thôi.
Nhiều
anh chị em ấm ức bảo tôi cố kéo dài thêm. Trưa ngày hôm ấy, 2-12-1988, tôi nói:
–
Thôi, đủ rồi!
Trước
cuộc họp toàn thể tòa soạn, Chính Hữu đọc quyết định “thuyên chuyển công tác”
tôi. Tôi bảo:
– Tôi
chẳng chuyển đi đâu cả. Tôi chỉ thôi công việc ở đây.
Và
hỏi:
– Tôi
phải bàn giao công việc từ lúc nào?
Chính
Hữu trả lời:
–
Ngay bây giờ. Không phải bàn giao.
Tôi
có căng thẳng trong tâm trạng không? Có.
Nhưng
không phải vì công việc tờ báo đã qua. Việc ấy đã xong. Và đẹp. Tôi thanh thản.
Căng
thẳng là việc sắp đến của tôi, còn quyết liệt khó khăn vất vả đau đớn hơn
nhiều: Viết.
N.N.
—
Chú
thích:
6. Về
một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua (Văn
nghệ, số 23, ngày 09/6/1979).
7.
Cho đến nay, bài này chưa hề được công bố trên báo chí Nhà nước (Tạp chí
Lang Biang của Hội Nhà văn Lâm Đồng đăng được nửa đầu thì bị ngừng).
Nhà văn Lại Nguyên Ân đã tìm được một bản in rô-nê-ô, tác giả đã sửa những lỗi
in, và toàn văn bản Đề dẫn này đã được công bố trên mạng Talawas: Đề cương đề
dẫn thảo luận ở Hội nghị Đảng viên bàn về sáng tác văn học 1979
(chú
thích của Diễn Đàn).
8.
Khi đọc lại bản đánh máy của Diễn Đàn (tháng 6.2019) để sửa
những lỗi ty-pô, nhà văn Nguyên Ngọc chỉ viết thêm đoạn này để bạn đọc dễ
«chuyển tiếp» từ phần trên với phần dưới (chú thích của Ban biên tập).
9. Cuối
năm 1955, tôi đang ở Sư đoàn 324 tập kết ra Bắc, đóng ở Nghệ An, bỗng được lệnh
Tổng cục Chính trị gọi về Hà Nội để tham gia trại sáng tác về các anh hùng quân
đội. Gặp các bạn Nguyễn Khải, Hồ Phương, Phùng Quán, Mạc Phi, Hà Mậu Nhai, Xuân
Vũ, Lý Đăng Cao… cũng vừa từ các sư đoàn được gọi về. Ở Tổng cục bấy giờ có cái
thư viện nhiều sách tiếng Pháp. Từ chiến trường xa mới về, bao năm thèm sách,
tôi lao vào đọc say mê. Nguyễn Khải đi ngang qua nhìn thấy, reo lên: “Ơ, cái
thằng này đọc tiếng Tây chúng mày ơi!…”. Chúng tôi đánh bạn cùng nhau từ đó.
Nguồn: https://www.facebook.com/notes/diễn-đàn-forum/hồi-ký-nguyên-ng%E1%BB%8Dc-hoà-bình-khó-nh%E1%BB%8Dc-2/2407947902577018/?__tn__=H-R
Nguyên Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét