Bút ký Phạm Viết Đào.
Trước cửa hang Nà Cáy; Người đứng góc ảnh là Nguyễn Xung Kích, Mặt trận tổ quốc Hà Giang
Nà Cáy buồn quay quắt
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng...
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng...
Khắp lòng hang sực lên mùi máu, mùi cồn
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền...
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền...
Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
( Thơ Nam Thái Trần)
Đôi lời:
Theo quốc lộ số 2 từ thành phố Hà Giang ngược lên cửa khẩu
Thanh Thủy, tới cây số 17, bên trái dước Hà Giang lên có tẩm biển chỉ địa hang
Nà Cáy…
Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt từ 1984-1989, hang Nà
Cáy được sử dụng làm trạm phẩu thuật tiền phương do có địa hình thuận lợi, cách
khu vực chiến sự ác liệt có khoảng 2 km. Hang Nà Cáy nằm phía vách núi dựng
đứng nên pháo Trung Quốc không thể câu qua…
Trong chuyển thăm Hà Giang năm 2011, các CCB Hà Giang đã
đưa tôi lên thăm hang Hà Cáy, nơi in dấu tích xương máu của hàng ngàn liệt sĩ,
thương binh trong những năm tháng ác liệt..
Hiện nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên đặt ở xã Đạo Đức quy tập
1700 hài cốt liệt sĩ, phần lớn trước tiên được quy tập về Nà Cáy, sau đó mới
chuyển về Nghĩa trang Đạo Đức…
Về những dấu tích chiến tranh liên quan tới Nà Cáy, trong
tiểu thuyết Dòng sông Mía của nhà văn Đào Thắng có kể về một câu chuyện: Một bà
mẹ dưới xuôi lên thăm con đang chiến đấu tại mặt trận Vị Xuyên, lên đến nơi thì
thấy cọn mình còn lại xác và lúc nhúc dòi…
Về những cảnh tang thương của chiến tranh tại Nà Cáy, CCB
313 Trần Nam Thái đã ghi trong một bài thơ anh viết từ 1986 về những điều mà
anh chứng kiến: Cảnh đêm đêm, nhữngng đàn chuột bò đi moi mắt những tử sĩ do
chưa kịp chuyển về nghĩa trang Đạo Đức do địch bắn phá ác liệt; bộ đội của ta
lại phải lấy đá nặng đắp lên mặt tử sĩ để chuột không moi mất mắt; Rồi cảnh ban
ngày những đám mây ruồi bu vây các xác tử sĩ; Rồi cảnh xác tử sĩ lúc nhúc dòi;
Rồi cảnh thương binh được cáng về đặt nằm cạnh các xác chết…
Xin ghi lại một vài cảm nhận về hang Nà Cáy và giới thiệu
bài thơ NÀ CÁY, MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN của CCB 313-FB Trần Nam Thái, hiện đang
làm việc tại Học viện Bưu chính Viễn thông Hà Đông…
Ở Vị Xuyên, có 3 nơi đã được lập đền thơ để các CCB và du
khách thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ: Nghĩa trang Vị Xuyên ở xã Đạo Đức; Đền
thờ ở cao điểm 468, nơi quân ta tập kết chuẩn bị các trận đánh chiếm lại cao
điểm 685, 772, 1509…Đến thờ này do các CCB tự bỏ kinh phí ra để lấy chỗ thắp
hương…
Có một am thờ được xây dưới Hang Dơi. Nơi đây từng dấu tích
một quả pháo kích giết chết 47 bộ đội đặc công của ta chuẩn bị xuất kích đánh
chốt…
Sự hy sinh của 47 chiến sĩ đặc công hiện nay vẫn là một dấu
hỏi vì hang này có vách đá dựng đứng, khó lòng Trung Quốc có thể bắn pháo vào
được. Có nhiều CCB cho rằng chính lựu pháo của ta do bắn hút tầm đã bắn trúng
quân ta…
Do đêm đêm sáng sáng, những ngày mờ sương, đơn vị Đoàn 313
đóng phái bên này vẫn nghe tiếng bộ đội hô tập hập luyện quân bên phía Hang
Dơi, thỉnh thoảng bộ đội bên này vẫn bắt gặp các vong sang giao lưu với họ nên
an hem đã lập am thờ…
Bên cạnh 3 địa điểm trên, tại hang Nà Cáy, chính quyền, các
cựu chiến binh cũng nên lập một cái am thờ làm nơi lui tới, hương khói cho
nhiều vong linh vẫn còn lưu tán nơi đây chưa được đón về quê hương bản quán…
Nà Cáy, dấu tích xương máu của hàng ngàn liệt sĩ
Sáng
24/10/2011, tôi thuê một chuyến tăxi để đi từ Hà Giang để đi lên thăm cửa khẩu
Thanh Thủy, thăm những địa danh nổi tiếng của mặt trận Vị Xuyên Hà Giang trong
cuộc chiến tranh biên giới chống quân Trung Quốc xâm lược từ năm 1981-1988.
Dọc đường đi, anh Nguyễn Tiến Viên, nguyên pháo thủ của E (Trung đoàn ) 457, Sư 313, là người từng gắn bó với mặt trận này từ 1981-1988 làm hướng dân viên tình nguyện cho tôi.
Dọc đường đi, anh Nguyễn Tiến Viên, nguyên pháo thủ của E (Trung đoàn ) 457, Sư 313, là người từng gắn bó với mặt trận này từ 1981-1988 làm hướng dân viên tình nguyện cho tôi.
Trên xe
ngoài anh Viên có anh CCB Tô Việt Hùng, Thượng tá, Chủ nhiệm Tổng Hậu cần Trung
đoàn T 77, Nguyễn Xung Kích, Chánh văn phòng Mặt trận tổ quốc tỉnh Hà Giang; Họ
đều là những cựu binh của Mặt trận Hà Giang.
Xe bon bon trên con đường đã rải nhựa phẳng lỳ khác với con đường mà tôi đã đi lên đây 2 lần; lần đầu là vào năm 1985, lúc đó chiến sự đang ác liệt và lần thứ hai cách đây 14 năm, năm 1996…
Vừa đi Nguyễn Tiến Viên vừa chỉ cho tôi chỗ này là vị trí của trận địa pháp 130, điểm kia là chỗ đặt lựu pháo 152; đến cây số 17, từ đây lên Cửa khẩu Thanh Thủy đường chim bay chưa tới 2 km, anh Viên đưa tôi ghé thăm Hang Nà Cáy, đây là một trãm phẩu thuật tiền phương của toàn bộ mặt trận Vị Xuyên-Hà Giang…
Theo anh Nguyễn Tiến Viên, chiến tranh đã lùi xa gần 30 năm nhưng mỗi lần nghĩ về Nà Cáy, đi qua Nà Cáy anh lại thấy lạnh người và như có một luồng điện chạy qua sống lưng làm cho cả người anh run lên, nôn nao.
Xe bon bon trên con đường đã rải nhựa phẳng lỳ khác với con đường mà tôi đã đi lên đây 2 lần; lần đầu là vào năm 1985, lúc đó chiến sự đang ác liệt và lần thứ hai cách đây 14 năm, năm 1996…
Vừa đi Nguyễn Tiến Viên vừa chỉ cho tôi chỗ này là vị trí của trận địa pháp 130, điểm kia là chỗ đặt lựu pháo 152; đến cây số 17, từ đây lên Cửa khẩu Thanh Thủy đường chim bay chưa tới 2 km, anh Viên đưa tôi ghé thăm Hang Nà Cáy, đây là một trãm phẩu thuật tiền phương của toàn bộ mặt trận Vị Xuyên-Hà Giang…
Theo anh Nguyễn Tiến Viên, chiến tranh đã lùi xa gần 30 năm nhưng mỗi lần nghĩ về Nà Cáy, đi qua Nà Cáy anh lại thấy lạnh người và như có một luồng điện chạy qua sống lưng làm cho cả người anh run lên, nôn nao.
Anh
Viên cho biết: Nà Cáy là một địa chỉ thiêng của mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang, bởi
nơi đây từng tập kết hàng ngàn thương binh, tử sĩ từ chiến hào, sau khi được sơ
cứu tại chỗ thì được đưa vào đây.
Từ đường
nhựa đường đất đi vào khoảng 600-700 m, xe chỉ đi được quãng thì lùi lại vì
không vào được, chúng tôi đi bộ vào. Anh Viên muốn giới thiệu với chúng
tôi vị trí cái sân của Hợp tác xã, là nơi tập kết các tử sĩ; từ cái sân này,
các thi hài của liệt sĩ sẽ được lau rửa và làm thủ tục khâm liệm, cho vào quan
tài để chở về chôn cất ở nghĩa trang Hà Giang.
Tôi đã
đến Nghĩa trang liệt sĩ Hà Giang, theo ước tính của tôi có trên 1700 ngôi mộ,
chủ yếu đây là những ngôi mộ chôn cất các liệt sĩ chống bành trướng Trung Quốc
trong giai đoạn 1981-1988.
Như vậy,
hầu hết những thi thể của các liệt sĩ, trước khi đưa về nghĩa trang được đưa
vào tập kết ở sân kho hợp tác xã trước cửa hành Nà Cáy…
Còn thương binh thì được đưa vào trong hang để sơ cứu rồi mới chuyển sang tuyến sau.
Còn thương binh thì được đưa vào trong hang để sơ cứu rồi mới chuyển sang tuyến sau.
Hang Nà
Cáy chỉ cách Trung Quốc không xa, chỉ khoảng 2 km đường thẳng chim bay, trong tầm
cối có thể bắn tới, nhưng điều lạ lùng là trong suốt những năm tháng ác liệt,
không có một phát đạn nào bắn vào khu vực này. Đây là cái điểm yên bình gần như
tuyệt đối trong suốt thời kỳ chiến tranh?
Phải chăng linh hồn của những người lính đã có một sức mạnh nào đó làm chùng tay những pháo thủ Trung Quốc.
Phải chăng linh hồn của những người lính đã có một sức mạnh nào đó làm chùng tay những pháo thủ Trung Quốc.
Trong
khi đó thì năm 1985 khi tôi lên Hà Giang, tôi chỉ lên tới km số 4 là đã
không dám ở lâu, vì đại bác Trung Quốc bắn cày xới ngày đêm xung quang rất nhiều.
Tầm bắn của pháp 130 ly theo anh Viên có thể bắn tới 35 km.
Hồi đó
tôi lên tận Trung Đoàn 876, Sư 356 để tìm kiếm về tin tức hy sinh của chú em
tôi là liệt sĩ Phạm Hữu Tạo, hy sinh trong trận 12/7 khi đánh lên Cao điểm 772.
Trước khi lên đây, Nguyễn Xung Kích, Chánh văn phòng của Mặt trận tổ quốc tỉnh Hà Giang đã tìm cách liên hệ để cho tôi gặp và hỏi chuyện một số nhân chứng đã từng tham gia tắm rửa, khâm liệm tử thi liệt sĩ nhưng không liên hệ được vì họ ngại không muốn gặp tôi.
Trước khi lên đây, Nguyễn Xung Kích, Chánh văn phòng của Mặt trận tổ quốc tỉnh Hà Giang đã tìm cách liên hệ để cho tôi gặp và hỏi chuyện một số nhân chứng đã từng tham gia tắm rửa, khâm liệm tử thi liệt sĩ nhưng không liên hệ được vì họ ngại không muốn gặp tôi.
Cùng tại
cái địa điểm này, nhà văn Đào Thắng đã đưa vào cuốn tiểu thuyết Dòng sông Mía của
mình; Trong tiểu thuyết Đào Thắng một tình tiết về một người mẹ ra mặt trận tìm
con, nhưng lại chỉ tìm được thi thể đứa con đứt ruột đẻ ra từ mặt trận trở về
và thi thể đã lúc nhúc dòi…
Thời gian đó, theo anh Viên, chỉ bước mấy chục bước từ đường cái vào đã cảm nhận ra được cái âm khí lạnh lẽo âm u bao trùm.
Khi các thi thể của liệt sĩ được tập kết được đưa về đây, nhiều khi những thi thể người chết bỏ lẫn với thân thể của người bị thương nặng nhưng chưa chết; một số thương binh do nhất thời bị choáng nên khi đồng đội lên đưa về tưởng đã chết nên bị xếp lẫn với người đã hy sinh.
Thời gian đó, theo anh Viên, chỉ bước mấy chục bước từ đường cái vào đã cảm nhận ra được cái âm khí lạnh lẽo âm u bao trùm.
Khi các thi thể của liệt sĩ được tập kết được đưa về đây, nhiều khi những thi thể người chết bỏ lẫn với thân thể của người bị thương nặng nhưng chưa chết; một số thương binh do nhất thời bị choáng nên khi đồng đội lên đưa về tưởng đã chết nên bị xếp lẫn với người đã hy sinh.
Trên đường
đi xe xóc đau nên kêu lên nhưng lái xe không làm gì được. Rất nhiều thương binh
được sơ cứu nhưng rồi cùng không qua khỏi nên đã trút hơi thở cuối cùng ở đây.
Tóm lại, ở cái vùng Hang Nà Cáy này, là cái nơi lưu tụ hàng ngàn linh hồn liệt sĩ và là nơi mang dấu tích xương máu cũng của hàng ngàn thương binh mặt trận Hà Giang. Đối với những người lính từng bỏ một phần xương máu, hoặc đã không thể trở về với gia đình thì Hang Nà Cáy là cái cái chốn linh thiêng của hàng ngàn linh hồn.
Tóm lại, ở cái vùng Hang Nà Cáy này, là cái nơi lưu tụ hàng ngàn linh hồn liệt sĩ và là nơi mang dấu tích xương máu cũng của hàng ngàn thương binh mặt trận Hà Giang. Đối với những người lính từng bỏ một phần xương máu, hoặc đã không thể trở về với gia đình thì Hang Nà Cáy là cái cái chốn linh thiêng của hàng ngàn linh hồn.
Thế
nhưng khi chúng tôi tìm đến thì hiện trạng hang Nà Cáy như thế nào?
Vừa đi anh Viên vừa hỏi thăm bà con dân tộc đang sống ở đây chỉ hộ vị trí của
cái sân kho hợp tác xã; phải những người trên 40 tuổi mới biết được. Hồi đó bà
con dân tộc sống ở Bản Nà Cáy đều sơ tán về xuôi hết. Một anh nông dân người
Tày đang làm cỏ cho ruộng ngô chỉ cho chúng tôi hướng của vị trí của sân kho.
Thế nhưng anh Viên không thể nào nhận ra ở đâu mà chỉ áng chừng vài vị trí chỉ để tôi chụp ảnh, bởi bây giờ cây cỏ mọc um tùm.
Chuồng dê trước cửa hàng Nà Cáy
Chúng tôi tìm đến hang Nà Cáy trước. Điều đập vào mắt chúng tôi chiếc hang bây giờ đã được bà con biến thành cái chuồng nuôi dê. Anh Viên bất chợt thốt lên. Các anh ạ, tôi cảm thấy có rất nhiều các liệt sĩ đang xuất hiện ở cửa Hang, các anh rất vui khi thấy chúng ta đến thăm các anh.
Tôi có
phần chột dạ, khi đi chúng tôi quên mua một nén hương. Cả đoàn quyết định quay
vào ngôi nhà của một gia đình người Tày gần đấy, xin gia đình bán lại cho chúng
tôi một thẻ hương để chúng tôi thắp hương gửi tới linh hồn các anh.
Vào nhà
tôi gọi mãi nhưng thấy ai có trong nhà mà chỉ nghe thấy tiếng Đài đang nói, một
chốc sau chị Nguyễn Thị Dung là chủ nhà từ ngoài ruộng mới quay về. Chúng tôi
xúm vào hỏi chuyện, trước hết xin mua lại một thẻ hương của nhà chị. Còn anh
Viên hỏi thăm vị trí của cái sân kho. Chị Dung nói là không biết rõ lắm vì hồi
đó chị mới 4 tuổi, chị Dung nhớ mang máng là nằm ở cạnh thửa ruộng.
Chị Nguyễn Thị Dung, người dân tộc Tày, nhà trước cửa hang Nà Cáy, nay là bản
Giang Nam, xã Thanh Thủy kể lại thỉnh thoảng đêm mơ thấy 2 chú bộ đội đi theo
mình…
Anh Viên nói cho chi Dung hiểu ở cái sân kho là nơi đã từng tập kết hàng ngàn thương binh liệt sĩ. Anh Hùng và anh Nguyễn Xung Kích hỏi: Chi Dung có biết không?
Anh Viên nói cho chi Dung hiểu ở cái sân kho là nơi đã từng tập kết hàng ngàn thương binh liệt sĩ. Anh Hùng và anh Nguyễn Xung Kích hỏi: Chi Dung có biết không?
Chị Dung, Nguyễn Xung Kích, Nguyễn Tiến Viên, Tô Việt Hùng
Chi
Dung lắc đầu bảo hồi đó chị sơ tán xa và còn nhỏ nên không biết, khi chiến
tranh kết thúc thì gia đình chị quay về. Anh Hùng anh Viên đều hỏi: Thế gia
đình sống lâu ở đây có thấy hiện tượng gì không?
Chị
Dung cho biết: thỉnh thoảng đêm chị có ngủ mơ thấy có 2 chú bộ đội đuổi theo
mình, còn không thấy gì thêm. Tôi hỏi: thế chỉ thấy trong mơ còn hàng ngày đêm
tối chị có thấy gì không và có sợ không? Chị Dung cười lắc đầu nói là không sợ.
Chúng tôi cầm thẻ hương, mỗi người cầm vài nén bày tỏ tâm thành về việc đến để
thắp hương, tưởng nhớ các liệt sĩ đã bỏ mình vì bảo vệ đất nước.
Vào tới trong hang Nà Cáy, điều làm cho chúng tôi bàng hoàng là trên vách hang vẫn còn sót lại nhiều cái sợi băng gạc buộc ở trên vách đá, tồn tại từ hồi chiến tranh vẫn đang còn. Theo anh Viên thì những sợi băng gạc này dùng để theo buộc các lọ huyết thanh để tiếp nước cho các thương binh nặng. Trên vách hang vẫn còn những sợi dây điện của điện thoại hữu tuyến vẫn còn buộc thắt.
Lòng của chúng tôi se lại. Gần 30 mươi năm đã trôi qua nhưng cái hang vẫn còn nhiều di tích chiến tranh. Thế nhưng giờ đây đã biến thành cái chuồng nuôi dê. Linh hồn của hàng ngàn liệt sĩ vẫn còn lưu tụ ở đây, vẫn hàng ngày hàng giờ chung sống với đàn dê…
Chúng
tôi có lẽ là những người duy nhất vào đây tìm kiếm và an ủi linh hồn các liệt
sĩ mà không có một cấp chính quyền, cơ quan chức năng nào nghì đến việc biến
cái địa điểm linh thiêng này thành một di tích, làm một cái gì đó để hương
khói, an ủi cho những linh hồn tảo lạc của các anh đang cò lưu tụ ở đây chắc chắc
là đói khát, không được ai chăm nom.
Chúng tôi rất muốn lưu lại lâu lâu nhưng vì còn nhiều điểm phải đi thăm nên phải ngậm ngùi quay ra.
Tôi quay ra gặp chị Dung và dặn gia đình nên dời cái chuồng dê vì đây là nơi an nghỉ của hàng ngàn linh hồn liệt sĩ; tôi về xuôi sẽ lên tiếng với với các cơ quan chức năng tìm cách đầu tư, tôn tạo điểm di tích này…
Chúng tôi rất muốn lưu lại lâu lâu nhưng vì còn nhiều điểm phải đi thăm nên phải ngậm ngùi quay ra.
Tôi quay ra gặp chị Dung và dặn gia đình nên dời cái chuồng dê vì đây là nơi an nghỉ của hàng ngàn linh hồn liệt sĩ; tôi về xuôi sẽ lên tiếng với với các cơ quan chức năng tìm cách đầu tư, tôn tạo điểm di tích này…
NÀ CÁY, MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN!
Bạn Nam Thái Trần, CCB F 313, một người lính từng có mặt tại Nà
Cáy trong giai đoạn ác liệt đã gửi 1 bài thơ anh viết từ 1986 ;
Cách đây hơn 30 năm về trước, hang Phẫu ở thôn Nà cáy xã Thanh
Thủy huyện Vị Xuyên tỉnh Hà giang là trạm Quân y, là nơi cứu sống bao đồng đội
bị thương ở tiền duyên. Đây là trạm phẫu tiền phương, thương binh được đưa
về đây, nhưng cũng là nơi nuốt nước mắt để đưa tiễn những đồng đội bị thương
quá nặng không thể cứu chữa được.
Nà Cáy cũng là nơi tập
kết cho các Liệt sỹ đưa về từ tuyến trước! Tuy nhiên có những ngày địch đánh
phá ác liệt ở phía sau xe không thể lên để đưa Thương binh và tử sỹ về được.
Là một người lính trực tiếp làm nhiệm vụ ở Đại đội 25, Trung đoàn 14, Sư đoàn 313 , tôi đã viết bài thơ: MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN ở Nà Cáy trong một ngày mùa thu khói lửa năm 1986!.
Bài thơ đã ghi lại khung cảnh của chiến trường, và tâm tư tình cảm của người lính chiến lúc bấy giờ một cách chân thực.
Là một người lính trực tiếp làm nhiệm vụ ở Đại đội 25, Trung đoàn 14, Sư đoàn 313 , tôi đã viết bài thơ: MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN ở Nà Cáy trong một ngày mùa thu khói lửa năm 1986!.
Bài thơ đã ghi lại khung cảnh của chiến trường, và tâm tư tình cảm của người lính chiến lúc bấy giờ một cách chân thực.
Nó như một thước phim
ngắn, chấm phá những nét đặc trưng cuộc sống chiến đấu gian khổ, sự hy sinh vô
bờ bến, bản lĩnh kiên cường, tinh thần xả thân vì nước để giữ gìn chủ quyền
quốc gia của những người lính Vị Xuyên!
Nhân dịp sắp sang những ngày tháng Bảy không thể nào quên, tôi xin đăng toàn bộ bản gốc của bài thơ: "MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN" .
Nhân dịp sắp sang những ngày tháng Bảy không thể nào quên, tôi xin đăng toàn bộ bản gốc của bài thơ: "MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN" .
Bài thơ này cũng đã được
in trong tập sách " Ký ức hào hùng miền cực Bắc" do bộ chỉ huy quân
sư và Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà giang xuất bản, sau khi bị ban biên tập
xóa bỏ một số câu từ nhạy cảm .
Mong rằng những dòng thơ lính mộc mạc này sẽ mang lại cho người
đọc góc nhìn đa diện hơn về khung cảnh chiến trường , về cuộc sống chiến đấu,
về tâm tư tình cảm của những người lính trong không gian thời gian đó :
NÀ CÁY, MÙA THU KHÔNG BÌNH YÊN!
Mấy hôm
rồi không một chuyến xe lên
Nà Cáy buồn quay quắt
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng
Gió từ dưới sông Lô và đường quốc lộ 2 thốc lên dè dặt
Gió từ đỉnh 812, dông 673 phía trên kia đổ xuống ào ào
Những cơn gió vô tâm, những cơn gió vô tình như cuộn vào nhau
Xộc vào toang hoác xác thân những người lính đã ngã xuống
Xộc vào hoang hoải bần thần tim óc những người lính đang còn sống
Ngách đá kho hậu cần trống rỗng
Gạo mắm đã chia đến từng căn hầm
Khe suối mùa khô chắt nước âm thầm
Quần áo lính giặt xong càng đỏ bầm màu đất
Mảnh đạn dọc ngang chém áo quần rách nát
Suối cũng oằn mình đội pháo giặc suốt ngày đêm
Mấy hôm rồi không thấy xe lên
Cả thung lũng sặc sụa mùi khói đạn
Vách đá trên cao đạn cào trắng toát
Mặt đất dưới sâu đá lật ngổn ngang
Những căn hầm trúng đạn vỡ tan hoang
Những mái nhà âm cháy thành than trơ trụi
Thấp thoáng bóng người lầm lụi
Vác đá, chặt cây, đào đất khoét hầm
Hang phẫu ngổn ngang lính nằm
Những vết thương đỏ máu
Những cuộn băng đỏ máu
Áo Blu quân y đỏ máu
Khắp lòng hang sực lên mùi máu, mùi cồn
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền
Lại phải cho người chạy bộ xuống Làng Pinh
Lấy tạm vài cơ số thuốc
Bên kia bờ khe nước
Lính vận tải nối nhau lục tục lên đường
Ba lô đạn nhọn đè nặng trên lưng
Đòn tre cáng thương, dài ngoằng chổng ngược
Manh võng cáng thương ướt đẫm từ chuyến trước
Phập phờ rỏ nước thối xuống khắp người
Đường xe lên đất đá tơi bời
Hố pháo mới chồng lên hố pháo cũ
Mảnh đạn ngổn ngang bên cây cỏ xới nhào
Có mảnh lẹm sắc như dao
Có mảnh nhọn hơn lá lúa
Chạm vào là máu ứa
Chạm vào là rách thịt da
Những bàn chân mang giày vải vẫn xầm xập chạy qua
Lưng còng xuống, mặt ngẩng về phía trước
Nơi ấy đang cần đạn
Nơi ấy thương binh chờ
Vượt ngã ba cửa tử
Vào Hang Dơi, Làng Lò
Những gương mặt lính sáng lên, rồi lại thẫn thờ
Chẳng có gì đâu trong ba lô toàn đạn nhọn
Bởi mấy hôm rồi chẳng có chuyến xe lên
Những dấu hỏi hằn gương mặt sạm đen
Nỗi buồn tủi ẩn trong lời cảm thán :
Nà Cáy buồn quay quắt
Xác tử sỹ chất đầy bãi đất
Qua một đêm thôi chuột móc hết mắt rồi
Trên thân xác đã trương lên nhung nhúc những đàn giòi
Và ngờm ngợp những đám mây ruồi nhặng
Gió từ dưới sông Lô và đường quốc lộ 2 thốc lên dè dặt
Gió từ đỉnh 812, dông 673 phía trên kia đổ xuống ào ào
Những cơn gió vô tâm, những cơn gió vô tình như cuộn vào nhau
Xộc vào toang hoác xác thân những người lính đã ngã xuống
Xộc vào hoang hoải bần thần tim óc những người lính đang còn sống
Ngách đá kho hậu cần trống rỗng
Gạo mắm đã chia đến từng căn hầm
Khe suối mùa khô chắt nước âm thầm
Quần áo lính giặt xong càng đỏ bầm màu đất
Mảnh đạn dọc ngang chém áo quần rách nát
Suối cũng oằn mình đội pháo giặc suốt ngày đêm
Mấy hôm rồi không thấy xe lên
Cả thung lũng sặc sụa mùi khói đạn
Vách đá trên cao đạn cào trắng toát
Mặt đất dưới sâu đá lật ngổn ngang
Những căn hầm trúng đạn vỡ tan hoang
Những mái nhà âm cháy thành than trơ trụi
Thấp thoáng bóng người lầm lụi
Vác đá, chặt cây, đào đất khoét hầm
Hang phẫu ngổn ngang lính nằm
Những vết thương đỏ máu
Những cuộn băng đỏ máu
Áo Blu quân y đỏ máu
Khắp lòng hang sực lên mùi máu, mùi cồn
Điện thoại đổ chuông từng nhịp dập dồn
Tin báo về chuẩn bị đón thương binh từ phía trước
Bác sỹ gầm lên hết băng, hết thuốc
Y tá ngẹn ngào hết sạch nước truyền
Lại phải cho người chạy bộ xuống Làng Pinh
Lấy tạm vài cơ số thuốc
Bên kia bờ khe nước
Lính vận tải nối nhau lục tục lên đường
Ba lô đạn nhọn đè nặng trên lưng
Đòn tre cáng thương, dài ngoằng chổng ngược
Manh võng cáng thương ướt đẫm từ chuyến trước
Phập phờ rỏ nước thối xuống khắp người
Đường xe lên đất đá tơi bời
Hố pháo mới chồng lên hố pháo cũ
Mảnh đạn ngổn ngang bên cây cỏ xới nhào
Có mảnh lẹm sắc như dao
Có mảnh nhọn hơn lá lúa
Chạm vào là máu ứa
Chạm vào là rách thịt da
Những bàn chân mang giày vải vẫn xầm xập chạy qua
Lưng còng xuống, mặt ngẩng về phía trước
Nơi ấy đang cần đạn
Nơi ấy thương binh chờ
Vượt ngã ba cửa tử
Vào Hang Dơi, Làng Lò
Những gương mặt lính sáng lên, rồi lại thẫn thờ
Chẳng có gì đâu trong ba lô toàn đạn nhọn
Bởi mấy hôm rồi chẳng có chuyến xe lên
Những dấu hỏi hằn gương mặt sạm đen
Nỗi buồn tủi ẩn trong lời cảm thán :
"Hay
là đã quên ? Hay là đã bán ?
Hay là đã chán ? Hay là phủi tay ?..."
Hay là đã chán ? Hay là phủi tay ?..."
Gạt đi
giọt nước mắt cay
Tay khẽ khàng đặt thương binh lên võng
Lại vượt qua suối sâu, đường lộ thiên, bãi trống
Mang tai bập bùng tiếng nổ, tiếng rên đau
Mặc kệ đạn trên cao
Mặc kệ đạn dưới thấp
Nghe tiếng đạn quen mới nằm xấp xuống mặt đường
Đá đập vào người, đá thúc vào xương đau nhức
Đợi đến khi đạn dứt
Lại tất tưởi chồm lên, vai nặng trĩu đòn khiêng
Những thân người chạy liêu siêu ngả nghiêng
Hướng về phía Nà Cáy
Đoạn đường dốc lên đạn pháo cày nát bấy
Đã có lính nào sửa sang
Mùi máu, mùi cồn vẫn nồng nực trong hang
Lính bị thương nằm ngổn ngang dồn đống
Thở phào vì thương binh vẫn sống
Tay lại khẽ khàng gỡ khỏi võng với đòn tre
Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
Bê những mảng đá to đặt đè lên từng khuôn mặt
Che đi những quầng mắt đã lặng ngủ im
Che đi những con mắt không thể nào khép lại
Cơn gió mùa Thu như lồng lên quằn quại
Hình như gió cũng rưng rưng
Mấy hôm rồi mà chẳng thấy xe lên
Chẳng biết đêm nay có chuyến nào tới được
Để đón anh em về một chốn bình yên
Để đưa anh em về trước...
Tay khẽ khàng đặt thương binh lên võng
Lại vượt qua suối sâu, đường lộ thiên, bãi trống
Mang tai bập bùng tiếng nổ, tiếng rên đau
Mặc kệ đạn trên cao
Mặc kệ đạn dưới thấp
Nghe tiếng đạn quen mới nằm xấp xuống mặt đường
Đá đập vào người, đá thúc vào xương đau nhức
Đợi đến khi đạn dứt
Lại tất tưởi chồm lên, vai nặng trĩu đòn khiêng
Những thân người chạy liêu siêu ngả nghiêng
Hướng về phía Nà Cáy
Đoạn đường dốc lên đạn pháo cày nát bấy
Đã có lính nào sửa sang
Mùi máu, mùi cồn vẫn nồng nực trong hang
Lính bị thương nằm ngổn ngang dồn đống
Thở phào vì thương binh vẫn sống
Tay lại khẽ khàng gỡ khỏi võng với đòn tre
Bãi tử sỹ nằm bên cạnh bờ khe
Hình như đã nhiều hơn lúc trước
Lại nghe đâu đây rúc rích tiếng chuột
Những con chuột đói khát, những con chuột vô tâm
Lần bước đến nơi tử sỹ đang nằm
Bê những mảng đá to đặt đè lên từng khuôn mặt
Che đi những quầng mắt đã lặng ngủ im
Che đi những con mắt không thể nào khép lại
Cơn gió mùa Thu như lồng lên quằn quại
Hình như gió cũng rưng rưng
Mấy hôm rồi mà chẳng thấy xe lên
Chẳng biết đêm nay có chuyến nào tới được
Để đón anh em về một chốn bình yên
Để đưa anh em về trước...
(Nà Cáy
-.Thanh Thủy - Mùa Thu 1986 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét