Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

Bác tôi, Đoàn Phú Tứ

Bởi
 AdminTD
 -

Đoàn Phú Hòa
29-7-2018
Cụ Đoàn Phú Tứ, bác của ông Đoàn Phú Hòa. Ảnh của tác giả.
Đã từ lâu rồi tôi luôn có một nguyện vọng viết về người bác kính yêu của mình, bác Đoàn Phú Tứ, người bác gần gũi nhất với tôi trong số tất cả họ hàng bên nội của mình. Không hiểu duyên cơ gì mà tôi lại được bác quý và được gần gũi với bác đến thế. Trong đời mình rất ít khi tôi mê nhưng nếu có thì tôi thường mê thấy bố mẹ tôi và bác.
Cách đây mấy hôm, cậu bạn già thân thiết Phan Trí Đỉnh có một bài viết về bác nên càng giúp tôi quyết tâm viết về người bác kính yêu của mình. Viết về những gì tôi biết và được nghe bác hay bố tôi kể về bác.
Bác tôi là người con thứ hai trong gia đình có 9 anh em, nhưng hai bác gái tôi đã qua đời rất sớm, để lại 7 anh em trai gắn bó nhau suốt cả cuộc đời. Tất cả anh chị em đều sinh ra trong một ngôi nhà trên phố Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) ở Hà Nội. Cụ nội tôi là tri huyện nhưng sớm từ quan để sống với niềm đam mê của mình là văn thơ cùng săn bắn. Theo như các bác kể thì hồi cụ nội còn sống có cả một đàn chó săn nổi tiếng ở Hà Nội lúc bấy giờ.

Làng Xã Đàn (cách Ô Chợ Dừa một đoạn không xa) chính là điền trang của họ nội, là nơi cứ đến chủ nhật cuối tuần thì cả đại gia đình đưa nhau về đó thưởng thức không khí đồng quê. Ông bà nội tôi mất sớm nên bác cả tôi cùng bác gái đã thay bố mẹ chăm sóc các em cho đến khi trưởng thành, mỗi người đi một ngã.
Gia đình bác Cả (Đoàn Phú Quán) về Lò Đúc, gia đình bác Tứ về Châu Long, gia đình bác Ba (Đoàn Phú Chiêm) về phố Huế, gia đình bác Tư (Đoàn Phú Tư) về Cầu Gỗ, gia đình bác Năm (Đoàn Phú Canh) ở tít tận Mộc Hóa – Long An, gia đình bác Sáu (Đoàn Phú Tặng) về Bà Triệu và gia đình bố mẹ tôi, em út trong nhà ở cùng nhà với ông bà ngoại và cũng là cùng nhà với gia đình bác Cả ở Lò Đúc. Đây là một biệt thự hai tầng với nhiều phòng. Nhà bác Cả ở tầng dưới còn nhà ông bà ngoại tôi ở tầng trên.
Hàng năm, cả đại gia đình họ nội chúng tôi lại tập trung ở nhà bác Cả trong những ngày giỗ ông bà nội và tối giao thừa. Tuy những năm giữa thập kỷ 50 thì tôi còn bé lắm, mới 3 – 4 tuổi nhưng không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ rất rõ hình ảnh của những ngày đó. Bác Cả gái, tên thật là bác Quế, trước năm 1954 là giáo viên tiếng Pháp của trường trung học Albert Saraut trên phố Hai Bà Trưng nhưng sau năm 1954 thì tiếng Pháp bị loại bỏ khỏi các môn học nên bác gái tôi trở thành gia sư cho một số gia đình ở Hà Nội.
Ngày nào bác tôi cũng đi dạy với những bộ quần áo dài trắng rất đẹp, bộ tóc dài được quấn vành khăn trên đầu. Thời kỳ đó mấy anh em của bố tôi toàn xưng hô với nhau bằng “Toi” – “Moi” chứ không xưng hô như trong các gia đình khác. Đến cuối năm 1956 thì bỗng nhiên tôi không còn thấy bác gái tôi đi dạy học trong bộ áo dài trắng nữa. Thay vào đó là áo trắng hoặc mỡ gà lụa dài tay xẻ ngang hông cùng với hai cái túi áo nhỏ phía trước bụng.
Bố tôi và các bác cũng không xưng hô với nhau bằng “Toi” – “Moi” như trước mà xưng hô “Anh” – “Tôi”. Các em chồng gọi chị dâu của mình là “Chị” xưng “Tôi” còn các anh rể gọi em dâu của mình là “Cô” xưng “Tôi”. Lúc đầu tôi cũng lạ với cách xưng hô đó nhưng rồi quen dần và thấy bình thường. Sau này, khi đã lớn thì tôi có hỏi bố tôi về cách xưng hô đó và được trả lời là để bình đẳng trong quan hệ.
Trong những lần gặp gỡ đại gia đình như vậy thì sau bữa ăn, các bác và bố tôi đều ngồi tụ nhau trong phòng khách để trò chuyện và lúc đó mọi người thường nói với nhau bằng tiếng Pháp. Các bác gái và mẹ tôi lại tụ tập ở phòng bên cạnh tâm sự về chuyện gia đình, củi nước.
Là cháu út trong họ nên tôi thường ở lại với các bác, lúc thì ngồi vào lòng bố tôi, lúc lại sà vào lòng bác Tứ. Tôi rất khoái chòm râu và bộ ria cong vút của bác. Không hiểu bác Tứ để ria từ bao giờ nhưng từ khi tôi bắt đầu biết nhớ thì tôi đã nhìn thấy bộ râu và chòm ria cũng mái tóc xoăn xoăn tự nhiên của bác.
Trong mấy anh em thì có lẽ bác Tứ và bố tôi gần gũi với nhau nhất và có lẽ nhờ vậy nên trong cả mấy chục người cháu trong họ thì tôi cũng là người tiếp xúc với bác Tứ nhiều nhất. Bác Tứ thường đến nhà tôi trên “con ngựa sắt”, là chiếc xe đạp điện đen tuyền từ thời Pháp với bộ phanh cũng bằng những thanh sắt nhỏ nối với nhau chứ không phải là loại phanh thông dụng như bây giờ. Đã có lần tôi suýt dập mặt vì cái xe đó vì không bóp nổi hai tay phang cứng nhắc đó.
Bố tôi và bác Tứ thường tâm sự với nhau rất lâu và thường cả hai đều có bộ mặt trầm ngâm như đang nghĩ về vấn đề gì hệ trọng lắm. Gần như lúc nào bác Tứ cũng có cái tẩu trên môi cùng làn khói trắng uốn quanh bộ ria của bác.
Những khi rảnh rỗi, nhất là sau khi đã tốt nghiệp đại học rồi ra làm việc thì tôi thường đến thăm bác. Ngôi nhà 12 Châu Long lúc nào cũng đen bụi than do nhà máy điện Yên Phụ phả vào. Sau năm năm 1954 một thời gian thì tầng trệt của gia đình bác bị chính quyền trưng thu làm lớp mẫu giáo nên cả gia đình đông người phải dồn lên ở tầng lầu.
Nơi làm việc của bác là mọt góc nhỏ ngay sát cầu thang với ngổn ngang giấy tờ, là những bản dịch nháp các cuốn tiểu thuyết, kịch từ tiếng Pháp. Phần lớn những cuốn sách mà bác Tứ dịch là tôi được đọc từ những bản nháp đó như “Hồn ma bóng quỉ”, “Trưởng giả học làm sang”, “Hài kịch Shakespeare”, … và nhất là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Đỏ và Đen” của nhà văn Stendhal, tên thật là Henri Mari Beyle. Tôi đã đọc ngấu nghiến một cách say mê mặc dù đó chỉ là những bản thảo. Bằng cả sự say mê bác Tứ dịch và viết nhiều lắm nhưng cho đến cuối đời nhà xuất bản Văn Học chỉ chấp nhận in một số lượng nhỏ với những điều kiện vô cùng khắt khe.
Bác Khiêm, bác gái vốn là nữ sinh viên, kém thầy giáo mình 21 tuổi nhưng đã mang lòng yêu bác Tứ để rồi hai bác trở nên vợ chồng. Sau này, dù là một giáo viên giỏi tiếng Anh nhưng vì là vợ bác Tứ nên không một trường học, một cơ quan nào dám nhận bác vào làm việc. Hai bác đã phải làm tất cả mọi việc có thể để nuôi sống gia đình mình.
Những năm đầu của thời kỳ tem phiếu, ngoài tiêu chuẩn gạo ít ỏi (13 kg/người/tháng) thì cả gia đình bác Tứ hoàn toàn không được hưởng bất kỳ tiêu chuẩn nào khác như thịt, cá,… Thật ra đó cũng chỉ là tiêu chuẩn vô cùng “khiêm tốn” với mức 350gr. thịt/người/tháng, là tiêu chuẩn cho người dân, không nằm trong biên chế nhà nước. Hàng tháng bố tôi vẫn lẳng lặng trích một phần tiêu chuẩn của mình như thịt, thuốc lá, … cho gia đình anh trai mặc dù bản thân tiêu chuẩn của cụ cũng chẳng nhiều nhặn gì.
Tôi còn nhớ lần mẹ tôi bị kẻ gian móc túi lấy hết tem phiếu của tháng đó ngay hôm đầu tháng, trong đó có cả phiếu mua thuốc lá. Bố tôi buồn vì không phải không có thuốc hút mà buồn là không có thuốc cho anh trai mình. Cụ đã nhờ người mua thuốc lá sợi từ Bắc Giang, Bắc Ninh về để anh mình có thuốc hút. Mỗi lần có điều kiện mua thuốc lá ngoài tiêu chuẩn là tôi cũng dành cho người bác kính yêu của mình. Vì thời gian đó giấy trắng rất khan hiếm nên tôi thường xin lũ bạn làm việc bên phân viện máy tính những tập giấy máy tính, loại đục lỗ hai lề đã sử dụng để bác Tứ có thể dùng làm nháp cho các tác phẩm của mình.
Thời gian tôi gần gũi bác Tứ nhiều nhất là vào năm 1983 – 1985, khi tôi đang chờ giấy phép được quay trở lại Tiệp Khắc để đoàn tụ với vợ con ở bên này. Hai bác cháu thường ra mấy quán cafe quen thuộc của những cây đa, cây đề trong nền văn học, nghệ thuật Miền Bắc ở Hà Nội để uống trà, uống cafe và tôi cũng không ít lần chứng kiến cảnh ông chủ quán Lâm đã nhận những bức tranh vẽ phác thảo tại chỗ của Bùi Xuân Phái thay cho thanh toán tiền mặt.
Thời gian đó tôi được nghe bác Tứ tâm sự về mình nhiều nhất, kể cả những điều mà rất ít người biết. Là một người đào hoa từ khi còn trẻ đến tận lúc về già nhưng chưa bao giờ bác Tứ có một cuộc tình trăng hoa, kể từ khi còn thanh niên đến sau khi đã có gia đình.
Có lẽ gia đình bác Tứ tôi là một trong những gia đình đầu tiên ở Hà Nội nuôi lợn trong sân nhà để có nguồn cải thiện từ những năm đầu của thập kỷ 60. Mỗi buổi chiều, bác tôi phải ra chợ Hàng Da để lượm rau quả hỏng mà các bà hàng vứt đi để có thức ăn cho lợn. Cũng vì thế mà một lần ông Phạm Văn Đồng đi qua, khi nhìn thấy bác tôi đang bới đống rác lượm rau quả, đã bảo lái xe dừng lại để hỏi tình hình, làm như ông ấy không biết rằng chính cái chính quyền của ông ấy đã đầy đọa bác tôi như thế nào.
Sau khi nghe chuyện về những cuốn truyện, vở kịch được bác Tứ dịch nhưng không được phát hành, thì ông Đồng đã yêu cầu nhà xuất bản “Văn Học” cho in những cuốn đó nhưng cũng phải mấy năm sau thì yêu cầu đó mới được thực hiện. Bộ Văn Hóa không đồng ý bác tôi để tên thật của mình trên những cuốn sách đó mà phải chọn một bí danh. Để có khoản thu nhập thì cuối cùng bác tôi đã phải chấp thuận và chọn cho mình cái bí danh “Tuấn Đô”. Bộ Văn Hóa uất lắm nhưng không còn cách nào hơn là phải thừa nhận cái bí danh đó bởi vì TUẤN ĐÔ đọc ngược là ĐỐ TUÂN.
Cộng sản quả là ác độc và nhỏ mọn. Chính vì vụ án “Trần Dụ Châu” mà có những kẻ trong số đó muốn triệt hại bác Đoàn Phú Tứ đến tận cuối đời. Sách báo thường kể rằng bác Tứ đã có câu nói khẳng khái trong lễ tiệc cưới của Trần Dụ Châu để rồi dẫn đến việc Trần Dụ Châu bị chính tay ông Hồ ký lệnh xử bắn. Thật ra đó không phải làm đám cưới của Trần Dụ Châu là mà đám cưới một thuộc hạ thân tín của Trần Dụ Châu do tay này đứng ra làm chủ hôn.
Mãi đến sau này bác Tứ cũng không hiểu tại sao Trần Dụ Châu đích thân mời bác đến dự. Trong bữa tiệc cưới hôm đó có gần đầy đủ mặt của các quan chức quân đội, cấp bậc còn cao hơn nhiều so với Trần Dụ Châu và tất cả đều hỉ hả giữa những dòng rượu đắt tiền, thuốc lá sang trọng của Pháp, Mỹ cùng đủ sơn hào hải vị dưới những cây nến trắng to bằng cổ tay, cổ chân được thắp sáng rực.
Bác tôi ngạc nhiên vì trong hoàn cảnh chiến trường vô cùng khó khăn, gian khổ như vậy, người lính phải ăn cơm nắm, muối vừng nhưng các quan chức cao cấp có thể vui vẻ như vậy. Các sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ có nằm mơ cũng không thể có được một bữa tiệc thịnh soạn như vậy.
Để có được những món cao cấp như thế đưa ra từ vùng Pháp kiểm soát là một điều gần như không tưởng, chưa kể dến những chặng đường vượt dốc khó khăn mà đoàn xe thồ phải đi qua cả tuần lễ nhưng tại tiệc cưới thì bác tôi được các quan chức cho biết rằng cả một trung đội dân công đã phải thực hiện bằng được công việc đó.
Sau khi nói lên suy nghĩ của mình thì bác tôi đã bị một số quan chức cao cấp dè bỉu và có kẻ còn cho rằng “dở hơi vì của ngon đến miệng mà không biết hưởng”.
Sau khi Trần Dụ Châu nhận án tử hình thì bác tôi đã phải nhận không ít lời dèm pha, coi bác tôi như “kẻ mách lẻo” và thậm chí còn có những lời đe dọa. Chính vì những kẻ như vậy mà bác tôi, đại biểu quốc hội khóa 1 hồi năm 1946, nhận ra bộ mặt thật của họ để rồi dẫn đến quyết định trở về Hà Nội với sự nghiệp văn chương hồi hè 1951.
Tưởng vậy là yên nhưng bác tôi không ngờ rằng sau năm 1954, khi chính quyền nằm trong tay đảng Cộng sản, thì một số kẻ có mặt trong buổi tiệc cưới hôm đó đã ngay lập tức thực hiện lời đe dọa của mình bằng cách vu cho bác Tứ, nguyên là một thành viên sáng lập nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” có liên quan với nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” cùng nhiều nhóm khác mà chúng qui cho cái tội “chống đảng” cùng cái tội “dinh tê” về Hà Nội.
Thực chất, theo như bác Tứ nói đó chính là hình thức trả thù cho Trần Dụ Châu vì những kẻ có mặt trong bữa tiệc cưới đó, sau này nhắn tin de dọa bác, đã trở thành những lãnh đạo của Bộ Văn Hóa sau năm 1954. Cuộc đời của bác tôi cùng gia đình bắt đầu bị vùi dập từ đó.
Thời gian ấy, như bác và bố tôi kể, đã có một số bạn bè khuyên bác nên viết thư xin lãnh đạo Bộ Văn Hóa “lượng thứ và xem xét lại” nhưng không bao giờ bác tôi chấp nhận. Trong một chiều hè 1984, tại quán cafe trên phố Phan Bội Châu, sau khi được nghe bác tâm sự, tôi có hỏi lý do tại sao không bao giờ bác làm theo lời khuyên của bạn bè thì bác chỉ nói một câu ngắn gọn “Không bao giờ bác quì gối van xin lũ khốn nạn đó”.
Tôi viết những dòng này như để tưởng nhớ đến người bác kính yêu của mình, bác Đoàn Phú Tứ. Một người không bao giờ khuất phục trước cường quyền.
Bác Đoàn Phú Tứ của tôi là như vậy đấy.
Czech Republic, 29.7.2018
Đoàn Phú Hòa
____
P.S: Hồi còn nhỏ, khi nghe tôi hỏi tại sao thỉnh thoảng các bác lại nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp thì tôi được giải thích là để các bác không quên ngôn ngữ đó. Sau này, khi đã lớn thì tôi mới hiểu rằng các bác cùng bố tôi nói với nhau bằng tiếng Pháp về những vấn đề mà không phải ai cũng nên nghe.

Không có nhận xét nào: