CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc.
Hà Nội, ngày 31/05/2017
ĐƠN KHIẾU NẠI ( Lần 3)
Kính gửi: - Bí thư thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải
-Chủ tịch UBNDTP Hà Nội Nguyễn Đức Chung
-TÒA ÁN HÀNH CHÍNH HÀ NỘI
-Giám đốc Công an TP Hà Nội
Tôi là Phạm
Viết Đào
Địa chỉ: Nhà 2 ngõ 460/7/39 Thuỵ Khuê, Tây
Hồ, Hà Nội; Số CMND: 010402198, ĐT: 0912818142;
Ngày 21/1/2016 tôi đã gửi Đơn khởi kiện Quyết định số 56/ QĐ-LĐTBXH ngày
18/01/2016 do Giám đốc Sở Lao động-Thương binh-Xã hội Hà Nội ký giữ nguyên Quyết
định số 1454/BHXH-ĐC ngày 24/9/2014 của Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội đã cắt 15
tháng lương hưu của tôi; Ngày 6/4/2016 tôi đã nộp án phí và đã nộp biên
lai gốc cho Tòa…
Ngày 16/12/2016 tôi đã nhận được giấy báo của
Tòa Hành chính Hà Nội do Thẩm phán Hoàng Chí Nguyện ký.
Tôi đã có mặt tại Tòa và được cán bộ của
Tòa cho biết: Đơn khởi kiện của tôi chưa đưa ra xét xử là do Giám đốc Sở Lao động
Thương binh Xã hội Hà Nội không hợp tác với Tòa theo quy định của luật pháp.
Tôi khởi kiện Giám đốc Sở Lao động-Thương
binh Xã hội Hà Nội vì đã ra quyết định giải quyết khiếu nại số 56 công nhận Quyết
định Quyết định 1454 của Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội cắt 15
tháng lương hưu của tôi; Quyết định 1454 đã áp dụng sai, trái Điều 62 của LBHXH 2006, Điều 15 và
Điều 20 của Luật bảo hiểm Xã hội 2006; Trái Nghị định 152/2006/NĐ-CP; Trái Điều 258 của Bộ
Luật Hình sự và Điều 9 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003; vi phạm Điều 32 Hiến pháp 2013 …
Điều
15, mục 3 của Luật Bảo hiểm 2006 quy định Quyền của người lao động đã đóng bảo
hiểm bắt buộc:” Nhận lương hưu và trợ cấp
bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời;”
Điều 20. Trách
nhiệm của tổ chức bảo hiểm xã hội tại mục 3 quy định:” thực hiện việc trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận
tiện và đúng thời hạn;”
Quyết định 1454 của Bảo hiểm Xã hội Hà Nội đã căn cứ vào “khoản
11, mục 6 của Thông tư 19/2008/TT- LĐTBXH”;
Thông tư 19 là một văn bản hướng dẫn pháp luật trái pháp luật của Bộ Lao động
Thương binh Xã hội...
Điều 3 Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2006 quy định: “Nguyên
tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản
quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.” Thông tư 19 đã hướng dẫn
trái trái với 4 bộ luật hiện hành trong đó có Luật bảo hiểm xã hội 2006…
Bản án phúc
thẩm số 305/2014/HSPT ngày 9/6/2014 của Tòa án nhân dân tối cao-Tòa phúc thẩm
Hà Nội đã quyết định:” Áp dụng khoản 2 Điều
258; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46, Điều 47 Bộ Luật Hình sự, để phạt tù
tôi; bản án không hề có điều nào buộc, xử phạt cắt lương hưu của tôi.
-Điều 9 của Bộ Luật Tố tụng
Hình sự 2003 quy định:” Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật…”
Như vậy,
Giám đốc Sở Lao động-Thương binh Xã hội Hà Nội ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 56/
QĐ-LĐTBXH ngày 18/01/2016: giữ nguyên Quyết định số 1454/BHXH-ĐC ngày 24/9/2014
của Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội” là trái pháp luật, là xâm phạm quyền lợi hợp pháp
của công dân Phạm Viết Đào.
Nếu khiếu
nại lần thứ 3 này của tôi không được Tòa án hành chính Hà Nội xử lý theo luật định,
tôi sẽ tiến hành TỌA KHÁNG trước Tòa để yêu cầu Tòa tuân thủ pháp luật: Mở
phiên tòa xử theo yêu cầu Đơn khởi kiện Giám đốc Sở Lao động-Thương binh xã hội
Hà Nội của tôi đã được Tòa tiếp nhận cách đây gần một năm rưỡi.
Đây là một việc làm bất đắc dĩ đối với tôi do việc tôi bị Bảo hiểm Xã hội
Hà Nội tước đoạt trái pháp luật khoản tiền khoảng 100.000.000 đ ( một trăm triệu
đ) tiền lương hưu và việc Tòa án Hành chính Hà Nội đã nhận đơn, đã yêu cầu tôi
nộp áp phí nhưng không đưa ra xét xử đã đẩy tôi vào tình thế bị mất “ cả chì lẫn
chài”.
Người làm đơn:
Phạm Viết Đào.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc.
Hà Nội, ngày 21/01/2016
Kính gửi: TÒA ÁN HÀNH CHÍNH TP HÀ NỘI
ĐƠN KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
(Khởi kiện Quyết định số 56/ QĐ-LĐTBXH ngày 18/01/2016 do Giám đốc Sở Lao động-Thương binh-Xã hội Hà Nội ký giữ nguyên Quyết định số 1454/BHXH-ĐC ngày 24/9/2014 của Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội… )
Kính gửi: Toà Hành chính-Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
Tôi là Phạm Viết Đào
Địa chỉ: ......
Cơ quan bị kiện: Giám đốc Sở Lao động-Thương binh-Xã hội Hà Nội
Địa chỉ: 75, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
Khởi kiện Quyết định giải quyết khiếu nại số 56/QĐ-LĐTBXH ngày 18/01/2016 của Giám đốc Sở Lao động-Thương binh-Xã hội Hà Nội vì:
-Đã giữ nguyên nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Hà Nội…
-Giữ nguyên “Quyết định hành chính số 1454/BHXH-ĐC ngày 24/9/2014 của Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Hà Nội ký đã cắt lương hưu của tôi trong thời gian tôi bị tù từ ngày 13-6-2013 tới 30/9/2014’;
Căn cứ pháp lý khởi kiện:
Căn cứ pháp lý 1:
Bản án phúc thẩm số 305/2014/HSPT ngày 9/6/2014 của Tòa án nhân dân tối cao-Tòa phúc thẩm Hà Nội đã quyết định:” Áp dụng khoản 2 Điều 258; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46, Điều 47 Bộ Luật Hình sự, xử phạt: bị cáo Phạm Viết Đào 15 ( mười lăm tháng) tù về tội “ Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2013.”
Trong bản án phúc thẩm số 305 của Tòa phúc thẩm không có điều nào quy định xử phạt cắt lương hưu của tôi trong thời gian tôi bị án phạt tù;
‘Điều 258; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46, Điều 47 Bộ Luật Hình sự” không có điều khoản nào quy định: Người bị án phạt tù đã nghỉ hưu, được hưởng lương hưu phải bị cắt lương hưu khi bị án phạt tù ?
Căn cứ Điều 9 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định:”Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật..
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực…”
Khi Điều 258 của Bộ Luật Hình sự và Tòa phúc thẩm Hà Nội tuyên không quyết định cắt lương hưu của tôi mà Giám đốc Bảo hiểm xã hội Hà Nội đơn phương ban hành quyết định Quyết định hành chính số 1454/BHXH-ĐC ngày 24/9/2014, cắt lương hưu của tôi trong thời gian tôi bị tù từ ngày 13-6-2013 tới 30/9/2014” là: vi hiến; vi phạm Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự; vi phạm Luật bảo hiểm xã hội; Vi phạm Nghị định 152/ND-CP; Vi phạm Quyết định nghỉ hưu số 20001205609/QD-BHXH do Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội ký ngày 26/5/2012 tại Điều 1 của Quyết định này quy định: Tôi Phạm Viết Đào được hưởng lương hưu hàng tháng kể từ ngày 1/6/2012…
Căn cứ pháp lý 2:
Bảo hiểm Xã hội Hà Nội đã áp dụng biện pháp hình sự, cưỡng chế thi hành án bổ sung cho quan hệ giao dịch dân sự…
Quan hệ giữa cá nhân tôi, công dân Phạm Viết Đào và Giám đốc bảo hiểm Xã hội Hà Nội là quan hệ hợp đồng dân sự; Thế nhưng Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội đã áp dụng biện pháp hình sự; thi hành án xử phạt bổ sung, cưỡng chế trá hình, tước đoạt lương hưu của tôi trong 15 tháng; trong khi bản án của Tòa phúc thẩm Hà Nội, cơ quan duy nhất có thẩm quyền ban hành quyết định hình phạt không tuyên hình phạt bố sung này…
Hiến pháp 2013 tại Điều 32 quy định:
“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…”
Số tiền mà tôi đóng bảo hiểm cho cơ quan bảo hiểm xã hội suốt 37 năm tôi công tác để khi tôi về hưu được hưởng lương hưu là quan hệ hợp đồng dân sự;
Quan hệ dân sự là quan hệ 2 bên bình đẳng, không bên nào được quyền áp đặt cho bên nào; không bên nào được quyền tự ý thay đổi hợp đồng, quyết định đã ký kết để làm lợi cho phía mình, gây thiệt hại cho đối tác hợp đồng mà không có lý do khách quan được pháp luật cho phép…
Trong suốt 37 bảy năm công tác, tôi đã đóng bảo hiểm đầy đủ.
Tôi đã nhận Quyết định nghỉ hưu số 20001205609/QD-BHXH do Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội ký ngày 26/5/2012 tại Điều 1 của Quyết định này quy định: được hưởng lương hưu hàng tháng kể từ ngày 1/6/2012…
Như vậy việc Giám đốc bảo hiểm Hà Nội ban hành Quyết định hành chính số 1454/BHXH-ĐC là vi phạm pháp luật, xâm hại, tước đoạt quyền lợi hợp pháp của cá nhân tôi…
Căn cứ pháp lý 3:
Luật bảo hiểm Xã hội 2006 ( LBHXH2006) phần “Phạm vi điều chỉnh” tại Điều 1…không đưa những người hưởng lương hưu trí bị can án hình sự vào diện phải bị điều chỉnh lương, cắt lương;
-“ Điều 1. Phạm vi điều chỉnh:
1. Luật này quy định về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.
2. Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm mang tính kinh doanh. “
Căn cứ pháp lý 4:
Luật Bảo hiểm Xã hội 2006 tại Điều 15 quy định:
“Điều 15. Quyền của người lao động
Người lao động có các quyền sau đây:
1. Được cấp sổ bảo hiểm xã hội;
2. Nhận sổ bảo hiểm xã hội khi không còn làm việc;
3. Nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời;
7. Khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội;
Căn cứ pháp lý 5:
Quyết định 1454 của Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội đã áp dụng sai, trái tinh thần nội dung Điều 62 của LBHXH 2006; ( Điều này đã được chính sửa thành Điều 64 của Luật Bảo hiểm 2014 và không có mục dừng trả lương hưu cho người bị án phạt tù )
Điều 62 của Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định: “Tạm dừng” chứ không “cắt hẳn” lương hưu
Nguyên văn Điều 62- LBHXH 2006:
“Điều 62. Tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng
Người lao động đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng bị tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1.Chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo;
Trong Luật bảo hiểm xã hội không quy định mốc hoàn trả lương hưu “được tính kể từ tháng liền kề sau tháng người bị án phạt tù chấp hành xong án phạt tù”?
5/ Việc trả lương hưu cho người bị án phạt tù được tiếp tục thực hiện sau khi thực hiện xong bản án được quy định tại Điều 33 của Nghị định 152/2006/NĐ-CP; Nghị định không quy định mốc trả lương gián đoạn giai đoạn trong thời gian chịu án phạt tù mà ghi rõ là “ tiếp tục” trả lương hưu;
Nguyên văn Điều 33 của Nghị định 152/2006/NĐ-CP:
“Điều 33. Tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng theo Điều 62 Luật Bảo hiểm xã hội được quy định như sau:
1. Người lao động đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng bị tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo;
2. Lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng được tiếp tục thực hiện khi người bị phạt tù đã chấp hành xong hình phạt tù hoặc khi người được toà án tuyên bố là mất tích trở về hoặc người xuất cảnh trở về định cư hợp pháp.”
Điều 33 của Nghị định 152 không hướng dẫn mốc hoàn trả lương hưu “được tính kể từ tháng liền kề sau tháng người bị án phạt tù châp hành xong án phạt tù” như Quyết định 1454 của Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội đã ban hành.
Căn cứ pháp lý 6:
Quyết định 1454 đã căn cứ vào khoản 11, mục 6 của Thông tư 19/2008/TT- LĐTBXH; một văn bản hướng dẫn pháp luật trái pháp luật của Bộ Lao động Thương binh Xã hội…
Nguyên văn của hướng dẫn thực hiện của mục 11, khoản 6:
“ Thời điểm tiếp tục thực hiện lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng đối với người được tiếp tục thực hiện hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng quy định tại khoản 2 Điều 33 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP được tính kể từ tháng liền kề sau tháng người bị phạt tù chấp hành xong hình phạt tù hoặc tháng người được toà án tuyên bố là mất tích trở về (theo ngày tháng ghi trong quyết định) hoặc tháng người xuất cảnh trở về định cư hợp pháp (theo ngày tháng nhập cảnh).”
Thông tư 19/2008/TT- LĐTBXH đã hướng dẫn tùy tiện, sai Điều 33 Nghị định 152, trái Điều 62 của Luật BHXH.
Căn cứ vào Điều 16 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Hà Nội, ngày 03 tháng 06 năm 2008 quy đinh nguyên tắc ban hành Thông tư:
“ Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:
1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
2. Quy định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách;
3. Quy định biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao
Tại Điều 3 của “Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật” quy định về “Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.”
Nội dung hướng dẫn tại khoản 11, mục 6 của Thông tư 19 của Bộ Lao động Thương binh Xã hội đã ban hành là trái, “không thống nhất” với Điều 33 của Nghị định 152; trái với Điều 62, Điều 15 của Luật Bảo hiểm Xã hội vì: cả 2 văn bản trên không quy định cắt lương hưu của người chịu án phạt tù;
Thông tư 19 còn trái với Điều 258 của Bộ Luật Hình sự; trái với Điều 9 Bộ Luật tố tụng hình sự vì quy định này là một hình thức hình phạt bổ sung, trá hình tước đoạt quyền lợi hợp pháp của tôi Phạm Viết Đào, đó là 15 tháng lương hưu.
Giám đốc Bảo hiểm Xã hội không được căn cứ vào một Thông tư trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của tôi.
Do vậy, việc Giám đốc Sở Lao động-Thương binh xã hội Hà Nội ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 56/QĐ-LĐTBXH là sai, trái hiến pháp và nhiều bộ luật hiện hành.
Căn cứ vào các các cơ sở pháp lý đã nêu, tôi đề nghị Tòa án hành chính thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử để phán xử:
- Buộc Giám đốc Sở Lao động-Thương binh Xã hội Hà Nội hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 56/QĐ-LĐTBXH ký ngày 18/1/2016;
-Giám đốc Sở Lao động-Thương binh xã hội Hà Nội phải chịu trách nhiệm buộc Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội hủy Quyết định 1454/BHXH-DC ký ngày 24/9/2014 vì ban hành trái pháp luật và vi hiến;
-Tòa buộc Giám đốc Sở Lao động-Thương binh xã Hà Nội buộc Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội hoàn trả lương hưu của tôi bị cắt trong 15 tháng; việc cắt 15 tháng lương hưu của tôi là trái trái pháp luật, là vi hiến;
- Tòa buộc Giám đốc Sở Lao động-Thương binh xã Hà Nội buộc Giám đốc Bảo hiểm Hà Nội phải bồi thường thiệt hại cho tôi vì sự trả chậm số lương của 15 tháng này theo lãi suất ngân hàng không kỳ hạn, số tiền lãi tính từ 31/7/2013 và chi phí án phí mà tôi phải nộp cho Tòa./.
Người làm đơn:
Phạm Viết Đào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét