“Bút toán”
các giá trị đối ứng NỢ-CÓ của quan hệ Trung Quốc-Việt Nam qua 2 cuộc
chiến tranh…
Phạm Viết Đào.
- Bài liên quan:
- Phần 1: “Lợi ích chung của hai nước Việt-Trung lớn hơn bất đồng- Một tổng quyết toán gian của Trung Quốc
Ông Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ với chính phủ Pháp ngày 6/3/1946...
Mỗi khi nói đến lịch sử quan hệ 2 nước,
lãnh đạo 2 nước thường nhắc tới những sự giúp đỡ to lớn của phía Trung Quốc đối
với Việt Nam về vũ khí, trang thiết bị và nhu yếu phẩm trong 2 cuộc chiến tranh
?
Vậy những sự viện trợ đó có là bao nhiêu,
đúng là vô tư, vô điều kiện và một chiều hay không; ở đây người viết xin chưa
đề cập tới những lợi ích chính trị mà phí Trung Quốc gặp hái được khi liên minh
với Việt Nam, đứng sau Việt Nam để đánh Nhật, Pháp và Mỹ đến người Việt Nam
cuối cùng…
Xin “ hạch toán “ số liệu của
các khoản viện trợ mà Trung Quốc đã dành cho Việt Nam trong 2 cuộc chiến tranh…
Theo số liệu của WikiPedia
mà chúng tôi tìm thấy: “Trong 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối
lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương
đương 6,8 tỉ USD), trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự, còn lại là viện
trợ kinh tế.[4]””
Như vậy: con số 6,8 tỷ USD nếu cộng cả
trong chiến tranh chống Pháp cứ coi Trung Quốc chiếm ½ con số trên: 3,5 tỷ USD;
theo thông lệ quốc tế những viện trợ về quân sự không được hạch toán vào Dư NỢ,
nhưng ta cứ cộng tất cả cho phía Trung Quốc; hạch toán toàn bộ khoản tiền Trung
Quốc viện trợ cho Việt Nam; Phía Việt Nam chấp hạch toán vào phần Dư CÓ, đối
ứng với phần Dư NỢ của phía Trung Quốc…
Nói trắng ra tạm tính: Việt vay nợ Trung
Quốc 3,5 tỷ USD để mua sắm trang vũ khí và các nhu yếu phẩm dân sinh khác trong
cả 2 cuộc chiến tranh…
Vậy cái khoản Dư NỢ 3,5 tỷ USD mà Trung Quốc
xuất sang Việt Nam
ấy hạch toán vào Tài khoản 154: chi phí sản xuất dở dang có đúng do Chính
phủ phải Trung Quốc bòn rút, chắt bóp từ
hạt gạo củ khoai của nhân dân Trung Quốc làm ra không ?
Người viết bài này đảm bảo số tiền 3,5 tỷ
USD này Việt Nam
chưa đụng đến củ khoai và hạt gạo của nhân dân Trung Quốc.
Người viết bài này đã tìm ra một khoản Dư
CÓ liên quan tới khoản Dư NỢ này của phía Trung Quốc có nguồn “ nguyên liệu”
kết chuyển từ Việt Nam .
Xin tạm ví nó giống với tài khoản TK 621 là tài khoản mà ngôn ngữ Tài chính gọi là Tài khoản tổng hợp chi phí trực tiếp; Từ Dư CÓ của Tài khoản 621 này đã kết chuyến sảng Dư NỢ của 154 để đối ứng với Dư CÓ kết chuyển cho phía Việt Nam theo sơ đồ dưới đây:
( sơ đồ )
Theo người viết bài này: Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946) ký giữa Chính phủ Pháp và chính phủ Việt
Nam
dân chủ Cộng hòa 6/3/1946 có thể kết toàn, một dạng giống với Tài khoản tổng
hợp chi phí trực tiếp, tức TK 621
Chính phần Dư
CÓ của tài khoản 621 của phía Trung Quốc bắt nguồn, được kết chuyển từ phần Dư
NỢ mà phía Việt Nam kết chuyển cho Dư CÓ của Tài khoản 621 tính cho phía Trung
Quốc ?
Để hiểu rõ “
bút toán “ này, xin trích nguyên văn
“Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt là một hiệp định được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946 giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và, Hiệp ước Hoa – Pháp ký ngày 28 tháng 2 năm 1946 giữa chính phủ Pháp và Chính phủ Trung
Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch. ( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )
2 hiệp định này được xem là một nước cờ chính trị của
cả 3 bên: Pháp, Trung Hoa dân quốc và Việt Nam dân chủ
cộng hòa
nhằm mưu đồ lợi ích riêng.
Nguyên nhân ( Nguồn đối ứng )
Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1945, thực dân Pháp mất quyền cai
trị Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi Nhật
đầu hàng khối Đồng Minh, Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền từ tay chính
phủ Trần Trọng Kim được Đế quốc Nhật Bản bảo hộ, nhanh chóng kiểm soát đất
nước, và thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Theo thỏa thuận của các nước Đồng Minh, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng tiến vào miền Bắc Việt Nam để làm
nhiệm vụ giải giáp quân đội Đế quốc Nhật Bản. Ở miền Nam Việt Nam,
quân Anh tiến vào với nhiệm vụ tương tự. Tuy người Việt Nam đã tự thành lập
chính quyền và tuyên bố độc lập, chính phủ Pháp vẫn quyết tâm tái lập quyền cai
trị Đông Dương. Tưởng Giới Thạch nhanh chóng nhận thức rằng vai trò
cường quốc của Trung Quốc trong việc đưa quân vào Đông Dương sẽ giúp ông ép
Pháp phải chấp nhận các điều kiện do ông đưa ra để giải quyết những xung đột
lợi ích giữa Trung Quốc và Pháp nếu Pháp muốn quay lại thuộc địa cũ của mình[1].
Rạng ngày 23 tháng 9 năm 1945, người Pháp, dưới sự
giúp đỡ của quân đội Anh, đã dùng vũ lực buộc Lâm ủy Nam Bộ phải giải tán, giao lại chính quyền cho
người Pháp. Tuy nhiên, chính quyền người Việt đã thực hiện cuộc chiến tranh du kích để chống lại.
Ở miền Bắc, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng vẫn công nhận chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cho mưu đồ chính trị của họ. Tuy nhiên, người Pháp cũng đã
thương lượng với chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng để đưa quân đội xâm nhập Bắc
Việt Nam.
Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Hiệp ước Hoa – Pháp được ký kết, với 2 điểm chính:
·
Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung
Quốc như Quảng Châu Loan và nhượng cho Trung Hoa một số quyền
lợi tại miền Bắc Việt Nam như cho họ khai thác một đặc khu tại hải cảng Hải Phòng,
miễn thuế cho hàng hóa của Trung Hoa vận chuyển sang miền Bắc Việt Nam.
·
Ngược lại chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng
đồng ý cho Pháp thay thế quân Trung Hoa giải giáp quân Nhật tại miền Bắc Việt
Nam.
Về cơ bản, hiệp ước này cho phép quân đội Pháp trở
lại Bắc Việt Nam thay thế cho quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải
giáp quân Nhật. Đổi lại, Pháp cũng đã trả lại các tô giới của mình trên đất
Trung Quốc cho chính phủ Trung Hoa Quốc dân quốc.
Diễn giải nôm na: 2 hiệp ước
ký vào năm 1946 thực chất là một cuộc đổi chác giữa 3 chính phủ Pháp-Trung Hoa
dân quốc và Việt Nam dân chủ Cộng hòa; Pháp được lợi: được đưa quân Pháp vào
miền bắc, quân đội Tưởng chịu rút ra trao quyền kiểm soát lãnh thổ cho Pháp;
Phía Pháp nhượng bộ cho Quốc dân Đảng quyền khai thác một số tô giới thuộc
quyền khai thác của Pháp nay nhượng lại cho chính quyền Tưởng Giới Thạch trên
đất Trung Hoa và Việt Nam; còn phía Việt Nam đã tránh một lúc phải đối phó với
nhiều kẻ thù, đuổi được tàn quân Quốc dân Đảng ra khỏi Việt Nam…
Về vụ ký 2 hiệp ước này, một
trong những khoản lợi tức mà Trung hoa dân quốc được hưởng, sau 1949, đã rơi
vào tay Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tiếp quản đó là tuyến đường sắt Côn
Minh-Hải Phòng do Pháp ký với triều đình Mãn Thanh.
Đây là tuyến đường sắt Pháp
bỏ toàn bộ tiền ra đầu tư xây dựng dưới dạng BOT, khai thác trong vòng 100 năm…
Tuyến đường sắt này hoàn thành năm 1910 và nếu đúng thỏa thuận đã ký thì Pháp
phải khai thác tới năm 2010; nhưng từ năm 1946, tuyến đường sắt đã thuộc về
Trung Hoa dân quốc và sau năm 1949 lợi nhuận đã về tay Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa do 3 bên ký với nhau năm 1946…
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
đã không phải bỏ tiền ra xây dựng tuyến đướng sắt cứ tính từ cửa khẩu Lao Cai
tới Côn Minh, thu không 60 năm thử hỏi là bao nhiêu ?
Nếu hạch toán sòng phẳng
khoản lợi tức mà phía Trung Quốc thu được trong 60 năm khi khai thác tuyến
đường sắt Lào Cai-Côn Minh ấy đem đối ứng phải khoản tiền 3,5 tỷ USD mà Trung
Quốc luôn to mồm nói là vô tư giúp Việt Nam xem ai nợ ai ?
Bài sau chúng tôi sẽ giới
thiệu những số liệu đang lưu giữ tại kho tư liệu quốc gia của Việt Nam để biết
giá thành, lợi nhuận hàng năm mà người Pháp đã thu được về tuyến đường sắt này
để thấy Việt Nam nợ Trung Quốc hay thực chất Trung Quốc đang Nợ Việt Nam tiền
và xương máu…
P.V.Đ.
( Còn nữa… )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét