Phạm Viết Đào.
Hiện nay
trong các văn kiện lớn, những dịp quốc lễ, tiếp đãi ngoại giao, phía Việt Nam thường
vẫn nhắc tới sự viện trợ giúp đỡ của Trung Quốc trong 2 cuộc chiến tranh; Tụng ca
những sự giúp đỡ, viện trợ đó của Trung Quốc như là một trong những nhân tố cấu
thành không thể thiếu giúp Việt Nam dành thắng lợi nọ kia…
Bất cứ
dịp nào khi nói về 2 cuộc chiến tranh kể cả khi có mặt quan khách Trung Quốc và
khi không có mặt, cả khi mà 2 bên dàn quân đội đánh nhau chí tử, phía Việt Nam
lại cũng phải giơ cái tấm “hoành phi” thối tha này ra để chứng tỏ rằng: mình rất biết
điều, rất hữu hảo với Trung Quốc. Rằng Trung Quốc từng rất tốt, hữu nghị với Việt
Nam.
Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh khi thăm chiến trường Vị Xuyên vào năm 1987, thời điểm
mà 2 bên đang đánh nhau quyết liệt, những cuộc đụng độ cấp sư đoàn, thế nhưng vị
này đã huấn thị cho tướng lĩnh và bộ đội mặt trận Vị Xuyên:” “Trên biên giới,
phía bên kia họ bắc loa chửi ta và kể công, nếu bộ đội ta cứ chửi lại, bắn lại
thì không làm được công tác tư tưởng. Chừ họ chửi một, các đồng chí chửi
lại mười; họ bắn một, các đồng chí bắn lại mười, cứ như thế này thì không làm
được công tác tư tưởng, không giải quyết dứt điểm được tình hình”. “Họ bắc loa
chửi ta thì ta nhắc lại truyền thống và quá trình đoàn kết hữu nghị giữa hai
nước; họ bắn sang ta bằng đạn pháo, thì ta "bắn lại" bằng tình hữu
nghị! Nhất định phải làm mọi cách để nối lại tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai
đất nước, hai dân tộc Việt-Trung…” ( Đại tướng Lê Đức Anh với
vấn đề Trung Quốc và biển Đông- https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trung-quoc-va-bien-dong-219675.html)
Góc trái: Cao điểm 772 ( Đồi thịt băm); Góc phải Cao điểm 685 ( Lò vôi thế kỷ)-Nơi xảy ra ác chiến giữa bộ đội ta và quân Trung Quốc trong chiến dịch MB 84 ( 12/7/1984)
Mặc dù Trung Quốc tập trung khoảng
60 vạn quân vào một giải đất nhỏ hẹp Vị Xuyên chiều dài quãng 20 km, có chỗ quân
Trung Quốc lấn sâu vào đất Việt Nam tới 5 km mà vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức
Anh thời điểm đó vẫn cứ làm công tác tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ tại đây, chiến trường đã có
khoảng 5000 cán bộ đã ngã xuống:” Thà rằng họ đánh sâu vào nội địa ta như Pôn Pốt đánh
ta ở biên giới Tây Nam thì ta nói họ là xâm lược và ta kêu gọi chống xâm lược
thì dễ. Đằng này qua thăm dò, khảo sát trực tiếp, qua tin tức và phân tích tình
hình nhiều mặt, tôi thấy rằng họ không có ý đồ xâm lược, mà họ gây xung đột
biên giới với ta nhằm một mục đích khác, ngoài ý đồ xâm lược…”
(Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề
Trung Quốc và biển Đông- https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trung-quoc-va-bien-dong-219675.html)
Sau thế chiến thứ 2, Mỹ chỉ viện trợ cho
Tây Âu có 4 tỷ USD nhưng đã vực dậy châu lục này bị tàn phá nặng nề bởi chiến
tranh; Sự giúp đỡ này của Mỹ đã không tạo ra bất cứ thứ xiềng xích gì cả về
phương diện chính trị, quân sự, vật chất tinh thần từ phía Mỹ áp đặt lên châu lục
của số lượng dân cư quãng gần 500 triệu dân.
Nhật Bản, cùng dựa vào sự viện trợ của Mỹ
để vươn lên thành một trong các cường quốc hang đầu thế giới về kinh tế. Sự
giúp đỡ đó của Mỹ không hề biến quốc gia này vốn là kẻ “tử thù” trong thế chiến
hai, thành một thứ “con sen, đứa ở” của Hoa Kỳ, mở mồm ra là phải tụng ca ơn huệ.
Sự giúp đỡ bẳng tiền bạc đó không biến con dân của các quóc gia này thành bia đỡ
đạn cho chính giới Mỹ giống như Trung Quốc: đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng…
Cả Tây Âu và Nhật, trên phương tiện truyền
thông chúng ta chưa hề thấy một chính khách nào lên tiếng cảm ơn sự viện trợ vô
tư hào hiệp của Mỹ sau thế chiến thứ hai. Có vẻ như họ coi đó như một thứ nghĩa
vụ người Mỹ phải có trách nhiệm san sẻ, đóng góp tái thiết chiến tranh. Còn ở Việt
Nam thì từ chủ tịch nước, tổng bí thư, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao cho tới dân thường, từ người già đến trẻ nhỏ, từ bác nông dân chân lấm tay
bùn đến các văn nghệ sĩ ăn trắng mặc trơn, hệ có dịp là phải tụng ca vô điều kiện
về Trung Quốc, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình…; Ai không thầm nhuần, quán triệt
điều này rất dẽ bị chấm điểm “kém lập trường” lý lịch bị khuyên đen thậm chí còn bị bỏ tù vì viết blog phân tích sự xấu xá của chính giới Trung Quốc như blogger Phạm Viết Đào, bị bảo hiểm cướp mất 15 tháng lương hưu trong thời gian thụ án phạt tù...
Vào giai đoạn cuối của cuộc khánh chiến
chống Pháp, sau khi Trung Quốc tuyên bố giành được chính quyền tại Trung Hoa đại
lục 1/10/1949. Bằng chiến dịch giải phóng biên giới, Việt Nam dỡ phá tung hang
lang để nối chiến khu Việt Bắc với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Do sự thông
thương này mà Việt Nam thoát được sự cô lập ngoại giao được các quốc gia trong cái
phe XHCN công nhận. Sau chiến dịch biên giới, Việt Nam chính thức tiếp nhận vũ
khí hạng nặng từ Trung Quốc, Liên Xô, trước đó vũ khí, quân trang có được một số
mua qua con đường buôn lậu từ Thái Lan do bà con Việt kiều tham gia.
Qua các tư liệu lịch sử để lại, sự giúp
đỡ vũ khí của Trung Quốc trong giai đoạn 1950-1954 là do có sự đổi chác giữa
Stalin-Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh tại Liên Xô. Stalin đề nghị Mao cấp vũ khí
cho Việt Nam, chủ yếu là vũ khí Nhật và Tưởng và được Liên Xô bù trả cho vũ khí
Liên Xô.
Không chỉ giúp đỡ vũ khí, khí tài, lương
thực thực phấm Trung Quốc còn cử đoàn cố vấn quân sự cao cấp sang Việt Nam, can
thiệp sâu vào các trận đánh và sắp đặt đội ngũ cán bộ: trọng dụng ai, loại bỏ
ai…Mầm mống hình thành các phe nhóm” thân Trung” có từ trong cuộc kháng chiến
chống Pháp.
Đừng nghĩ một chiều Trung Quốc giúp Việt
Nam; Sau chiến dịch biên giới, bộ đội Việt Nam còn giúp tiễn trừ tàn quân Quốc
dân đảng của Tưởng Giới Thạch còn ẩn náu tại nhiều vùng rừng núi phía nam Trung
Quốc. Máu của bộ đội Việt Nam đã đổ không ít trong các cuộc tiễu trừ tàn quân
Quốc dân Đảng ở phía nam Trung Quốc.
Có một thứ giống như là “của hồi môn” mà
Việt Nam giúp cho Trung Quốc cộng sản được thừa hưởng từ chính quyền Quốc dân đảng,
đó là Hiệp định sơ bộ ký 6/3/1946 mà
Chính phủ Hồ Chí Minh đã ký thỏa thuận với Chính phủ Pháp, với Quốc dân Đảng…Hiệp
đình này cùng Hiệp định Hoa-Pháp ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, đã mang lại các lợi ích sau đây cho Quốc
dân đảng và sau đó thụ hưởng đó là chính quyền Trung Quốc của Mao:
·
“Pháp trả lại cho Tưởng các tô giới của Pháp trên đất Trung Hoa
là: Hán Khẩu, Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, Sa Diện và nhượng
lại quyền khai thác lợi tức kinh tế cũng như quyền sở hữu tại toàn bộ tuyến
đường sắt Hải Phòng - Côn Minh cho Trung Quốc.
·
Pháp từ bỏ một số quyền lợi kinh tế trên đất Trung Quốc và
nhượng lại những quyền lợi đó cho Trung Quốc.
·
Pháp cũng từ bỏ quyền lãnh sự tài phán đối với công dân Pháp
sống tại Trung Quốc (quyền lãnh sự tài phán là một đặc quyền bất bình đẳng,
theo đó công dân Pháp sống tại Trung Quốc nếu phạm tội thì sẽ đưa về lãnh sự
quán Pháp để xét xử chứ không xử bằng luật pháp nước sở tại)
·
Đồng thời, Trung Quốc cũng sẽ được một số quyền lợi ở miền Bắc
Việt Nam như: Được quyền khai thác kinh tế tại một đặc khu của cảng Hải Phòng
và Hải Phòng sẽ là một hải cảng tự do để Trung Quốc có thể ra vào buôn bán,
hàng hoá của Trung Quốc nhập qua Miền Bắc Việt Nam sẽ không cần phải đóng thuế.
·
Ngược lại, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đồng ý cho Pháp thay thế
quân Trung Hoa giải giáp quân Nhật tại miền Bắc Việt Nam, việc thay quân sẽ
diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày 15 tháng 3 năm 1946, kỳ hạn chậm nhất sẽ là ngày
31 tháng 3 năm 1946 (Tuy nhiên, trên thực tế, Quân Trung Hoa Dân Quốc vẫn còn
đồn trú tại miền Bắc Việt Nam cho đến ngày 15/6/1946 thì người lính cuối cùng
của Trung Quốc mới rời khỏi Bắc Việt, trong thời gian Quân Trung Quốc còn ở
Việt Nam đồn trú, ngày 18/3/1946, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã cử một
phái đoàn sang Trùng Khánh để giữ quan hệ hoà hảo với Trung Quốc)…”
Hiệp định
sơ bộ chấp dứt quyền khai thác tuyến đường sắt Côn Minh-HàKhẩu do Pháp đầu tư xây
dựng từ 1911, theo dạng BOT; Tuyến đường sắt này Pháp được quyền khai thác 100 năm
cho tới 2011, theo các điều khoản ký kết giữa Pháp và Mãn Thanh. Thế nhưng từ sau
năm 1946, Pháp đã nhượng lại cho Quốc dân đảng và sau 1949 đã trở thành tài sản
của chính quyền Trung Hoa cộng sản.
Qua Hiệp định sơ bộ 1946, cuộc kháng chiến, mồ hôi xương máu của
nhân Việt Nam đã mang lại biết bao lợi ích cho Trung Quốc của Mao Trạch Đông trong
giai đoạn 1946-1954. Nếu hạch toán chi ly giữa những thứ Trung Quốc giúp Việt Nam
trong kháng chiến chống Pháp, với những thứ Việt Nam mang lại cho Trung Quốc thì
đã chắc gì Việt Nam nợ Trung Quốc?
Về mặt ngoại giao, nhờ vào cuộc khánh chiến chống Pháp của nhân dân
Việt Nam mà tạo thế cho Trung Quốc được nhận cái quyền “ bảo kê”, sắm vai “ ông
bầu” để đứng ra mặc cả với Stalin tại Maxcova giai đoạn 1950-1953; mặc cả với Pháp-Mỹ
tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954?
Từ góc nhìn sử học, chúng ta phải thấy được xương máu, vị thế địa
chính trị của Việt Nam trên bàn cờ chính trị thế giới của giai đoạn lịch sử này
đã giúp Trung Quốc, một quốc gia đông nhất thế giới, diện tích đứng thứ 4-5 vừa
bị xéo dày dưới gót dày của nhiều quốc gia phương tây như giun dế…trở thành “ đại
ca’, “anh chị” được quyền sinh quyền sát dân tộc khác…
P.V.Đ
( Còn nữa…)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét