Chuông là một pháp khí không thể thiếu trong lễ nghi Phật giáo. Tiếng chuông vang xa, âm thanh từ bi và hùng hậu, khiến nhẹ lòng người, cảnh tỉnh con người thế gian mau mau thoát khỏi cái mê trần tục mà thành tâm tín Phật.
Chuông là một pháp khí không thể thiếu trong lễ nghi của Phật giáo. Tại rất nhiều ngôi chùa cổ nổi tiếng, những gác chuông to lớn càng làm tăng thêm vẻ uy nghiêm của ngôi chùa. Âm thanh mượt mà vang vọng, thâm trầm trong vắt của tiếng chuông như rót vào tai, khiến con người thế gian chạy theo danh lợi bừng tỉnh, kêu gọi người đời mau thoát khỏi bể khổ mênh mông.
Thời cổ đại có rất nhiều người làm thơ miêu tả tiếng chuông, như câu thơ của Trương Kế thời Đường: “Cô Tô thành ngoại hàn sơn tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”. Dịch thơ của Tản Đà: “Thuyền ai đậu bến Cô Tô; Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn”.
Đỗ Phủ: “Dục giác văn thần chung, lệnh nhân phát thâm tỉnh”. Tạm dịch: Sớm mai thức dậy muốn nghe một tiếng chuông ngân, khiến tâm hồn thanh tỉnh.
Vương Duy : “Hàn đăng tọa cao quán, thu vũ văn sơ chung”. Tạm dịch: “Đèn khuya lạnh lẽo trên cao quán; Mưa thu nhạt nhòa tiếng chuông thưa”.
Thường Kiến : “Sơn quang duyệt điểu tính, đàm ảnh không nhân tâm. Vạn lại đô thử tịch, đãn dư chung khánh âm”. Tạm dịch: Ánh núi hòa tiếng chim ca; Tâm như mặt đầm thanh vắng. Không gian tràn đầy tĩnh lặng; Còn nghe vang vọng chuông ngân.
Trong những bài thơ ấy, tiếng chuông đều nổi bật lên giữa khung cảnh tịch lặng, hàng trăm ngàn năm qua khiến cho người ta cảm thấy tâm hồn khoáng đạt và thanh thản, hướng về nơi tiếng chuông ngân. Ngoài ra thi nhân Trương Đại trong bài “Tây Hồ thập cảnh. Nam Bình vãn chung” cũng miêu tả tiếng chuông vang vọng của chùa Từ Tịnh dưới chân núi Nam Bình, khiến người nghe có cảm giác xuất thần nhập hóa:
Khinh lam bạc như chỉ.
Chung thanh xuất thượng phương,
Dạ độ không giang thủy.
Dịch thơ
Màn đêm trùm khắp Nam Bình
Gió nhè nhẹ thổi như hình giấy manh,
Tiếng chuông vút tận trời xanh,
Buông vào đêm vắng sông thanh nghìn trùng.
Bất kể là chùa Hàn Sơn hay chùa Từ Tịnh, tiếng chuông ở hai ngôi chùa cổ này đều vang vọng thanh thoát, khiến cho lòng người rung động, lưu truyền mãi ngàn năm. Nhưng vì sao tiếng chuông chùa thường đánh 108 tiếng?
Chuông thể hiện sự trang nghiêm bình ổn, đoan chính khoan thai, từ xa xưa được cho là một trong những pháp khí quan trọng trong chùa. Tục truyền rằng, truyền thống đánh chuông chùa bắt đầu từ thời Nam triều Lương Vũ Đế. Một lần, hoàng đế thỉnh giáo cao tăng Bảo Chí rằng: “Làm thế nào để thoát khỏi địa ngục đau khổ?”.
Bảo Chí hòa thượng trả lời: “Nỗi khổ của con người không thể trong chốc lát mà tan biến, nhưng nếu như có thể nghe thấy tiếng chuông vang vọng, thì đau khổ có thể tạm thời dừng lại”. Thế là, Lương Vũ Đế liền hạ chiếu cho các chùa chiền trong cả nước, mỗi ngày đều phải đánh chuông.
Chuông chùa dựa theo công dụng có thể chia thành 2 loại là Phạm chuông và Hoán chuông. Phạm chuông dùng để triệu tập mọi người, hoặc có công dụng để thông báo thời gian; còn hoán chuông có tác dụng thông báo bắt đầu các sự kiện lớn, Phật sự, pháp hội hoặc các lễ hội lớn. Thực ra, chuông cũng là hiệu lệnh ở trong chùa, dù là báo thức, ăn cơm, đi ngủ, hoặc triệu tập tăng nhân lên điện tụng kinh niệm Phật… tất cả đều dùng tiếng chuông làm tín hiệu.
Hai bên trước đại điện của ngôi chùa thường xây lầu chuông và gác trống. Tăng nhân trong chùa mỗi ngày trước khi tụng kinh và đi ngủ đều gõ chuông và đánh trống, dùng để cảnh tỉnh mình, thường là sáng chuông chiều trống.
Trong “Bách trượng thanh quy – Pháp khí” có nói: “Chuông lớn cũng đóng vai trò ra hiệu lệnh. Được gõ vào sáng sớm, nó phá tan màn đêm, đánh thức người ta dậy. Chuông ngân vào lúc hoàng hôn sẽ biến đổi màn đêm, khai thông những thành phần tăm tối”.
Tiếng chuông sáng sớm thì trước nhặt sau khoan, cảnh tỉnh mọi người đêm dài đã qua, chớ có ngủ mãi, cần phải nắm chắc thời gian tu luyện. Còn tiếng chuông đêm thì trước khoan thai sau gấp gáp, nhắc nhở người tu luyện biết màn đêm đã tới, và xua tan những thành phần xấu xa. Một ngày làm việc và nghỉ ngơi trong chùa bắt đầu bằng tiếng chuông mà kết thúc cũng bằng tiếng chuông.
Sáng hay tối thì chuông chùa đều đánh 108 tiếng. Buổi tối trước tiên là đánh trống sau đó gõ chuông, vừa đánh trống vừa niệm chú. Sau khi đánh trống xong thì gõ chuông, gõ chuông buổi tối lúc đầu chậm lúc sau nhanh, 18 tiếng đánh chậm rồi 18 tiếng sau nhanh, ngược lại 3 lần, tính đến 108 tiếng. Buổi sáng thì ngược lại, đầu tiên là gõ chuông sau đó mới đánh trống, gõ chuông lúc đầu nhanh lúc sau chậm dần.
Còn tại sao mỗi lần đánh chuông đều phải đánh 108 tiếng, có nhiều cách hiểu. Cách thứ nhất, trong “Dịch Kinh” cho rằng số “9” là số cát tường, 108 là bội của 9, chính là biểu tượng vô cùng cát tường. Một cách nói khác, Phật giáo cho rằng trong 1 năm con người có 108 loại phiền não, chuông vang lên 108 lần, chính là để xóa đi hết những phiền muộn đó. Cho nên, tràng hạt cũng có 108 viên, niệm kinh hay niệm chú đều niệm 108 lần.
Còn có một cách nói khác, đánh chuông 108 tiếng là nói đến 1 năm. Bởi vì 1 năm có 12 tháng, 24 tiết khí, 72 thì (5 ngày 1 thì), tổng cộng gồm có 108, đó là biểu tượng của mỗi năm đều luân chuyển, tồn tại muôn thuở.
Câu chuyện ngày xưa về 2 chú tiểu đánh chuông
Có một chú tiểu có nhiệm vụ đánh chuông. Theo quy định của chùa, hàng ngày vào lúc sáng sớm và khi chiều tà thì phải đánh một hồi chuông. Khi mới bắt đầu công việc, thì chú tiểu đánh chuông cũng khá nghiêm túc. Nhưng nửa năm trôi qua, chú tiểu cảm thấy công việc đánh chuông thật là đơn điệu nhàm chán. Thế là, cậu bèn làm chỉ cốt cho xong chuyện.
Một ngày, sư trụ trì ngôi chùa đột nhiên tuyên bố muốn đưa chú tiểu xuống hậu viện chẻ củi gánh nước, không để cho cậu đánh chuông nữa. Chú tiểu thấy lạ quá, bèn hỏi sư trụ trì: “Không biết có phải tại con đánh chuông không đúng giờ, không vang tiếng hay sao?”.
Sư trụ trì bảo: “Con đánh chuông rất là vang, nhưng tiếng chuông rỗng tuếch, èo uột, bởi vì trong lòng con không hiểu được ý nghĩa của việc đánh chuông, cũng không có chú tâm làm việc ấy. Tiếng chuông không những là thước đo cho thời gian làm việc nghỉ ngơi trong chùa, mà quan trọng nhất ấy chính là thức tỉnh tâm mê muội của chúng sinh.
Vì vậy, tiếng chuông chẳng những cần phải vang dội, mà còn cần phải mượt mà, hùng hậu, thâm trầm, lan xa. Người mà trong tâm không có chuông, có nghĩa là không trọng Phật. Nếu không thành kính, thì làm sao đảm đương chức vụ đánh chuông được?”. Chú tiểu nghe xong, đỏ mặt xấu hổ, rồi sau đó dốc sức tu luyện, cuối cùng trở thành một cao tăng nổi tiếng.
Có một vị hòa thượng già một sớm mai nghe được một tràng chuông ngân, không khỏi chú tâm lắng tai nghe. Đến khi âm thanh dứt hẳn, ông không cầm lòng được bèn gọi người đến hỏi: “Sáng sớm hôm nay ai đánh chuông thế?”. Người ấy trả lời: “Đó là một hòa thượng mới xuất gia vừa đến đây”.
Thế là lão hòa thượng hỏi tiểu hòa thượng mới tới: “Sớm hôm nay khi đánh chuông nội tâm con như thế nào vậy?”.
Chú tiểu trả lời: “Thưa không có tâm tình nào cả, chỉ là đánh chuông thôi”.
Lão hòa thượng hỏi: “Không phải vậy chứ? Trong lúc con đánh chuông, trong lòng nhất định có tâm tư. Bởi vì ta nghe tiếng chuông hôm nay vô cùng cao quý và vang dội. Đó là thanh âm mà người có thành tâm thành ý hướng Phật mới có thể đánh chuông xuất ra được”.
Chú sa di suy nghĩ rồi nói: “Kỳ thực con không có nghĩ gì khác, chỉ là khi con chưa xuất gia, cha con thường xuyên nhắc nhở rằng: trong lúc đánh chuông thì phải nghĩ rằng chuông cũng chính là Phật, phải thành kính trai giới, kính trọng chuông như kính trọng Phật, cần dùng tâm như nhập định khi thiền định cùng với tâm thành kính lễ bái mà đánh chuông”.
Lão hòa thượng nghe xong hết sức vừa ý, cứ nhắc nhở mãi:“Sau này xử lý chuyện gì, con nhất định đừng quên bảo trì một tâm thái giống như khi gõ chuông hôm nay nhé”.
Kỳ thực đạo lý ấy không chỉ đúng với việc đánh chuông, mà làm bất kể chuyện gì, dùng hết tâm ý hướng vào đó cũng là điều vô cùng trọng yếu. Vị tiểu hòa thượng đầu tiên tại sao lại bị miễn chức đánh chuông? Bởi vì chú xem việc đánh chuông như là một công việc tầm thường chán ngắt, đánh chuông để mà đánh chuông, không xem việc đánh chuông như một việc tu luyện thần thánh, trong lòng không có thành kính, lại không có dụng tâm mà làm, không có tinh thần trách nhiệm trong việc làm, cho nên chú đánh chuông phát ra thanh âm rỗng tuếch.
Chú tiểu thứ 2 có thể đánh chuông thật tốt, ấy là vì cậu hiểu được đạo lý “Kính chuông như Phật”, trong lòng tràn ngập thành kính đối với Phật, tự nhiên có dụng tâm, có trách nhiệm, có thành tâm thành ý trong lúc đánh chuông, cho nên hiệu quả tất nhiên là tốt.
Ngạn ngữ có câu: “Có chí khí hay không, thì cứ xem cách nhóm lửa quét sân là rõ”, chỉ có dụng tâm làm tốt việc nhỏ thì mới có thể làm được việc lớn. Điều này cũng cho thấy Đạo lý rằng: chỉ có tâm niệm chân chính, thì việc làm mới có thể chân chính được.
Tuệ Tâm, theo Epoch Times
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét