Vương Thị Mỵ, sinh năm 1982, dân tộc H’Mông, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, một trong những đại biểu trẻ nhất về tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Cũng giống như chuyện con ba ba ở
Hồ Gươm vừa chết, nhiều người nói rằng từ xưa người Hà Nội đã coi đó là “cụ
rùa”, coi đó là “hồn thiêng sông núi”. Là một người sinh ra và lớn lên ở Hà
Nội, đã nhiều lần cùng chúng bạn xem rùa nổi ở Bờ Hồ thời cắp sách tới
trường, tôi khẳng định chuyện tôn vinh “cụ rùa” chỉ mới xảy ra khoảng ba chục
năm nay do một số người giả danh khoa học với động cơ hoàn toàn bất lương. Đơn
giản thế này thôi: vào cái thời mà đền miếu còn để hoang phế, thậm chí bị phá
bỏ; đình chùa trở thành kho chứa phân bón hay thuốc trừ sâu; Thần thánh còn bị
xem thường, làm sao người ta có thể tôn con rùa thành “cụ”? Điều này có thể dễ
dàng kiểm chứng bằng cách giở lại những tờ báo từ nhiều năm trước.
Còn chuyện sắc đẹp của
con gái Tuyên Quang thì chẳng phải “từ xưa” nào cả, chỉ mới đây thôi. Nó là thế
này:
Khoảng từ giữa
những năm 60 của thế kỷ trước, dân gian các tỉnh miền Bắc, nhất là đám thanh
niên, bộ đội hay truyền nhau câu tục ngữ mới “chè Thái, gái Tuyên”. Tôi
có thể khẳng định khoảng thời gian câu tục ngữ này ra đời vì ban đầu, câu này
là “Chè Bắc Thái, gái Tuyên Quang”. Tên (tỉnh) Bắc Thái chỉ có từ năm 1965, sau
khi thực hiện sáp nhập các tỉnh như Hà Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang), Bắc Thái
(Bắc Cạn và Thái Nguyên), Hà Tây (Hà Đông và Sơn Tây), Nam Hà (Nam Định và Hà
Nam)…
Trong bài trước (“Chè
Thái”), tôi đã góp phần lý giải vì sao mà “chè Thái” nổi tiếng. Hôm nay, xin
nói tới chuyện vì sao “gái Tuyên” được câu tục ngữ trên coi là đẹp, hay
nói khác đi, vì sao Tuyên Quang lại sản sinh ra nhiều người con gái đẹp?
Đầu những năm 60, do
những lý do khác nhau, số Việt kiều ở Tân Đảo (New Guinée) và Thái Lan được đưa
về nước bằng những chuyến tàu thủy cặp cảng Hải Phòng. Để dễ quản lý nhất là về
an ninh (lúc này đất nước chưa thống nhất, sau đó bước vào cuộc chiến tranh
chống Mỹ), bà con không trở về quê quán mà được đưa tới sống tập trung, phần
lớn ở những nơi xa thành phố lớn, xa các trung tâm kinh tế, quốc phòng.
Tôi biết một số nơi như vậy ở Phú Thọ, Nam Định, Thanh Hóa, … Một số bà con
được đưa về sống ở Nông Tiến thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang (cách
Thị xã cũ bởi con sông Lô, khi ấy còn qua lại bằng đò ngang và phà). Nông Tiến
sát Thị xã nhưng dân cư thưa thớt nên cũng đã đón nhận một số bà con từ
Thái Bình lên xây dựng kinh tế mới. Nhưng người Thái Bình thường làm nhà cách
xa đường giao thông để thuận tiện canh tác ruộng nương. Bà con Việt kiều
về có nhiều người sống bám theo mặt đường (con đường cấp phối từ Nông Tiến qua
Đạo Viện vào các xã vùng ATK Tân Trào). Đã có lần vào xin nước uống, tôi thấy
dù cũng là nhà tranh vách nứa, nhưng nhiều vật dụng trong nhà của họ từ cái
cốc, cái chén, …khá đẹp và lạ mắt do mang từ nước ngoài về. Một số người mở các
cửa hiệu như may mặc, đặc biệt có cửa hiệu thấy đề biển “uốn tóc lạnh”. (Ở Hà
Nội, muốn uốn tóc phải có điện, nhưng Nông Tiến khi ấy chưa có điện, ngay Thị
xã điện cũng chưa phổ biến).
Tôi không có điều kiện
tìm hiểu cái kỹ thuật “uốn lạnh” này nhưng nhờ nó, các cô gái mới về nước
vẫn giữ được những mái tóc đa dạng, đẹp mắt khi còn ở xứ người và rất
khác lạ so với kiểu tóc phổ biến ở phụ nữ lúc đó, thường là tóc ngang vai hoặc
tóc tết “đuôi sam”. Cũng xin nói thêm, lối tết tóc “đuôi sam” du nhập vào nước
ta sau chiến dịch Biên giới năm 1950 cùng với phim ảnh của Trung Quốc, Liên Xô và
các nước Đông Âu, và phát triển rộng khắp từ sau khi Tiếp quản Thủ đô 1954,
có lẽ vì nó giúp phái đẹp thỏa mãn ý thích để tóc dài mà đầu tóc vẫn dễ
gọn gàng.
Nhà máy dệt Nam Định là cơ
sở công nghiệp duy nhất sản xuất vải mặc. Sản phẩm của nhà máy lúc ấy thường là
lụa đen cho giới nữ, vải “chéo” xanh công nhân (cái tên màu sắc nhưng cũng tỏ
ra rất có ý thức giai cấp) dành cho giới nam may quần và màu trắng để may áo
cho cả hai giới, từ cái màu cơ bản này, người ta có thể nhuộm thủ công để có
một số màu đơn giản khác. Mãi tới năm 1965, sau khi nhà máy dệt 8/3 được Trung
Quốc giúp đỡ xây dựng xong, ta mới sản xuất được vải hoa. Dù mẫu mã nghèo
nàn nhưng vải là loại hàng hóa phân phối bằng tem phiếu. Vì thế, lối mặc khi ấy
khá đơn điệu nhất là từ khi chiến tranh phá hoại xảy ra. Hầu hết, khắp nơi cùng
với hai màu đen, nâu truyền thống, nay thêm màu “rêu” và màu “cỏ
úa” để đỡ phải ngụy trang (trước đó, được gọi là màu “cứt ngựa” phổ biến trong
trang phục của lính Nhật khi chiếm đóng ở Việt Nam, đến lúc này được đổi tên
thành màu “cỏ úa” cho trang nhã). Kiểu cách cũng đã rất lâu đời, quần hay áo
đều rộng phù hợp với hoàn cảnh lao động tay chân nhưng làm mất đi vẻ đẹp vốn có
của phụ nữ. Cùng với mái tóc uốn lạ mắt (chỉ có thể thấy ở số rất ít phụ nữ ở
Thủ đô), các cô gái Việt kiều có cách ăn mặc khác hẳn với người cùng giới lúc
bấy giờ. Làn da chưa bị cái nắng tàn phá của họ được tôn lên rất nhiều nhờ
những bộ quần áo nhiều màu sắc và gọn gàng, tôn vẻ đẹp tự nhiên của người con
gái. Ngay đôi dép họ đi cũng đa dạng và đẹp mắt chứ không phải là đôi dép cao
su đen “xì” mà thường những cán bộ nhà nước hay bộ đội mới có (phổ biến khi ấy
người ta dùng guốc, ở nông thôn thường vẫn đi đất, trước khi đi ngủ, làm sạch
chân bằng cái chổi “lúa” ở xó nhà hoặc dùng “phương thức” “ba xoa một đập”, nhà
nào “khá” hơn thì có một đôi guốc để mọi người dùng chung).
Những năm tháng ấy, ở
miền Bắc, cái xe đạp không chỉ là phương tiện di chuyển mà còn là cả một gia
tài. Nhiều nhà ở nội thành Hà Nội cũng không có xe đạp, đi lại chủ yếu nhờ tàu
điện hoặc đôi chân. Xe đạp hầu hết cũng từ thời Pháp để lại, nó thường đơn
giản, hiếm có xe đủ chắn bùn (garde-bou) , chắn xích (garde-chain) để phù hợp
với đường xá hầu hết là đường đất. Vì đã sử dụng lâu, nên các bộ phận được mạ
đều đã rỉ sét, từ đôi vành, cái nan hoa … đến cái ghi-đông, sơn trên
khung xe cũng đã bong tróc, không còn nhận ra màu sắc ban đầu. Nhưng
những cái xe đạp mang từ Thái Lan về dù vẫn với những chức năng ấy lại có vẻ
đẹp khác lạ. Xe đầy đủ các bộ phận và thiết kế có vẻ như dành cho các cuộc
dạo chơi chứ không phải để thồ hàng như ở ta. Xe nào cũng có cái “xích
hộp” (Mãi tới khoảng năm 1966 – 1967, loạt xe Phượng Hoàng do Trung Quốc viện
trợ mới có nhưng về mặt mỹ thuật thì vẫn thua xa).Tất cả đều láng bóng vì
xe mới mua trước khi về nước. Cuộc sống của bà con xem chừng cũng có vẻ
“nhàn hạ” hơn , không phải lam lũ như những người xung quanh. Có thể những
khoản tiền dành dụm trước khi về nước vẫn chưa cạn. Tất cả những điều ấy
tạo nên một vẻ đẹp riêng khiến nhiều người, nhất là các chàng trai ngưỡng mộ.
Cán bộ, bộ đội khắp nơi mỗi khi đi công tác qua Tuyên Quang, gặp những cô gái
ấy thì “lóa mắt”, hình như không còn thấy những người con gái rất bình dị khác
ở những nơi họ từng qua.
Thế là, những cô
“gái Tuyên Quang”, “gái Tuyên” trở thành những ấn tượng chưa từng thấy, Tuyên
Quang trở thành nơi sản sinh ra những cô gái “nghiêng nước nghiêng thành”. Chứ
thực ra, đâu chẳng có người đẹp như tranh, đồng thời cũng thiếu gì người “ma
chê quỷ hờn”.
Tôi không dám khẳng định
những lời giải thích trên là hoàn toàn đúng đắn, nhưng cũng xin mạnh dạn đưa ra
dù chỉ một giả thiết giúp mọi người thận trọng khi hiểu câu tục ngữ này. Với sự
phát triển của các mạng xã hội hiện nay, những cách hiểu khác nhau trong đó có
cả những điều chưa chính xác, thậm chí sai lầm rất dễ được lan truyền.
Nếu không được đính chính kịp thời, tất cả sẽ mau chóng trở thành
ngộ nhận cho số đông, nhất là các bạn trẻ.
( Blog Ông Giáo làng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét