Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

Ngân hàng AIIB:Nước cờ lợi hại của Trung Quốc

(Quốc tế) - Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới.

Ngày 18/1, Phó Thủ tướng Nga Arkady Dvorkovich cho biết, Nga hy vọng Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) do Trung Quốc nắm cổ phần chi phối, sẽ thông qua những khoản vay đầu tiên trong vòng sáu tháng tới, theo Reuters.
Không chỉ Nga, mà hàng loạt các quốc gia khác cũng đang chờ AIIB cho vay để có thể có nguồn tài chính phục vụ cho phát triển đất nước trong giai đoạn kinh tế thế giới đang chao đảo do tác động của giá dầu thô giảm mạnh như hiện nay.
Điều này cho thấy AIIB đang được xem như một định chế tài chính cung cấp vốn cho nhiều nền kinh tế, còn Bắc Kinh đang được xem là “bà đỡ” cho nhiều chính phủ, dù AIIB “sinh sau đẻ muộn” so với những định chế tài chính khác trên thế giới như WB, IMF, ADB…

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ảnh: gtreview.com
Điều gì làm cho AIIB trở nên quan trọng như vậy, ngay cả khi nó chưa thực sự vận hành để cung cấp các dịch vụ cho thị trường tài chính?

AIIB – một “siêu ngân hàng thế giới”
Dư luận thế giới cho rằng việc AIIB ra đời là do Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình muốn “dằn mặt” Tổng thống Mỹ Barak Obama khi bị gạt ra ngoài TPP. Song theo người viết thì việc Trung Quốc cho thành lập AIIB còn do chính phủ nước này thực hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế và do chính sự thiếu toàn diện của TPP.
Theo tài liệu giới thiệu thì Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) là một ngân hàng phát triển đa phương (MDB) được hình thành nhằm phục vụ cho thị trường vốn trong thế kỷ 21. AIIB được tổ chức và quản trị dựa trên nền tri thức hiện đại, tập trung vào sự phát triển cơ sở hạ tầng và các ngành sản xuất khác ở châu Á.
Các dự án mà AIIB ưu tiên cung cấp vốn sẽ nằm trong các lĩnh vực điện và năng lượng, giao thông vận tải và viễn thông, cơ sở hạ tầng nông thôn và phát triển nông nghiệp, cung cấp nước và vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường, hậu cần và phát triển đô thị.
AIIB sẽ bổ sung và phối hợp với các MDB hiện có để cùng giải quyết các nhu cầu vốn về cơ sở hạ tầng tại những quốc gia khó khăn ở châu Á. Sự cởi mở và tính toàn diện của Ngân hàng đã phản ánh tính chất đa phương của nó.

AIIB chào đón tất cả các nước trong khu vực Châu Á và ngoài khu vực, các nước phát triển và các đang nước phát triển – nghĩa là AIIB sẽ đón nhận tất cả những cổ đông có mục đích đóng góp vào sự phát triển cơ sở hạ tầng và kết nối các khu vực ở châu Á.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường đã công bố sáng kiến ​​thành lập AIIB trong những chuyến thăm đến các nước Đông Nam Á vào tháng 10/2013. Theo tính toán của của Trung Quốc thì nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng tại Châu Á cần tới khoảng 8.000 tỷ USD, vì vậy Bắc Kinh đã xác định quy mô của AIIB với số vốn đóng góp của các cổ động lên đến 1.000 tỷ USD, theo aiib.org.
Đến nay, đã có 56 quốc gia trên thế giới tham gia làm thành viên sáng lập AIIB cùng với Trung Quốc và cam kết số vốn góp lên đến 981,514tỷ USD, gần bằng con số như Bắc Kinh dự tính ban đầu. Điều này làm cho AIIB trở thành định chế tài chính lớn nhất thế giới hiện nay.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào thành phần trong danh sách các nền kinh tế tham gia AIIB mới thấy nó là một “siêu ngân hàng thế giới” chứ không chỉ đơn giản là định chế tài chính có quy mô lớn nhất mà thôi. Và nó được xem là công cụ mà Bắc Kinh sẽ sử dụng cho cả mục đích kinh tế và mục đích chính trị của mình trong tương lai.

Ngày 18/1, Ban điều hành của AIIB họp lần đầu tiên tại Bắc Kinh, Trung quốc. Ảnh : aiib.org.
Những nước thuộc G7 tham gia AIIB có Đức, Anh, Pháp, Italia, Canada. G20 có thêm Nga, Úc, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Ả Rập Xê Út, Nam Phi, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. EU có thêm: Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Luxembourg, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Bỉ, Séc, Hungary.
Những nước OPEC tham gia AIIB có thêm Iran, Kuwait, Qatar, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất UAE. ASEAN có thêm Brunei, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Như vậy, có 5/7 nước G7, 15/20 nước thuộc G20, 16/28 nước thuộc EU, 5/13 nước thuộc OPEC và có 9/10 nước thuộc ASEAN, là thành viên của AIIB. Nghĩa là hầu hết những cường quốc kinh tế, những quốc gia phát triển trên thế giới quy về dưới trướng Bắc Kinh. Vì vậy, giới quan sát cho rằng AIIB là một “siêu ngân hàng thế giới của Trung Quốc”.
Và ngày 16/1 vừa qua AIIB đã chính thức đi vào hoạt động với vốn đóng góp đợt đầu của các thành viên là 10% của vốn cam kết, tức là khoảng gần 100 tỷ USD. Với hơn 29% vốn góp, Trung Quốc đóng vai trò chi phối hoạt động của AIIB. Trụ sở của AIIB đặt tại Bắc Kinh và Chủ tịch đầu tiên của Ngân hàng này là người Trung Quốc – ông Kim Lập Quần, theo aiib.org.
Qua việc thành lập AIIB người ta có thể nhận ra đây là một trong những bước đi của Trung Quốc trong việc chi phối, tiến tới thống trị nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21 – điều mà Mỹ quyết tâm ngăn chặn. Liệu Trung Quốc có thể làm được điều ấy và sẽ thực hiện theo cách nào?
AIIB – công cụ Bắc Kinh chặn đầu chặn đuôi Washington
Do Tổng thống Barak Obama chuyển hướng trọng tâm trong chiến lược quan hệ quốc tế sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nên đã khởi động Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tuy nhiên, Mỹ đã gạt Trung Quốc ra ngoài TPP để tránh hậu họa là Bắc Kinh trở thành bá chủ thế giới trong thế kỷ 21, theo The NewYork Times ngày 4/12/2015.
Có thể thấy rằng, TPP là một hiệp định thương mại tự do giữa các đối tác hai bên bờ Thái Bình Dương. Đấy chỉ là hiệp định thuần túy về thương mại. Mục đích của hiệp định này nhằm hướng tới việc tự do và bình đẳng trong quan hệ thương mại giữa các thành viên tham gia hiệp định.
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương có 12 nước tham gia gồm Mỹ, Nhật, Canada, Úc, New Zealand, Singapore, Brunei, Peru, Chile, Mexico, Malaysia và Việt Nam, theo ustr.gov/tpp
Có thể hiểu một cách đơn giản là, việc các quốc gia được hưởng lợi là nhờ giảm thủ tục và áp thuế suất ưu đãi cho những hàng hóa trao đổi giữa các thành viên, trong đó có nhiều mặt hàng thuế suất bằng 0. Nói một cách nôm na là bán hàng giá rẻ và mua hàng giá cũng rẻ.
Như vậy, người dân và doanh nghiệp của các nước tham gia TPP là những đối tượng chịu sự ảnh hưởng trước tiên và trực tiếp nhất bởi hiệp định này.
Khi TPP vận hành thì có thể mang đến cả lợi ích và thiệt hại cho các thành viên. Việc lợi nhiều hay thiệt nhiều là do sức mạnh của nền kinh tế cũng như những chủng loại hàng hóa mà quốc gia có thể xuất khẩu được và những mặt hàng mà người dân và doanh nghiệp có thể tiêu thụ được. Nghĩa là lợi và hại là rất tương đối và tùy theo lĩnh vực cụ thể.

Tổng thống Mỹ Barak Obama đang ca ngợi TPP trên diễn đàn APEC tại Philippines tháng 11/2015. Ảnh: AP.
Tuy nhiên, muốn được lợi và tránh thua thiệt thì điều kiện cần và đủ là phải có hàng để bán và có tiền để mua hàng sử dụng. Nghĩa là phải có tiền, có hàng hóa thì mới có thể thấy được lợi ích của TPP.
Tuy nhiên, TPP chỉ thuần túy là hoạt động thương mại, chứ không liên quan đến dịch vụ tài chính – một yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo cho hoạt động thương mại có thể diễn ra.
Một ví dụ đơn giản là Việt Nam tham gia TPP nên mặt hàng may mặc của Việt Nam được hưởng lợi khi xuất khẩu vào thị trường Úc với thuế nhập khẩu của Úc là 0% chẳng hạn, nhưng nếu không đủ vốn để phát triển sản xuất thì lợi thế đó chẳng có ý nghĩa gì.
Ngược lại, Việt Nam giảm thuế nhập khẩu hàng nông sản từ các nước TPP bằng 0% chẳng hạn và New Zealand sẽ xuất khẩu gạo vào Việt Nam vì giá của họ rẻ hơn, gạo ngon hơn.
Nông dân và doanh nghiệp kinh doanh gạo Việt Nam sẽ thua thiệt nều không có vốn cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lượng để không mất thị trường nội địa – nghĩa là không để người Việt Nam ăn gạo New Zealand.
Điều đó cho thấy. những bên tham gia vào TPP chỉ tạo ra sự thuận lợi cho đối tác và cũng khai thác tối đa sự thuận lợi mà đối tác tạo ra cho mình. Ở đây không có sự tương trợ, hỗ trợ giữa các đối tác, thậm chí còn ngược lại để có thể được lợi nhiều hơn – nghĩa là phải cạnh tranh sòng phẳng với phương châm: mạnh thì thắng, yếu thì chết (chứ không chỉ là thua).
Vì vậy, sẽ có đối tác thua thiệt rất nhiều khi tham gia TPP nếu như tài chính công và tài chính doanh nghiệp yếu, sức mạnh kinh tế nội địa kém hơn so với các đối tác khác.
Đây chính là sự thiếu toàn diện của TPP mà Trung Quốc nhắm tới khi xúc tiến việc thành lập AIIB. Có thể mục tiêu của AIIB là cho giúp cho Châu Á thoát nghèo, nhưng tác động vào TPP mới là mục đích của Bắc Kinh, theo The New York Times ngày 4/12/2015.
Trong số 12  nước tham gia TPP thì có tới 7 quốc gia là cổ đông và cổ đông sáng lập của AIIB, điều đó cho thấy khi TPP vận hành thì AIIB có sự chi phối tới nhiều chủ thể của nó. Nghĩa là tiền của AIIB sẽ làm nên hàng hóa cho TPP  – dịch vụ tài chính của AIIB có sự chi phối hoạt động thương mại của TPP.
Như vậy dù không được tham gia vào TPP, thậm chí bây giờ có thể nói là không cần TPP, nhưng Trung Quốc đã có ảnh hưởng trực tiếp tới TPP và được hưởng lợi khi TPP vận hành.
Do vậy, trước đây Trung Quốc có thể có ý định ngăn cho TPP chậm được các nước thông qua, thì nay Trung Quốc có thể sẽ thúc đẩy TPP nhanh chóng khởi động và vận hành.
Song Trung Quốc sẽ không chỉ “ngồi mát ăn bát vàng” mà Bắc Kinh sẽ sử dụng AIIB như một công cụ tác động mang tính chi phối tới TPP, mà mục đích là chặn hướng đi của Washington tới Châu Á – Thái Bình Dương hay nói cách khác là buộc người Mỹ đi theo hướng của Bắc Kinh.

Chủ tịch Trung Quốc thăm Anh quốc mở ra “kỷ nguyên vàng” giữa hai nước, một sự thay thế thế cho quan hệ Mỹ – Anh. Ảnh: BBC.
Bên cạnh đó, khi Tổng thống Obama khởi động TPP thì cũng đồng thời xem nhẹ quan hệ với những đối tác truyền thống ở các khu vực khác, trong đó có EU. Thế là Bắc Kinh thấy đây là cơ hội trời cho nên đã nhanh chân thay thế Mỹ, trở thành đối tác quan trọng của những “người bạn cũ” của Mỹ, theo BBC ngày 20/10/2015.
Với thành phần cổ đông và cổ đông sáng lập của AIIB thì có thể thấy rằng, những đối tác mà Mỹ “buông” đã nằm trong sự chi phối của Bắc Kinh thông qua lợi ích từ AIIB và cơ chế hoạt động của nó.
Có thể thấy rằng, nếu TPP không mang lại hiệu quả như Mỹ mong muốn thì Washington cũng không còn cửa quay lại với những đối tác truyền thống vì Bắc Kinh đã thay thế họ mất rồi.
Có thể thấy rằng, lúc này thúc đẩy cho TPP khởi động là nhiệm vụ tối quan trọng của chính quyền Tổng thống Obama, nhưng khi nó vận hành thì người được hưởng lợi đầu tiên nhất không phải là Washington mà lại là Bắc Kinh.
Và Trung Quốc sẽ tác động vào TPP theo hướng chi phối nó ngày càng nhiều trong tương lai, mà mục đích hướng tới là khống chế Mỹ.
Như vậy, Bắc Kinh đã chặn cả đường tiến lẫn đường lùi của Washington trong một thế trận được họ bày ra với việc sắp đặt lại những quân cờ mà có thể Mỹ đã vội vàng cho là “vô dụng”, thông qua dịnh chế AIIB.
Tuy nhiên, cùng với kênh thị trường hàng giá rẻ và tỷ giá tiền tệ có điều tiết, thì dịch vụ tài chính của AIIB cũng chỉ là công cụ phục vụ cho những kế hoạch mang tính sách lược của Trung Quốc mà thôi.
Việc Bắc Kinh nuôi mộng bá chủ thế giới được Tập Cận Bình xây dựng bằng một chiến lược mang tên “Con đường tơ lụa mới” mà khi phân tích về nó, người ta sẽ hiểu được lý do tại sao Bắc Kinh quyết tâm gây hấn tại Biển Đông cũng như gây ảnh hưởng ngày càng lớn tại Trung Đông và thực hiện “đồng hóa” tại Châu Phi.
Tất cả các công cụ đều được sử dụng nhằm phục vụ cho ý đồ của Bắc Kinh nhằm thống trị thế giới.
(Theo Giáo Dục Việt Nam)

(Kinh tế) - Bất kể những quan điểm trái chiều giữa các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới tại Davos, Thụy Sĩ về tương lai của nền kinh tế Trung Quốc, thì một kịch bản hầu như nhận được sự đồng tình của tất cả là: kinh tế Trung Quốc chắc chắn sẽ giảm tốc, thậm chí là rất mạnh trong vài năm tới.

kinh te Trung Quoc, giam toc, kinh te, Viet Nam, hang hoa xuat khau, thi truong
Giảm phụ thuộc vào Trung Quốc là điều tốt cho nền kinh tế Việt Nam
Đây có thể xem là một tín hiệu không mấy vui mừng cho các nền kinh tế có mức phụ thuộc lớn vào hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Với Việt Nam cũng tương tự, nhưng xét trên khía cạnh về lâu dài, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn nhất để tái định hình nền kinh tế, thì đây cũng không hẳn là một điều đáng buồn. Thậm chí, một Trung Quốc giảm tốc trong tương lai gần đang lại là một điều tốt cho nền kinh tế Việt Nam.
Trung Quốc giảm tốc ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam như thế nào?
Bất kể những quan điểm trái chiều trong việc dự đoán tương lai nền kinh tế Trung Quốc, thì các chuyên gia hàng đầu thế giới tại Davos đều thống nhất với nhau rằng: nền kinh tế số hai thế giới sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng chậm nhất trong ba thập kỷ, và còn chậm hơn nhiều so với mức tăng trưởng 2015.
Nhận định đó không chỉ đến từ một nhà đầu cơ vốn nổi tiếng về sự thính nhạy về kinh tế và tài chính như George Soros, mà còn đến từ một nhà kinh tế đã từng đoạt giải Nobel kinh tế như Joseph Stiglitz. Vị giáo sư trường đại học Columbia này là người lên tiếng mạnh mẽ nhất cho kịch bản kinh tế Trung Quốc sẽ không rơi vào khủng hoảng, nhưng chắc chắn sẽ giảm tốc khá mạnh và có nguy cơ rơi vào trì trệ. Stiglitz cũng cảnh báo rằng sự trì trệ của kinh tế Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn thế giới.
Việt Nam cũng không là ngoại lệ, nhất là khi mối quan hệ về kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là nhỏ. Trung Quốc hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam sau Mỹ, EU và ASEAN. Trung Quốc cũng đang là quốc gia đứng đầu về lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam lên tới 49,3 tỉ USD, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2015.
Ngoài ra, Việt Nam lại là quốc gia láng giềng có chung đường biên giới với Trung Quốc, điều này dẫn đến những quan hệ kinh tế và thương mại ngầm có quy mô rất lớn mà đôi khi không thể kiểm soát hết được, chẳng hạn như lượng trao đổi thương mại chưa được thống kê từ Trung Quốc vào Việt Nam trong giai đoạn 2014-2015 có thể lên tới gần 20 tỉ USD mỗi năm. Tuy nhiên, vì mối quan hệ chủ đạo giữa kinh tế Việt Nam và Trung Quốc là nằm ở lĩnh vực xuất nhập khẩu, nên sự giảm tốc của kinh tế Trung Quốc cũng sẽ tác động đến kinh tế Việt Nam qua con đường xuất nhập khẩu này.
Trước hết, sự giảm tốc của Trung Quốc sẽ đem lại những hệ quả xấu đến lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Các lĩnh vực xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam sang Trung Quốc như nông sản, thủy hải sản, khai khoáng, cao su, đồ gỗ,… sẽ gặp ảnh hưởng nặng nề do nhu cầu của thị trường Trung Quốc suy giảm. Đây là một bất lợi rất lớn cho Việt Nam, đặc biệt là ngành nông nghiệp, khi mà thị trường Trung Quốc đang chiếm tới 45% tổng lượng hàng rau quả xuất khẩu của Việt Nam, lớn hơn tất cả các thị trường Nhật Bản, Mỹ và các nước EU cộng lại. Một khi nhu cầu suy giảm, rau quả Việt Nam sẽ rơi vào cảnh dư thừa nguồn cung và có thể gây ra những hệ lụy lớn, do yêu cầu chất lượng rau quả từ thị trường Trung Quốc khác rất xa với thị trường Nhật, Mỹ hay EU để có thể chuyển đổi thị trường xuất khẩu.
Tác động lớn thứ hai là sự sụt giá của đồng nhân dân tệ. Chắc chắn trong thời gian tới đồng nội tệ của Trung Quốc sẽ còn tiếp tục sụt giá mạnh hơn nữa, đem lại lợi thế cạnh tranh rất lớn cho hàng hóa xuất khẩu của nước này. Nó có thể khiến cho hàng hóa Trung Quốc đổ vào Việt Nam mạnh hơn do giá rẻ và cạnh tranh hơn với các doanh nghiệp nội địa. Ngoài ra, nó cũng khiến các chủng loại hàng hóa Trung Quốc xuất ra thị trường thế giới cũng sẽ cạnh tranh mạnh hơn với hàng xuất khẩu Việt Nam, chẳng hạn như nông sản, gia công phần mềm, thực phẩm hay xi măng.
Giảm phụ thuộc vào Trung Quốc là điều tốt cho nền kinh tế Việt Nam
Trước hết, sự giảm tốc của Trung Quốc cũng đem lại những lợi ích nhất định cho kinh tế Việt Nam. Đầu tiên là việc nhân dân tệ giảm giá sẽ đem lại lợi ích khá lớn cho nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc, mà Việt Nam vốn đang có giá trị kim ngạch khá lớn. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, với tổng giá trị 49,3 tỉ USD và vẫn đang có xu hướng tăng lên; việc đồng nhân dân tệ hạ giá sẽ đem lại lợi ích cho nhập khẩu Việt Nam có thể bù đắp được bất lợi từ xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc. Nó có thể đem lại lợi ích cho hàng loạt các lĩnh vực sản xuất ở Việt Nam đang phụ thuộc vào linh kiện thiết bị máy móc và nguyên liệu sản xuất từ Trung Quốc.
Nhưng về lâu dài, lợi ích lớn nhất mà Việt Nam nhận được từ sự giảm tốc của Trung Quốc là cắt được tảng đá níu chân nền kinh tế Việt Nam mang tên Trung Quốc. Đúng là Trung Quốc là một thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, với tổng giá trị lên tới 17 tỉ USD trong năm 2015 và đứng thứ tư trong số các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nhưng chính sự phụ thuộc vào xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đang khiến sức cạnh tranh và áp lực đổi mới của hàng loạt lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam bị trì trệ. Hầu hết các lĩnh vực xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang Trung Quốc đều là những lĩnh vực đang bị cảnh báo là rất trì trệ và yếu kém, chẳng hạn như nông nghiệp hay khai khoáng tài nguyên.
Dễ dàng để giải thích điều này. Lý do chủ yếu đến từ việc các tiêu chuẩn của thị trường Trung Quốc so với các thị trường khác về nhập khẩu hàng hóa là rất thấp. Hầu hết các nông sản của Việt Nam bị Mỹ hay Nhật và EU trả về do chất lượng không đảm bảo đều có thể xuất sang Trung Quốc. Nó dẫn đến việc mô hình sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp không phải chịu nhiều sức ép cạnh tranh và đổi mới. Nói cách khác, thị trường Trung Quốc đang là cái van giảm áp để một số lĩnh vực trì trệ của Việt Nam níu kéo để tránh áp lực cải cách.
Ngoài ra, cũng phải kể đến cách thức làm ăn thiếu minh bạch và có thể dẫn đến nguy cơ thao túng của phía Trung Quốc. Hầu hết các nông sản Việt Nam xuất sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch và dễ bị thương lái Trung Quốc ép giá. Theo thống kê, sau khi hội nhập ASEAN năm 1995, báo cáo hội nhập cho biết tổn thất sau thu hoạch của nông sản là từ 25-30%, đến hiện tại tỷ lệ này vẫn không đổi. Tình trạng các thương lái Trung Quốc thao túng thị trường và sản phẩm nuôi trồng bằng cách tăng giá và thu mua đang là một sự đe dọa lớn với an ninh nông nghiệp Việt Nam.
Nói cách khác, sự giảm tốc của Trung Quốc đang đem lại một cơ hội lớn để Việt Nam cải tổ các lĩnh vực yếu kém nhất trong nền kinh tế của mình. Dễ dàng nhận ra, các lĩnh vực mạnh nhất của Việt Nam đều hướng đến xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Nhật, EU, trong khi các lĩnh vực kém nhất thì chăm chăm xuất khẩu hàng sang Trung Quốc. Có thể sự sụt giảm thương mại với Trung Quốc sẽ dẫn đến những hậu quả xấu trong tương lai gần cho một số lĩnh vực, nhưng về lâu dài đó là cơ hội để các lĩnh vực này cải tổ và đổi mới. Suy cho cùng, có sự lớn mạnh nào mà không cần phải trả giá.
(Theo Một Thế Giới)

Không có nhận xét nào: