Nhân đọc ‘Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn’: Tổ tiên ta giỏi quá!
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Thị trường sách gần đây xuất hiện khá nhiều tác phẩm văn thơ của các tác giả không phải là nhà văn chuyên nghiệp và đã ở tuổi xưa nay hiếm. Tuy thế một số tác phẩm của họ thực sự rất đáng đọc. Cuốn Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn (viết tắt Huyền thoại KTVM) của Thâm Giang Trần Gia Ninh do NXB Văn học xuất bản năm 2015 là một tác phẩm như vậy.
Sách dầy 432 trang khổ 14,5×20,5 cm. Bìa một nổi bật với hình vẽ một phụ nữ khỏa thân ở tư thế quỳ chụm chân, dáng e lệ. Tên sách ngoài dòng chữ Việt còn in hai hàng dọc chữ vuông kiểu chữ Hán, khiến người đọc dễ đoán ra đây là sách chuyện lịch sử thời xa xưa. Thế nhưng chữ vuông thứ nhất với bộ Kim bên trái, bộ Thiếp (vợ lẽ) bên phải đã lập tức gây chú ý ở những người biết chữ Hán, bởi lẽ chữ này không thấy có trong bất cứ từ điển Hán tự nào, chỉ biết tạm đọc nó là Kim Thiếp. Vậy Kim Thiếp là gì? Điều băn khoăn ấy bám theo độc giả cho tới khi đọc gần hết cuốn sách.
Tiếp đó, bốn chữ Mấy lời cẩn bạch ở trang đầu, với ghi chú từ cẩn bạch chữ Nho nghĩa là Kính trọng bày tỏ, đã cho thấy Trần Gia Ninh thạo chữ Nho — điều kiện tiên quyết của người nghiên cứu sử Việt cổ. Chúng tôi xin nói ngay rằng sách này nhắc cho hậu thế về những thân phận con người, về số phận bi hùng của những anh tài trí tuệ đất Việt xưa trong thăng trầm của lịch sử — tác giả bộc trực viết và sau đó tóm tắt giới thiệu ngay cốt truyện của cuốn sách.
Thông thường các tác giả sách văn học không làm như vậy, họ để cho người đọc tự hiểu ra cốt truyện sau khi đọc xong trang cuối cùng. Trần Gia Ninh làm thế Vì sách này là một tiểu thuyết khảo luận, học thuật, bởi vậy sẽ không dễ đọc những trang viết ở đây, nếu đọc nó như đọc một tiểu thuyết chương hồi bình thường… Chúng tôi khâm phục sự kiên nhẫn của quý độc giả khi phải tìm hiểu những điều khó khăn và kém thú vị ẩn chứa trong mỗi câu chữ, mỗi chương, mỗi hồi ở sách này — tác giả giải thích.
Đúng là tiểu thuyết lịch sử không dễ đọc, vì đòi hỏi phải nhớ nhiều sự kiện, nhân vật, thời gian, không gian cùng mối quan hệ chằng chịt giữa các yếu tố ấy. Có lẽ vì thế mà môn sử không được học sinh phổ thông ưa thích. Huyền thoại KTVM là tiểu thuyết lịch sử kiểu khảo luận-học thuật càng đòi hỏi sự kiên nhẫn của bạn đọc, hơn nữa lại có số trang tương đương một truyện dài hoặc vừa.
Dĩ nhiên, nếu đọc đã khó thì viết còn khó hơn nhiều. Đối với các nhà văn không chuyên, viết tiểu thuyết chẳng nhẹ nhàng chút nào, nếu không nói là cực hình, nhất là khi viết truyện dài. Rất ít người thành công trong thể loại văn học này. Viết tiểu thuyết lịch sử càng khó, vì lịch sử là chuyện ai cũng biết, vấn đề chỉ là viết như thế nào. Tiểu thuyết lịch sử là lời bình phẩm lịch sử, ngoài mục tiêu về văn học, nó thường nhằm một mục tiêu xác định nào đấy, và do đó mà một số tiểu thuyết lịch sử thành công đã có ảnh hưởng lớn tới lịch sử.
Ai đó từng nói viết tiểu thuyết lịch sử như đi trên dây, không thể nghiêng về bên nào, sử cũng như văn. Nếu Huyền thoại KTVM là tác phẩm đầu tay của Trần Gia Ninh thì anh quả là quá tự tin và dũng cảm khi dám thử sức ở thể loại văn chương dễ bị săm soi này.
Trong thể loại ấy, lịch sử là nguồn cảm hứng cho sáng tác văn học. Nhưng giá trị thẩm mỹ của tác phẩm không hoàn toàn quyết định bởi yếu tố lịch sử mà còn bởi yếu tố nghệ thuật. Tuy nhiên, nghệ thuật lại chịu sự ràng buộc của sự thật lịch sử!
Các sử gia chân chính coi lịch sử là tài sản chung của mọi người, nói lịch sử là nói sự thật. Tuy nhiên tiểu thuyết lại đòi hỏi phải hư cấu. Người Anh có lý khi gọi tiểu thuyết là fiction. Có điều hư cấu thế nào thì vừa? Nên hư cấu sao cho độc giả đã bắt đầu đọc là muốn đọc tới cùng; khi ấy họ không còn câu nệ lắm với sự thật lịch sử. Truyện phim Công phá Berlin có cảnh hoành tráng Stalin đến thủ đô nước Đức ngay sau khi bị Hồng quân chiếm, hư cấu đến như thế nhưng vẫn được dư luận chấp nhận.
Nhiều người cho rằng “ba phần sự thực, bảy phần hư cấu” là vừa phải. Tác giả “Ba chàng ngự lâm pháo thủ (Les Trois Mousquetaires) Alexandre Dumas nói “sự thật lịch sử” chỉ là cái đinh để nhà văn móc chiếc áo (ý nói câu chuyện) của mình lên.
Vậy Trần Gia Ninh có “móc chiếc áo của mình” lên sự thật lịch sử hay không ?
Đọc Huyền thoại KTVM ta có cảm giác tác giả coi lịch sử như một cơ thể sống để nhà văn khoác lên đó một bộ cánh huyền ảo hấp dẫn. Tác giả hoàn toàn tôn trọng các sự thật có ghi chép trong chính sử, ngoài ra còn bổ sung thêm những sự kiện chính sử Việt chưa từng chép. Đây là một điểm sáng làm nên giá trị về nội dung của Huyền thoại KTVM. Có thể sử sách đã từng ghi chép những sự kiện ấy, nhưng bọn xâm lược phương Bắc thời nhà Minh thi hành chính sách tiêu diệt văn hóa bản địa đã tiêu hủy hết mọi thư tịch do người Việt viết. Vì thế trong khu vườn lịch sử nước ta còn có vô số báu vật bị vùi sâu dưới lớp đất thời gian, đang chờ những người có tâm huyết với quê hương, tổ quốc dày công dò tìm, đào bới lấy lên để mọi người cùng chiêm ngưỡng. Trần Gia Ninh là một trong những người hiếm hoi ấy.
Từ tấm bìa có ba chữ vuông Kim-Thiếp Vũ Môn di bút của ông nội còn giữ được, anh phỏng đoán đây là bìa một cuốn sách viết những sự việc có liên quan tới thác Vũ Môn ở quê mình. Vì thế mấy chục năm qua anh cất công tìm kiếm khắp nơi các thư tịch của ông mình cũng như của cả vùng văn hiến Hoan Châu (Nghệ An-Hà Tĩnh). Do có may mắn đi hầu khắp các nước, anh đã sưu tầm được nhiều tư liệu, cuối cùng giải mã được mấy chữ Kim-Thiếp Vũ Môn. Và bây giờ khi được cử giữ ghế trưởng lão của họ Trần Gia Phố nổi tiếng đất Hoan Châu, anh tráp lại các tư liệu đã sưu tầm và viết nên Huyền thoại KTVM, coi đó là tấm lòng của kẻ hậu sinh tưởng nhớ ông cha tổ tiên mình.
Huyền thoại KTVM dường như muốn chứng minh một sự thật: Tổ tiên ta giỏi lắm! Đây không phải là lời “mẹ hát con khen”. Năm 971 khi sang thăm nước ta, sứ thần nhà Tống là Lý Giác đã làm bài thơ Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, nghĩa là Ngoài trời này còn có trời khác, nên soi cho thấu — tác giả kể, và cho rằng Lý Giác muốn khuyên người Trung Hoa chớ nên coi thường người Việt: ngoài bầu trời Trung Hoa ra còn có bầu trời Việt Nam sáng rực rỡ chẳng kém ai.
Quả thật sở dĩ nước ta nhỏ yếu mà lại chống được giặc xâm lược quân đông gấp bội là nhờ tổ tiên ta đã phát huy được trí tuệ. Kim-Thiếp Vũ Môn là một kết quả sáng tạo của trí tuệ Việt.
Tác giả tỏ ra rất nghiêm chỉnh khi trình bày các sử liệu mới sưu tầm được. Có thể nhận thấy điều đó từ những ghi chú cuối trang: nhiều về số lượng, nghiêm túc về chất lượng, tới mức độc giả ngạc nhiên như đang đọc một báo cáo khoa học. Chẳng hạn 42 trang của Chương VI có tới 37 ghi chú.
Tác giả chú giải bằng nhiều ngôn ngữ Hán, Nôm, Phạn, Anh, Pháp. Nội dung chú giải gồm đủ thứ, từ niên đại sự kiện, công thức hóa học của sắt thép, quặng khoáng, cho tới các nghi thức tôn giáo của đạo Bà La Môn. Lời hoặc thơ ca của các danh nhân cũng được ghi rõ xuất xứ. Có ghi chú là cả chục dòng thơ chữ Hán kèm bản dịch công phu. Tác giả còn sưu tầm được một số chữ Việt cổ hiện còn ở Nghệ Tĩnh, như rào (sông), nác (nước), mấn (váy), cân gấy (con gái) …
Đáng chú ý là các ghi chú về lịch sử, địa lý, nhân vật, thư tịch cổ. Tác giả đã trích dẫn nhiều sách sử của Việt Nam và Trung Hoa, như Minh Thực Lục, Lam Sơn Thực Lục (nhà Lê viết năm 1435), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, .. thậm chí cả Nghệ An Ký ít người biết, như để cho thấy nội dung cốt lõi của sự việc nêu trong sách là có căn cứ, vì đây là một tiểu thuyết khảo luận-học thuật mà!
Hầu như tất cả các địa danh cổ đều có chú thích rõ địa điểm cụ thể ngày nay khiến người đọc khó có thể nghi ngờ. Các đoạn tả cảnh vùng Hương Khê, núi Giăng Màn, sông Ngàn Sâu, thác Vũ Môn… sống động tới mức ta có cảm giác tác giả là thổ công vùng này.
Đọc Huyền thoại KTVM, bạn như được xem cuốn phim nói về một giai đoạn lịch sử bi hùng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống xâm lược đầu thế kỷ XV.
Năm 1404, vua Minh Thành Tổ mượn cớ “Phù Trần diệt Hồ” (Giúp nhà Trần diệt nhà Hồ, vì Hồ Quý Ly bị nhà Trần coi là phản nghịch) cho quân hộ tống Trần Thiêm Bình1 tiến vào nước Việt. Khi chúng mới sang tới đất Bắc Giang, Hồ Quý Ly bày mưu dùng súng thần cơ tự tạo đánh cho địch đại bại phải cút về nước. Năm 1407 giặc Minh kéo đại quân sang, bắt được Hồ Quý Ly và con là Hồ Nguyên Trừng tại Hà Tĩnh. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị hà khắc khiến dân ta điêu đứng suốt hai chục năm trời. Chúng đốt hết mọi thư tịch người Việt sáng tác, mang về Trung Quốc tất cả các loại hỏa khí cùng nhiều nhân tài, thợ giỏi, gái đẹp người Việt.
Năm 1418, Lê Lợi ở Lam Sơn (Thanh Hóa) dấy binh nổi dậy, tự xưng Bình Định Vương, tập hợp được nhiều nhân tài văn võ như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn…. Mới đầu Lê Lợi thua nhiều thắng ít, sáu năm sau phải tiến về Hoan Châu, xây dựng căn cứ địa trên vùng núi. Xứ này địa linh nhân kiệt lại có địa thế hiểm yếu. Một số cựu tướng sĩ nhà Trần ở đây đã tổ chức đội quân Cốc Sơn chống lại giặc Minh. Nhờ có tài chế thuốc nổ và luyện sắt đúc súng, quân Cốc Sơn rất mạnh. Lê Lợi xin kết nghĩa huynh đệ với họ. Được các anh tài Hoan Châu góp sức, lực lượng Lê Lợi ngày càng mạnh. Cuối cùng quân ta bao vây quân địch ở Đông Quan (Hà Nội), giết Liễu Thăng chỉ huy quân Minh sang tiếp viện ở Chi Lăng. Chủ tướng giặc Vương Thông phải giảng hòa xin rút quân về nước.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua. Đáng tiếc là, như mọi chính quyền chuyên chế xưa nay, sau đại thắng, khi chuyển sang thời bình, triều nhà Lê suy thoái dần. Lê Sát lộng quyền, hãm hại nhiều công thần tài giỏi, kể từ đại công thần Nguyễn Trãi. Tên tuổi các anh tài Hoan Châu cùng di sản sáng tạo của họ bị lãng quên dần.
Trần Gia Ninh chuyển tải giai đoạn lịch sử bi hùng kể trên dưới hình thức tiểu thuyết võ hiệp chương hồi, tựa như tiểu thuyết Trung Hoa cổ đại. Thể loại này không dễ viết nhưng hợp với việc ca ngợi những nhân vật nghĩa hiệp. Xem ra tác giả đã thành công khi dẫn bạn đọc vào những trường đoạn hấp dẫn với lối hành văn khoa trương, ngôn từ cổ xưa, đồng thời sử dụng các hình thức hiện thực, trữ tình lãng mạn, các yếu tố đời thường pha trộn với truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích. Cấu trúc tiểu thuyết khá linh hoạt về thời gian, không gian, nhân vật, sự kiện. Như đang kể chuyện Hồ Nguyên Trừng năm 1445 được vua nhà Minh thăng chức lại nhảy sang chuyện sinh viên Việt Nam tại Đại học Bắc Kinh năm 2007 đi tìm mộ Trừng nhưng chỉ tìm thấy tấm bia do Trừng soạn.
Cuối cùng, khi đọc tới đoạn Vĩ Thanh, độc giả mới hết băn khoăn: thì ra Kim-Thiếp Vũ Mônchính là Thép Vũ Môn, thứ kim loại do những người thợ Việt tài giỏi ở vùng thác Vũ Môn luyện được và thích hợp dùng để đúc Thần Cơ Thương — một loại súng nòng dài (nòng dài đạn mới bắn đi xa được) cầm tay từng giúp Trần Khát Chân đánh tan cuộc xâm lăng của Chế Bồng Nga năm 1390, rồi lại giúp cuộc kháng chiến do Lê Lợi lãnh đạo (1418-1427) đuổi được giặc Minh ra khỏi nước ta.
Sẽ có người hỏi: Trung Quốc phát minh ra thuốc súng và làm được súng trước ta cơ mà ? Đúng thế, nhưng họ làm súng thần công chứ không làm súng vác vai như tổ tiên ta sau khi học mót được công nghệ chế thuốc súng. Vả lại phải có thứ thép như thế nào mới làm ra được loại súng ấy chứ!
Tra Từ điển chữ Nôm bạn sẽ thấy Kim-Thiếp tiếng Việt đọc là thép. Ông tổ công nghệ luyện thép Trần Hằng lấy chữ ấy làm gia huy khắc trên các sản phẩm của mình. Người Hán không đọc nổi chữ này, vì chữ Nôm là chữ viết do người Việt sáng tạo.
Như vậy Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về thép Vũ Môn.
Tóm lại, những người thợ xứ Hoan Châu (Nghệ-Tĩnh) đã sáng tạo ra hai công nghệ hàng đầu thế giới hồi thế kỷ XIV-XV: công nghệ luyện thép Vũ Môn và công nghệ dùng thép này để đúc súng nòng dài. Đáng tiếc là chuyện ấy sách sử nước ta không chép.
Nhưng lạ thay sử sách Trung Hoa và nước ngoài lại có chép! Như Minh Sử viết: Minh Thành Tổ đánh Giao Chỉ lấy được phép Thần Cơ Thương Pháo, lập riêng Thần Cơ Doanh luyện tập. (Doanh là doanh trại quân đội, còn có nghĩa là một cấp đơn vị quân đội TQ ngày nay, tương đương tiểu đoàn).
Đúng thế, năm 1407, Hồ Quý Ly và con là Nguyên Trừng bị quân Minh xâm lược bắt sống đưa về Bắc Kinh; để cứu mạng cha mình, Trừng đã dâng phép chế súng cho nhà Minh. Người Trung Hoa giữ tuyệt mật kỹ thuật này và năm 1410 đã dùng nó để đánh cho quân Mông Cổ tan tác. Trừng được vua Minh hậu đãi, sau làm tới chức Thượng thư Bộ Công (tương đương Cục trưởng Cục Quân giới ngày nay), quân đội nhà Minh khi tế súng đều phải tế Trừng! Nhà kỹ sư quân giới tài hoa biệt danh Nam Ông (Ông già nước Nam) ấy luôn nhớ về cố quốc. Ông đã viết một tập ký sự lấy tên là Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép giấc mơ của Nam Ông). Năm 2011 người Trung Quốc đã xuất bản sách này.
Huyền thoại thế mà có thật!
Mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh) với trữ lượng 550 triệu tấn hiện đã bắt đầu được khai thác. Trần Gia Ninh[2] là hậu duệ của họ Trần Gia Phố có chính tổ Trần Hằng, người đầu tiên luyện được Thép Vũ Môn. Gia tộc này có truyền thống trọng trí tuệ, khinh danh vọng; hậu duệ của họ hiện nay đa phần là nhà trí thức hoạt động khoa học kỹ thuật, văn học, y học ở khắp đất Việt và các nước khác.
Sau nhiều năm dày công đi tìm lời giải cho mấy chữ Kim-Thiếp Vũ Môn, cuối cùng Trần Gia Ninh đã phát hiện được hai sáng tạo tuyệt vời của tổ tiên ta bị sử sách lãng quên. Tiếp đó, anh lại dầy công viết cuốn tiểu thuyết Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn để công bố phát hiện đó dưới hình thức văn học. Những cố gắng đầy tâm huyết ấy của anh xứng đáng để chúng ta tìm hiểu và ngưỡng mộ.
—————–
1 Một kẻ tự nhận con cháu vua Trần nước ta, chạy sang cầu cứu nhà Minh đưa hắn về làm vua nước Việt.
[2] Trần Gia Ninh là bút danh của một tiến sĩ khoa học đã và đang hoạt động năng nổ trong ngành vật lý nước ta.
3
0 1 3
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét