THUNG LŨNG CỦA NHỮNG LINH HỒN VÀ NHỮNG ĐÊM KHÔNG NGỦ ( Phần cuối)
Ký sự của Đặng Việt Châu về trận 12/7/1984
Tối ngày 18/7
Đơn
vị rút về cao điểm 246. Sau những ngày mệt mỏi, vất vả. Dưới căn hầm bê tông
vững chắc, tôi ngủ như chưa bao giờ được ngủ. Rồi có người ngồi cạnh, đang cù
chọc trêu tôi. Tôi kêu lên:"Có
phải là Thanh không"? Người đó đứng dậy, quay mặt đi ra cửa hầm phía
Bắc. Sương trắng bàng bạc, chỉ thấy rõ từ thắt lưng trở lên. Tôi vùng dậy,
chạy theo. Lên tới cửa hầm, thấy đồng chí Bảo A trưởng đang ngồi gác. Tôi hỏi
Bảo:"Có thấy ai đi qua đây
không"? Bảo nói:"Không
thấy". Tôi hỏi:"Mấy giờ
rồi"? Bảo nói:"Đã 4h
chiều". Lúc này, Chung cũng vừa đi kiểm tra các phân đội trở về.
Thấy tôi, Chung nói ngay"Thấy anh
ngủ ngon, tôi bảo chúng nó để cho anh ngủ".Như vậy tôi đã ngủ gần 1
ngày 1 đêm.Sáng ngày 19/7, đồng chí Sơn cán bộ ban chính trị dẫn 2 nhà báo
xuống xin được lấy tài liệu để viết bài. Tôi nói với họ:"Nên gặp các chiến sĩ để viết về họ nhiều hơn, vì chính họ mới
là những tấm gương về lòng dũng cảm cần được tuyên truyền".
Trưa
hôm đó, anh em đang trò chuyện rôm rả về việc chụp ảnh, phỏng vấn của các nhà
báo thì nghe tiếng rít của đạn pháo. Vừa nhảy xuống hầm, thì:"ùng! oàng!". Đất đá bay rào rào.
Đạn pháo nổ ngay cửa hầm, khẩu đội 12ly7 và khu vực C10. Đồng chí Cúc C 10 bị
thương.
Ngày
12 bị què nhẹ, hôm nay què luôn, Cúc được đưa về phẫu. Mấy ngày sau, Chung đi
họp về. Trên tay cầm tờ báo QĐND có vẻ phấn chấn lắm. Đưa cho tôi tờ báo, chỉ
tấm hình chụp tôi và Chung, khen anh em mình vẫn còn đẹp trai lắm. Nhìn tấm ảnh
đen trắng, không được rõ nét, tôi nói:"Trông giống như 2 con mèo hen". Sau đó tờ báo được anh em
chuyền tay nhau xem. Khi tờ báo được trả lại, dưới bức ảnh có ghi thêm dòng
chữ "2 con mèo hen vào hang bắt
chuột trở về". Chung tức lắm…
Chiều
đó, ngồi ăn cơm, nhìn đĩa thức ăn ngoài món rau tầm bóp rừng luộc chấm với
nước ruốc hôi, vừa đắng vừa ngứa và 2 con cá chuồn khô nướng mất đầu mất
đuôi. Chung ngó nghiêng rồi nói với Tuấn và Bảo:"2 đứa chúng mày có thấy gì không"? Tuấn và Bảo lắc đầu, nói
không thấy gì. Lấy đũa lật đi lật lại con cá, không có đầu cũng chẳng có
đuôi. Chung nói:"Đ..!!mẹ. Được 2
con mắm bồi dưỡng, 2 thằng truyền đạt, đưa ăn đầu đứa ăn đuôi, còn gì nữa là
cá"…
|
Sau ngày Minh C trưởng và anh em thương binh của Tiểu đoàn 3 được chuyển về bệnh xá sư đoàn tại thị xã Hà Giang. Thì không khí ở đây sôi động hẳn lên. Trong các mẩu chyện chiến đấu, đã có tiếng ùng oàng của lựu đạn, thủ pháo, B40, B41,..tạch tạch, bùm bùm của MK19,.. oành oành của cối 60,..tằng tằng của AK, trung liên và tiếng hô xung phong trong các ván bài tiến lên của anh em thương binh.
Các đoàn đại biểu của các phường, thị xã, của các xã, của huyện Vị Xuyên, đặc biệt là Làng Mè Phương Thiện. Họ thật hởi lòng hởi dạ, ngưỡng mộ trước những gương chiến đấu hi sinh dũng cảm của chiến sĩ sư đoàn 356 là bác Thanh D trưởng, chú Đa, chú Hà, chú Thẩm...Đặc biệt là bác Minh C trưởng C11. Mặt mày cháy xém, da dẻ sạm đen, các vết thương lở loét sưng đau mà vẫn lạc quan, vui vẻ.
Động viên bà con yên tâm bám trụ xóm
làng, tích cực sản xuất, không sợ quân địch, vì phía trước đã có bộ đội 356, Tiểu
đoàn 3 chặn đứng bước tiến của giặc. Điều trị lành vết thương, Minh sẽ quay trở
lại cùng anh em đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Cảm động nhất là khi Minh lên bàn mổ,
thì vừa lúc anh Khoản đến thăm, Minh xin phép bác sĩ cho Minh được gặp anh Khoản.
Lôi chiếc đồng hồ pôn-zốt dấu trong quần lót mà tôi đã đưa cho Minh trước khi
vào trận để xem giờ. Trao tận tay anh Khoản, Minh nói:"Thủ trưởng giúp em
đưa về cho anh Châu, cho em nhắn với anh Châu và anh em trong đơn vị, Minh sẽ
trở lại cùng anh em để chiến đấu, tìm anh Thanh và trảnợtrận này"…
Rất tiếc vết thương của
Minh quá nặng, Minh được chuyển về viện 108, rồi về đoàn 200 ở Nghệ Tĩnh. Giờ
Minh là thương binh hạng 2 sống tại quê nhà xã Thanh Hà, Thanh Chương, Nghệ An...
Ngày 27/7, tôi được triệu tập về sở chỉ
huy sư đoàn rút kinh nghiệm trận đánh. Về đây tôi mới được biết, trong sáng
12/7 không chỉ có sư đoàn 356 đánh 772 mà còn có các F316 đánh 233, F312 đánh
1030... Và trận đánh cao điểm 772 của E876 diễn biến như sau:
Theo chỉ lệnh chiến đấu, giờ G là
4h10, pháo binh ta sẽ đánh phá trận địa địch 120 phút. Cụ thể là D1 và D2. Sau
đó bộ binh mở cửa mở xung phong đánh chiếm mục tiêu. Nhưng thực tế không có
pháo cấp trên bắn phá mà chỉ có một số pháo nhỏ của Trung đoàn bắn vào những mục
tiêu đã được chỉ định. Sau loạt bắn đầu tiên thì một số trận địa của ta bị địch
phản pháo. Tiểu đoàn 1 và 2 bị pháo địch bắn ngay vào vị trí xuất phát tiến
công.
Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn
Trung Chỉ, tiểu đoàn phó Bạch Văn Kết, trợ lí tác chiến Nguyễn Văn Thêm cùng số
đông cán bộ chiến sĩ hi sinh.
Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn phó Phạm Minh
Kí, trợ lí chính trị E Nguyễn Văn Ngọ cùng số đông cán bộ chiến sĩ hi sinh. Như
vậy tiểu đoàn 1 và 2 ngay từ đầu đã mất sức chiến đấu.Tiểu đoàn 3 được xác định
đây là hướng thứ yếu, có nhiệm vụ thọc sâu chia cắt quân địch giữa 1509 và 772.
Đồng thời luồn ra phía sau đánh phá cụm khí tàng và trận địa pháo... gây hoang
mang cho địch. Do vậy đơn vị chia lẻ thành 3 bộ phận. Hai phân đội luồn sâu bí
mật vận động, áp sát mục tiêu.
6 h sáng ngày 12, nghe tiếng súng nổ ở
mục tiêu chính các phân đội đồng loạt nổ súng. Cụm kho tàng và trận địa pháo địch
bị phá hủy. Phân đội của C9 rút về an toàn còn phân đội C10 trên đường lui quân
gặp địch tiếp tục nổ súng chiến đấu. Đồng chí Xuân C trưởng hi sinh, 2 chiến s
ĩbịthương.C12 khi được lệnh nổ súng, sau loạt đầu tiên thì bị địch phản pháo. 4
chiến sĩ hi sinh, 6 đồng chí bị thương. Tại mục tiêu chính(D3), sau khi đặc
công nổ súng, thấy thuận lợi. Đồng chí Minh C trưởng dẫn đầu đội hình tràn lên
theo hướng cửa mở.
Đồng chí Thanh D trưởng vòng bên phải
đánh thốc lên hướng đỉnh Đầu Voi( Địa hình ở đây rất dốc, cây cỏ rậm rạp). Ta
bám được chiến hào tiền duyên, địch lúng túng chống đỡ rồi lui hẳn về chiến hào
phía sau.
Thời gian này từ 6h30-9h30, sương mù
dày đặc, cách nhau 3-5m cũng không thấy nhau. Lúc này địch ở D1 và D2 được củng
cố quay lai hợp sức với D3, tổ chức phản kích quyết liệt. Ta sử dụng B40, B41,
liên tiếp tiêu diệt các hỏa điểm lộ của địch. Địch tập trung hỏa lực cầu vồng,
cối 60, 82...dội vào khu vực ta chiếm giữ. Hướng chính đồng chí Hà B phó bị đạn
cắt cụt cánh tay trái, đồng chí Minh C trưởng bị thương được anh em đưa về phía
sau.
Hướng cánh phải, đồng chí Thanh D trưởng
bị thương nặng, nằm ngay đoạn chiến hào khu vực Đầu Voi. Đồng chí Khanh B trưởng
bị thương. Lúc này C10 và Tiểu đoàn bộ cũng vừa vận động lên tiếp tục nổ súng.
Ta và địch giằng co quyết liệt, chiếm giữtừng đoạnchiến hào...
Khoảng 9h30, sương tan dần, toàn bộ đội
hình đơn vị ở khu vực đỉnh và sườn nam D3 lộ rõ. Là mục tiêu cho các loại hỏa lực
của địch. Phía cánh phải địch hô hoán phản kích. Hai điểm xạ AK và 1 chùm lựu đạn
của một đồng đội... Tiếng nổ, đất đá trùm lên khu vực Đầu Voi đã kịp thời chặn
địch để đội hình đơn vị rút xuống chân đồi. Lúc này khoảng 11h ngày 12/7.
Tính đến ngày 27/7, toàn E số cán bộ
chiến sĩ hi sinh là 549 đồng chí( trong đó D3 là 144 đồng chí). Số bị thương
đang nằm ở các tuyến ước cũng tương đương số hi sinh là một tổn thất nặng
nề. Không khí đau buồn bao trùm, chúng tôi chẳng ai nói với ai lời nào.
Nỗi buồn của Tướng Lê Duy Mật-Tham mưu trưởng Q.K 2, Chỉ huy trưởng MT Vị Xuyên, ông mất 20/10/2015...
( Ảnh Phạm Viết Đào chụp 8/2015...)
Sáng 28/7
Tại hội trường F314, sáng 28/7, tôi gặp
lại những người bạn của thời đánh Mĩ. Mạo D trưởng D3- F312 đánh 1030. Chuyển D
trưởng D2 F316 đánh 233. Ba anh em đang thì thầm hỏi thăm những đứa bạn cùng thời.
Hình như đều tránh đi việc hỏi nhau về trận đánh, thì có tiếng hỏi:"Đồng chí Châu, tiểu đoàn 3 F356 có đây không"?
Tôi đứng dậy.Trên chủ tọa đoàn, tướng Vũ Lập tư lệnh quân khu nhìn tôi thật hiền.
Ông nói tiếp:" Đồng chí lên trình
bày diễn biến chiến đấu của đơn vị đồng chí".
Lên diễn đàn, nhìn thấy toàn là tướng
tá cấp Bộ, Quân khu, Quân đoàn, Sư đoàn do không được chuẩn bị nên lúc đầu tôi
thực sự lúng túng. Biết vậy tướng Lập động viên tôi. Đồng chí cứ làm như lúc chỉ
huy chiến đấu.
Như được cởi lòng tôi trình tự trình
bày...Khi đến đoạn bộ đội C10, C11 tiểu đoàn bộ tràn lên D3 thì cả hội trường ồn
ào hẳn lên, tướng Lập ra hiệu mọi người trật tự. Khi tôi trình bày xong, ông hỏi
tôi:"Thế trận này ta thua hay thắng"?
Không cần suy nghĩ, tôi đáp:"Ta đã
thua, bởi không chiếm được mục tiêu và hi sinh tổn thất quá lớn. Nhưng tinh thần
dũng cảm chiến đấu dám đánh, quyết đánh, dám xả thân hi sinh vì sự vẹn toàn của
biên giới tổ quốc của cán bộ chiến sĩ ta cần được ghi nhận".
Nghe câu trả lời của tôi, cả hội trường
như lặng hẳn. Giọng tư lệnh chùng xuống, ông nói đại ý là:"Đánh nhau phải có thắng, có thua. Nhưng phải
biết vì sao mà thua, vì không hiểu địch, nóng vội, coi thường địch hay ý chí
quyết tâm chưa tốt, trình độ chiến đấu còn non kém...Chỉ huy các đơn vị phải kiểm
điểm thật kĩ rồi rèn luyện bộ đội thật tốt, thật đầy đủ, tiếp tục chiến đấu
giành thắng lợi".
Rồi ông nhìn tôi và hỏi:"Đồng chí có làm được không"? Tôi hứa
với tư lệnh trở về đơn vị sẽ cùng với anh em cán bộ chiến sĩ quyết tâm thực hiện
bằng được chỉ thị, mệnh lệnh của tư lệnh quân khu.
Vì
coi thường địch, nóng vội, học theo kiểu chiến tranh "bấm nút" đem
áp dụng ngay vào đánh nhau nơi non cao, đồi núi chập chùng, địa hình chia cắt
bởi khe suối, thung lũng...Sau ngày đánh nhau, cũng chỉ có làm theo mệnh lệnh
của người chỉ huy, chẳng thấy ai coi sóc đến việc rút kinh nghiệm cho từng
phân đội, từng đơn vị. Người chết thì cứ chết, người sống thì việc đánh nhau
là nhiệm vụ của người lính cứ thế mà làm. Rất may, trong đơn vị vẫn còn nhiều
cán bộ chiến sĩ tận tâm, tận lực. Họ biết trọng danh dự và thiết tha yêu cuộc
sống, yêu tổ quốc. Nên họ đã đứng vững cầm chắc súng tiếp tục chiến đấu chặn đứng
bước tiến của quân giặc, giữ vững biên cương của tổ quốc.
|
Ta vẫn say sưa với chiến thắng của
tháng 3/1979, nên cứ tưởng...phát huy tối đa hỏa lực pháo binh băm nát mục
tiêu, pháo chuyển làn kiềm chế trận địa pháo địch, bộ binh mở cửa mở xung phong
đánh chiếm. Địch còn thằng nào ngắc ngoải, hoặc bị sức ép đang ngơ ngơ ngác
ngác thì hô...tháo xẻng đưa qua tai (bác Hồng Cư dạy đấy). Chúng đưa tay ra lấy
dây trói lại. Các cánh quân gặp nhau reo mừng...Ta đã cắm được 3 cờ! Xơ cờtả
tơi, cờ đâu nữa mà cắm.
Đầu năm nay 2011, nhân ngày 30-4, gặp
mặt đồng đội sư đoàn 356 tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Gặp lại anh Khoản, anh em hỏi
anh:"Có nhớ bọn em không"?
Anh nhìn rồi cười và nói:Chỉ nhớ chú Thanh, chú Châu, còn quên hết rồi....
Trước khi viết những dòng này, tôi điện
hỏi anh Tứ vì sao pháo cấp trên hôm ấy không bắn như chỉ lệnh chiến đấu. Anh Tứ
bảo:"Tôi đã điện cho ông Điếm, thì
ông bảo sương mù quá không hiệu chỉnh được".Tôi bảo:"tôi sẽ hiệu chỉnh cho". Nhưng vẫn
không bắn..
Ngày 12/ 7/2009, gặp mặt đồng đội của
sư đoàn tại Vinh, Nghệ An. Vừa vào cổng hội trường thì một người chạy tới ôm chầm
lấy tôi và nói:"Anh có nhớ em
không"? Tôi nhận ra ngay đó là chiến sĩ thông tin, người trong lửa đạn
tại D3 đã truyên đạt mệnh lệnh của sư đoàn trưởng để tôi chỉ huy chiến đấu...Thật
cảm động, tôi gọi tên đồng chí đó:"Chiến
phải không"? Bởi sau khi ra lệnh rút, tôi chỉ kịp hỏi:"Đồng chí tên gì"? trong ầm ào súng
nổ, tôi chỉ nghe là "i..ế..n" và sau đó không gặp lại nữa.
Sau này, khi về sư đoàn công tác, mỗi
bận xuống Tiểu đoàn 18 thông tin, tôi luôn kể về một chiến sĩ thông tin quả cảm
của D18. Người đã giữ mạch liên lạc duy nhất giữa tôi và chỉ huy sư đoàn trong
trận đánh sáng ngày 12/7. Một tấm gương sáng trong chiến đấu của Tiểu đoàn cần
được nêu gương. Tên là "Chiến"
mà 25 năm sau mới rõ tên: "Chu Văn
Khiêm nay sống ở xóm 4 Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội".
Chỉ có 3-4 giờ đồng hồ giữa sương khói lửa đạn mịt mùng. Giữa cái sống và cái chết vậy mà 25 năm sau vẫn nhận ra mặt nhau, thật là đáng trân trọng. Ôm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi. Hết chuyện cuộc sống gia đình rồi lại chuyện về trận chiến. Trong tôi đồng đội lại hiện về và ngay sau đó, lúc gần kết tôi đã lên diễn đàn đọc bài thơ:
Chỉ có 3-4 giờ đồng hồ giữa sương khói lửa đạn mịt mùng. Giữa cái sống và cái chết vậy mà 25 năm sau vẫn nhận ra mặt nhau, thật là đáng trân trọng. Ôm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi. Hết chuyện cuộc sống gia đình rồi lại chuyện về trận chiến. Trong tôi đồng đội lại hiện về và ngay sau đó, lúc gần kết tôi đã lên diễn đàn đọc bài thơ:
DƯ ÂM
(Thêm một nén nhang cho người nằm lại)
Gió trở mùa-thu đã sang
Sương giăng trắng trời trắng đất
Nơi xa ùng oàng sấm động
Ngỡ là mệnh lệnh tấn công
Năm ấy mùa thu, ngày sương mù mịt
Thung sâu tơi bời lửa đạn
Tuổi xuân xung trận giữ biên thùy
Những Thanh, những Đa, những Hà, những Lý
Tiến, Công, Kí, Kết, Chỉ, Ngọ, Thêm...
Nơi nghĩa trang có danh và vô danh
Trong hố chôn chung hay nằm rải rác
Nơi thung sâu Nậm Ngặt hay Khe Cụt đồi xanh
Người nằm lại và tuổi xanh mãi mãi...
Bảy Bảy Hai! Bảy Bảy Hai
Tuổi xuân giữ lại chốn này
Ngày thu Nậm Ngặt...
Sương giăng trắng trời!
Đặng Việt Châu, 12/7/2009
Dân
Làng Mè Phương Thiện nhất là các cụ ông cụ bà cứ thấy bộ đội vào là
hỏi:" Có phải là bộ đội Tiểu đoàn 3 không? Bác Thanh đã về chưa? Nếu
đúng là bộ đội ta rồi".Đến ngày 18/10 thì Tiểu đoàn quay lại Làng Mè
Phương Thiện, ông Điều trước đây là cán bộ tuyên giáo Tỉnh nghỉ hưu đã tổ
chức bữa rượu mừng ngày đơn vị trở lại. Vào tiệc, rược được uống bằng bát.
Bởi tửu lượng có hạn nên tôi nháy mắt với anh em thay bằng nước lã. Ông Điều
bắt được nên bị phạt gấp 3, về đến nhà thì đổ kềnh.
Mấy hôm sau nhân ngày nghỉ đơn vị tổ chức bữa rượu quân dân. Vào cuộc 2 két rượu chanh được mang ra. Ông Điều phấn khởi lắm. Ông bảo cứ để nguyên chai cho nó oai. Hơn nữa để khỏi phiền các chú phục vụ vất vả. Thế là đôi bên thù tạc. Giặc dùng rượu chanh thì ta cũng dùng rượu chanh! Quyết chiến! Thắng! Rượu cả chai cứ thế các cụ "khà"... Đến lúc ngấm cụ ra lệnh: "Chúng mày phải làm kiệu khênh bố về". Thế là 4 lính truyền đạt được lệnh làm một cáng. Cụ ngất ngưởng ngồi lên miệng hô:" Xung phong", tay chỉ thẳng hướng nhà cụ mà thẳng tiến. Chẳng quản ruộng nước lầy lội lạnh giá, mấy đứa vui quá cứ thế mà chạy. Chỉ tội trời thì rét, khi về đến nhà thì người bê bết bùn đất.May mà hôm đó thằng Ba quân y sĩ đã làm mấy chai rượu giả bằng nước polytamin pha giống hệt màu rượu chanh. Không thì chỉ huy cũng nhũn. |
Hơn
một tháng ở Làng Mè, Tiểu đoàn được giao nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng ngự
Bắc thị xã Hà Giang và triển khai phương án phòng ngự. Hàng chục km chiến hào,
hàng trăm hầm hố chiến đấu được cán bộ chiến sĩ đơn vịlàm với thời gian nhanh
nhất và chất lượng tốt nhất, sẵn sàng chặn địch khi có tình huống xấu xảy ra.
Đây cũng là thời gian tốt đẹp của tình quân dân. Sau ngày lao động mệt nhọc hằng đêm, trừ những buổi sinh hoạt còn lại thường có những cuộc giao lưu giữa anh em bộ đội và dân Làng Mè. Đêm biên cương khi đêm đã buông xuống, lành lạnhdưới ánh trăng bàng bạc đã chếch về Tây. Thế mà cuộc vui giữa anh em bộ đội và dân Làng Mè vẫn đang say với khúc ca mà họtự sáng tác…
Đây cũng là thời gian tốt đẹp của tình quân dân. Sau ngày lao động mệt nhọc hằng đêm, trừ những buổi sinh hoạt còn lại thường có những cuộc giao lưu giữa anh em bộ đội và dân Làng Mè. Đêm biên cương khi đêm đã buông xuống, lành lạnhdưới ánh trăng bàng bạc đã chếch về Tây. Thế mà cuộc vui giữa anh em bộ đội và dân Làng Mè vẫn đang say với khúc ca mà họtự sáng tác…
Đêm về khuya, hướng Thanh Thủy chớp đạn
sáng lòe và ầm ào tiếng súng vậy mà nơi này Làng Mè Phương Thiện tiếng hát vẫn
mạnh mẽ vang động, thôi thúc nhắc nhở mọi người nhớ tới nghĩa vụ thiêng liêng.
Lên đường vào trận để chiến đấu và chiến thắng quân thù. Ngay phía trước mặt,
đó là Nậm Ngặt, là Thanh Thủy. Cách đây chưa lâu, họ và đồng đội đã từng đổ
máu, hi sinh ởđó.Nghe tiếng hát trầm hùng trong đêm khuya nơi mảnh đất biên
cương ầm ào súng nổ. Tôi thật sự xúc động. Bởi khúc hát đã nói lên tâm tư tình
cảm của anh em cán bộ chiến sĩ đối với nhiệm vụ, với đơn vị, với Tổ quốc. Với
nhiệm vụ chiến đấu mà họ đã làm và đang làm giữa cái sống, cái chết cận kề thế
mà vẫn lạc quan vui vẻ. Họ luôn sát cánh bên nhau nắm chắc tay súng, tiếp tục dấn
thân vào nơi lửa đạn đầy gian khổ, hy sinh một mất một còn vì sự bình yên của
biên giới, vì sự ven toàn của Tổ quốc.
Chiều
28 tháng giêng năm 2012, tôi nhận được cú điện thoại từ Hà Nội giới thiệu là
cháu của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Thanh. Sau lời thăm hỏi, biết chắc tôi
là Chính trị viên D3 trong trận đánh 12/7/1984, tôi nghe tiếng phụ nữ xưng là
Lan vợ của Thanh và rồi chỉ có tiếng khóc xen lẫn tiếng kể lể, tâm sự... Gần
1h đồng hồ với 2 chiếc điện thoại, của người cháu và của chị Lan sau gần 30
năm khắc khoải...
Mãi
đến cuối năm 1985 Lan mới nhận được giấy báo tử. Sau này, khi biên giới thật
sự bình yên, đã 2 lần mẹ con chị ngược Hà Giang tìm mộ chồng. Và lần này ra
Hà Nội được nhà ngoại cảm cho biết Thanh ở rất xa...Tìm đồng đội đang sống
thì sẽ biết...
Qua
sự mách bảo của người cháu tại Hà Nội, chị đã lên mạng và tìm được số điện
thoại của tôi.Nhân danh những người đồng đội đang sống, xin được chia sẻ nỗi
mất mát xót đau của chị cùng các gia đình những đồng chí, đồng đội đã ngã
xuống trong trận đánh 12/7 cũng như quá trình trận chiến Hà Giang, cũng như
chị Lan suốt gần 30 năm trong tủi buồn vô vọng.
Trong
xót xa những lần ngược miền biên ải tìm mộ chồng nơi nghĩa trang với hàng
ngàn bia mộ, lần theo dãy mộ sư đoàn 356 với niềm tin mong manh.
Tấm gương chiến đấu của Thanh và những đồng đội thật dũng cảm. Trong tâm khảm những người còn sống chúng tôi-Họ là những người anh hùng. Sau đó, tôi điện cho anh Tứ, anh Cam số điện thoại của chị Lan 01259499365 để các anh và đồng đội cùng chia sẻ.
CAO ĐIỂM 772-NGÀY SƯƠNG MÙ 12/7/1984
Văn cúng của Đặng Việt Châu đọc ngày 2/9/1984 nhân 50 ngày giỗ cán bộ chiến sĩ D 3-E 876-F 356 đã hy sinh… Hỡi hồn chiến sĩ! Đã anh dũng hi sinh Nơi non cao cuối trời tổ quốc Bảy bảy hai! Bảy bảy hai Nghèn nghẹn núi, mịt mù sương Sáng này 12 tháng bảy Chớp đạn sáng lòe, ầm ầm súng nổ Ngàn xanh tơi tả, đất đá nát tan Thung sâu lở loét đạn cày Những chiến sĩ con dân đất Việt Tuổi xuân đâu tiếc Lưng trần-cắp súng xung phong Đạn xé toác vai-đạn cày rách mặt Tai điếc đặc Súng cầm tay rực lửa Xông pha dữ đất biên thùy Hết đợt giao tranh-chiến trường lặng lẽ Chỉ lào xào cỏ lau gió thoảng Lạnh tanh! Trống hoác! Đỉnh đồi.. Chiến trận tan rồi, ai về ai ở lại Nơi Đại ngàn chỉ lách lau cỏ dại Ngẩng đầu núi-Núi chất chồng... -Cao! Sương mịt mù giăng: Trắng! -Trắng!... Những vành khăn! Để tang người nằm lại Than ôi! Một trận tan nát... Ngàn năm ôm hận Đau thương vô tận Chiến binh lâm trận Giữ đất biên cương Sống khôn chết thiêng! Nơi đầu non, góc núi Nơi ngọn khe, bờ suối Thanh Thủy-Vị Xuyên Nhớ mẹ nhớ cha Thương vợ thương con Nhớ quê hương bản quán Ngày giỗ nhớ về..
Nhớ về!
12 tháng 7
Thương ôi! Hỡi hồn chiến sĩ!
Kính cáo!
Việt Lâm, ngày 2 tháng 9 năm 1984
Chính trị viên Tiểu đoàn Đặng Việt Châu cùng toàn thể cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 3…Kính bái!... |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét