Xuân Đài
Chuyện làng văn nghệ
Phùng Cung người tù không án 11 năm 9 tháng
Phùng Cung người tù không án 11 năm 9 tháng
Phùng Cung và Phùng Quán...
Việc tôi và Phùng Quán đến nhà Phùng Cung sau khi anh bị bắt mười lăm phút là chuyện tình cờ.
Dọc đường về, Phùng Quán tỏ ra hốt hoảng thật sự làm tôi buồn! Quán bảo với tôi, tớ vái về ngay Nghi Tàm sắp xếp sách vở đưa đi gửi rồi sắp xếp quần áo đồ đạc chuẩn bị đi tù, người ta bắt Phùng Cung rồi là bắt tớ thôi! Tôi bảo các báo xưa nay xếp thứ tự “Bọn nhân văn giai phẩm” bao giờ cũng là Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán. Cậu không vô lối chen ngang được, ba ông kia phải được bắt trước rồi mới đến lượt cậu.
Quán bảo lúc này còn đùa được, cậu cũng về tòa soạn lấy công lệnh đi viết bài, đi thật xa Cao Bằng Hà Giang Lạng Sơn gì đó, lớ ngớ ở Hà Nội người ta bắt cả lũ. Tôi chỉ cười nhạt
Phùng Quán trở về Nghi Tàm, ngoại ô thành phố, nơi anh cư ngụ với bà mẹ nuôi để sắp xếp đồ đạc như anh nói. Còn tôi rẽ vào nhà Hoàng Cầm, báo cho anh biết Phùng Cung vừa bị bắt và hỏi anh có biết lý do Phùng Cung bị bắt không? Hoàng Cầm điềm tĩnh, chắc bắt là do cái chuyện ngắn “Con ngựa già Chúa Trịnh” đăng ở báo Nhân Văn số 5! Tôi hỏi, liệu người ta có đưa ra xét xử như đã từng xét xử Nguyễn Hữu Đang không? Người bạn ngồi cạnh Hoàng Cầm như lúc nãy anh giới thiệu là vừa học ở Liên Xô về, liền “phán” : chuyên chính vô sản không có việc đưa ra xét xử đâu, ở Liên Xô Staline bắt hàng trăm trí thức văn nghệ sĩ tống đi đày chứ không có đưa ra tòa án, Việt Nam học trò của Liên Xô thì cũng vậy thôi.
Sau 11 năm 9 tháng đi tù về, tôi đến thăm Phùng Cung, hỏi anh, anh có biết mình đi tù về tội gì không, anh cười như mếu, chính câu này mình đã hỏi anh công an lúc vừa bị bắt vào hỏa lò, anh ta bảo: tội của anh là phản động chống Đảng nhà nước, rồi anh ấy tiếp, anh đã vào đây là chỉ được quyền trả lời chứ không được phép hỏi lại tôi
Suốt gần 12 năm Phùng Cung bị giam hỏa lò, Bất Bạt, Yên Bái, Phong Quang,… anh cũng không được ai giải thích cho tội phản động của mình, đành tin rằng tội của anh là viết cái chuyện ngắn đăng trên báo Nhân Văn.
Hôm nay, cuối tuần tôi đưa chuyện ngắn Con ngựa già Chúa Trịnh của anh lên face, các bạn đọc truyện ngắn rất nhân bản, đầy tính ẩn dụ, có thấy nó phản động không?
Việc tôi và Phùng Quán đến nhà Phùng Cung sau khi anh bị bắt mười lăm phút là chuyện tình cờ.
Dọc đường về, Phùng Quán tỏ ra hốt hoảng thật sự làm tôi buồn! Quán bảo với tôi, tớ vái về ngay Nghi Tàm sắp xếp sách vở đưa đi gửi rồi sắp xếp quần áo đồ đạc chuẩn bị đi tù, người ta bắt Phùng Cung rồi là bắt tớ thôi! Tôi bảo các báo xưa nay xếp thứ tự “Bọn nhân văn giai phẩm” bao giờ cũng là Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán. Cậu không vô lối chen ngang được, ba ông kia phải được bắt trước rồi mới đến lượt cậu.
Quán bảo lúc này còn đùa được, cậu cũng về tòa soạn lấy công lệnh đi viết bài, đi thật xa Cao Bằng Hà Giang Lạng Sơn gì đó, lớ ngớ ở Hà Nội người ta bắt cả lũ. Tôi chỉ cười nhạt
Phùng Quán trở về Nghi Tàm, ngoại ô thành phố, nơi anh cư ngụ với bà mẹ nuôi để sắp xếp đồ đạc như anh nói. Còn tôi rẽ vào nhà Hoàng Cầm, báo cho anh biết Phùng Cung vừa bị bắt và hỏi anh có biết lý do Phùng Cung bị bắt không? Hoàng Cầm điềm tĩnh, chắc bắt là do cái chuyện ngắn “Con ngựa già Chúa Trịnh” đăng ở báo Nhân Văn số 5! Tôi hỏi, liệu người ta có đưa ra xét xử như đã từng xét xử Nguyễn Hữu Đang không? Người bạn ngồi cạnh Hoàng Cầm như lúc nãy anh giới thiệu là vừa học ở Liên Xô về, liền “phán” : chuyên chính vô sản không có việc đưa ra xét xử đâu, ở Liên Xô Staline bắt hàng trăm trí thức văn nghệ sĩ tống đi đày chứ không có đưa ra tòa án, Việt Nam học trò của Liên Xô thì cũng vậy thôi.
Sau 11 năm 9 tháng đi tù về, tôi đến thăm Phùng Cung, hỏi anh, anh có biết mình đi tù về tội gì không, anh cười như mếu, chính câu này mình đã hỏi anh công an lúc vừa bị bắt vào hỏa lò, anh ta bảo: tội của anh là phản động chống Đảng nhà nước, rồi anh ấy tiếp, anh đã vào đây là chỉ được quyền trả lời chứ không được phép hỏi lại tôi
Suốt gần 12 năm Phùng Cung bị giam hỏa lò, Bất Bạt, Yên Bái, Phong Quang,… anh cũng không được ai giải thích cho tội phản động của mình, đành tin rằng tội của anh là viết cái chuyện ngắn đăng trên báo Nhân Văn.
Hôm nay, cuối tuần tôi đưa chuyện ngắn Con ngựa già Chúa Trịnh của anh lên face, các bạn đọc truyện ngắn rất nhân bản, đầy tính ẩn dụ, có thấy nó phản động không?
Con ngựa già chúa Trịnh
Truyện ngắn Phùng Cung
Phương Lộ là một làng nhỏ hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan Lâm chừng bảy dặm. Từ Đan Lâm vào Phương Lộ, trên con đường đất mòn, ngoằn ngoèo men theo dọc bờ suối; phải qua một chiếc cầu bằng đá vắt ngang suối bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lão già họ, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lão ngày trước là mã phu của triều Trần; khi mãn lính, trở về làm nghề buôn ngựa. Năm mười bốn tuổi, lão đã theo cha ra chợ Đan Lâm học nghề. Lớn lên, lão đã nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.
Lão Nông có còn ngựa trắng, mình kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên lão đặt tên cho nó là Kim Bông. Lão thường khoe con ngựa này lão tìm mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước hai. Lão từng đi nhiều nơi mà chưa thấy có con nào tướng phách toàn mỹ như nó; có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế “cao đầu phóng vĩ” của nòi ngữa chiến,
Từ khi con Kim Bông bắt yên, ngày ngày lão cưỡi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào là vắng bóng lão. Không cuộc đua nào con Kim Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng con ngựa hay, một ngày truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai chúa Trịnh.
Thưở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển một đoàn kỵ bình để bình định đất nước, nên liền ủy một viên quan hầu cận, tìm đến tận nơi để hỏi mua.
Lão nông tuy luyến tiếc con Kim Bông, nhưng lại nghĩ đến cái tài của nó, lão sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng “Con ngựa của bần dân thuộc loại quý mã, là vật, nhưng nó hiểu tiếng người. bấy lâu nay nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lánh này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật lòng bần dân cũng tiếc cho đời nó lắm! Nay Chúa công lại cho vời nó về chốn triều đình để dùng nó xông pha chiến trận, bần dân cũng hả dạ vì đã làm vừa ý con quý mã và cũng bõ công nuôi nấng tập luyện”. Lão nông miệng nói tay trao cương cho viên quan. Con Kim Bông cũng dỏng hai tai gật đầu như biết mình sắp được từ giã cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.
Trên đường về, viên quan hết lời khen ngợi con quý mã; Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong vài ngày đã về đến Thăng Long.
Viên quan vào tâu với chúa Trịnh. Hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mở hội để kén ngựa chiến.
Một buổi sáng, trên các ngả đường, nhân dân các vùng lân cận nghe tin, Lũ lượt đổ về xem như nước chảy. Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tế chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt ngọn ngàng. Con Kim bông ngơ ngác trước quang cảnh mới lạ, lòng nó rộn ràng, mắt nó đăm đăm nhìn thẳng phía cuối dua trường; như để dương oai với đồng loại, nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sờn óc, người kỵ binh đứng bên cạnh, bỗng né sang một bên, lao đao tưởng ngã. Bọn ngựa trố mắt nhìn Kim Bông và cùng cất tiếng hí theo.
Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Ðoàn ngựa lồng lên, trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía nhu mua rào, nhân dân reo hò vang dậy! Chỉ trong chớp mắt, con Kim bông dã vượt lên hàng đầu, vừa chạy vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại nhu móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm tới mặt đất. Ở phía xa người ta nhìn nó chỉ còn thấy một bóng trắng lấp lánh, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng reo hò phía ấy vang lên không ngớt. Hàng loạt ngựa thấy sức mình không sánh kịp con Kim bông, bỏ dở cuộc dua, đứng dừng cả lại, hí hí nhìn theo cái bóng trắng nhỏ dần…trong bụi nắng loá của kinh thành. Khi hồi trống, con Kim bông dừng lại, tai nó ù di vì tiếng hò reo, ca ngợi của xung quanh, nó càng nức lòng, chân nó dậm xuống đất cồm cộp nhu muốn bay thêm hàng nghìn vòng nữa mới phí sức.
Khi tiếng trống chuyển sang thi nước kiệu, con Kim bông rời vạch một cái, là bốn chân nó bám liền trên mặt đất như guồng nước, tiếng chân vỗ ròn rã nhu mõ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một dòng nước chảy xối. Nó chạy hết một vòng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng bát nước đầy, không sánh ra ngoài một giọt.
Lúc này nó thấy tất cả đua trường đều hướng nhìn về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hãnh.
Sau cuộc dua này, nó được cả đua trường tặng danh hiệu “Bạch Long Thiên lý Mã” và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của Chúa. Chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mã lành nghề. Và từ dó, nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sinh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đã thắt vòng quanh nó, nhiều đồng loại nó đã phơi thây. Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vỡ vòng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được chúa Trịnh chọn làm mã lệnh, và được ở trong phủ chúa.
Chúa Trịnh truyền cho quân lính, xây một chiếc hồ bán nguyệt, phía Nam vườn Thượng uyển, để làm chỗ tắm cho mã lệnh, và cứ hai mươi mã phu ngày ngày trông nom săn sóc ngựa quý của Chúa.
Lần đầu tiên “con Thiên lý” đặt chân tới hoàng cung. Trước mắt nó toàn những lâu dài nguy nga tráng lệ trông phía nào cung thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó toàn những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới lạ khiến nó sợ hãi. Nó toát mồ hôi run lên cầm cập, khi đặt chân lên những phiến đá hoa, được dịp đua mắt nhìn hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gươm trần bên hành lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mã phu giắt nó vào mã đài, nó tưởng mã phu đưa nó nhầm nơi ở của một tướng lĩnh
Con thiên lý mã được vào ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều, nó phải đứng một chỗ để dăm bảy mã phu mang kéo tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông duôi. Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước những cảnh sống khi còn ở bên ngoài cung cấm:”Ôi chao! còn đâu những buổi sáng ta cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ta? Với cái sức khoẻ bay hàng nghìn dặm, với cái thế “cao đầu phóng vĩ” hùng dũng như ta, đã bao phen xông vào trận tuyến, đời ta tù túng nhu thế này thì ta sống sao được? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường? Hay chúa đã quên ta là kẻ có tài?”
Một buổi sáng, nó đang đứng trên mã đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mã phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến dắt nó ra đứng dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sửng sốt, tưởng phen này lại được xung trận. Một mã phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại bỗng thấy mình đẹp như phượng hoàng. Hai mã phu nữa mang đến đằng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mã phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và đẹp đẽ làm sao! Đời nó chưa từng nhìn thấy. Hàm thiếc bằng bạc; hai đầu nạm vàng sáng loé. Nó sung sướng gục đầu xuống nhạp hàm thiếc một cách ngoan ngoãn. Khi mã phu buông tay; lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng cái lá đa che ngang hai bên mắt, khiến nó chỉ có thể nhìn thẳng phía trước mà thôi. Rồi một mã phu đẩy nó lùi lại, đứng vào giữa hai hàng gỗ sơn son thiếp vàng. Uả lạ quá chừng, những cái gì mà đẹp thế này? Ta sẽ làm gì dây? Nó rùng mình, thấy hãnh diện nhu được sống một kiếp sống khác sung sướng hơn trước.
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được lên thì giây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở,như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bông bênh nhẹ một chút nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn vó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi bỗng có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ di. Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt dá, nó mới biết là nó dang kéo xe cho Chúa. Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán.
Nhưng chẳng được bao lâu, những chậu thóc trôn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừ giòn sậm sựt đã cũng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tuốt ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò cho Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lý mã.
Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng mà đủ loại ống quần, tà áo, văn có, võ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị nó to tát ghê gớm! Chốn thăm nghiêm cung cấm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc sự của triều đình nào mà vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung hô Vạn tuế. Đời nó quả là đã sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai phong chiếm giải đầu trên các đường đua.
Một buổi chiều, trên cổng thành đã nổi trống thu không, mặt trời đã khuất hẳn mái lầu Tây, mặt hồ gợn lên một màu đỏ nhạt của rang chiều, nó sung sướng kéo Chúa và Bà Phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng xuống nước. Chà! Mắt nhìn mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư? Kìa hai la đá che mặt ta nó khác gì hai cánh mũ của vị đại thần? Hai càng gỗ khác gì tay ngai ngày ngay Chúa vẫn ngự! Phải chăng giời đã an bài cho số phận ta! Nó càng nhìn càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to mãi, uy nghi trong sắc nước lẫn sắc trời.Nó đang say sưa ngắm bóng bỗng thấy dây cương lại giật mạnh. Mép nó găng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới đầu vườn Thượng uyển, có lệnh đừng lại. Tức thì hai bên tay ngai dim mạnh cổ nó xuống rồi lại bềnh lên nhẹ bỗng. Nó vừa ngóc đầu lên tmột luồng gió mát, lướt đưa vão lỗ mũi nó hương thơm ngào ngạt của muôn hoa. Nó phồng hai cánh mũi hớn mặt lên thì gấu xiêm màu thiên thanh của Bà Phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nhìn theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và Bà Phi, làm căng phồng lên và đú đởn múa ngay trước mặt nó. Nó cảm động, đứng ngẩn ra, hai mắt giương láo: “Chà! Thật là ngoạn mục! Ôi! Giời đã ban cho ta đôi ngọc nhãn để riêng ta được nhìn những vưu vật của trần gian, ta đội ơn trời”.
Càng nhìnt heo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó giậm chân xuống đất cộp cộp, mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một hình phạt xứng đáng với tội lỗi của mình. Vừa đập đầu vừa kể tội: “Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa, ta để để cho Chúa và Bà Phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào! Tội thứ hai: sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chúc mã lệnh đáng tôn kính của chú đã ban cho, như thế chẳng phải trước đây ta đã phụ ơn Chúa hay sao? Tội ta thật là đáng phanh thây mới phải. Nếu ta chỉ nghĩ đến cuốc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng loại đua tranh, thì lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an cư lạc nghiệp! Ơn hưởng lộc Chúa, súc ta ngày một cường tráng, thì cái vượt hàng ngàn dặm đối với ta có gì đáng kể”.
Sống một cuộc đời lặng lễ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hãnh với chức mã lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên lý đã trồi lên một lớp vàng sòe. Trước mã đài nó đã nhìn thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đời nó đã dần chuyển về già. Tài nó cũng dần mòn mỏi. Nó vẫn tưởng nó còn sức chạy dư ngàn dặm.
Có một buổi sáng, nó được kéo xe để Chúa cùng Bà Phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi:” làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!” Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại đừng lại tự hỏi: “Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ quả đồi lại nhỏ bằng con đường ta đang đi là nghĩa làm sao?” Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một con đường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi nó đến màu giời xanh cũng chỉ thu nhỏ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiều.
… Xe đi mãi. Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hý của đồng loại. Tự dưng nó hớn hở: “Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khấc đầu chúc tụng”. Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới thì đồng loại nó cũng nhảy bổ cả đến trước mặt nó, miệng hý chân cất tiền, cất hậu, như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hý lên một cái như để quở mắng: “Bọn nhãi kia, tội các chú đáng chặt đầu làm lệnh! Các chú không biết ta là ai ư? Đã quên tài của anh rồi sao?” Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, vả lại í í trong cổ: “Chúng tôi biết bác lắm, biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nhìn qua đã thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ! Đừng khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn?”
Con Thiên lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lại giật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đi. Vừa đi vừa nghĩ: “Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bây chỉ nhìn có một chiều. Bây không biết được việc ta làm đây dễ mấy kẻ đã làm được! Sức bây được mấy nả mà vội kêu ngạo, bây chạy được vài dặm đã phờ mao sều dãi. Rồi đây ta sẽ cho bây biết tài ba!”
Và hình ảnh một trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên lý mã vẫn tin mình đủ sức phi lên hàng đầu.
Sự đời biến đổi. Sau đó ít lâu, chúa Trịnh được tin nhiều thượng tá thua ở trận bên sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mã lên ra đua trường để ôn dượt trước khi sung trận. Viên tướng liền cúi đầu tâu lại:
“Muôn tâu Chúa công. Hiện nay trong triều đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vướt hàng nghìn dặm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con chiến mã có sức khỏe vào bực nhất. Còn như con mã lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt cũng không được như trước. Nếu Chúa công dùng con mã lệnh để ra trận, tiểu tướng ấy náy lắm!”
Nghe tâu trình. Chúa Trịnh cũng thấy viên tướng có lý, nhưng Chúa vẫn còn tin ở tài con mã lệnh. Chúa bèn hạ lệnh cho con mã lệnh ra tỷ sức cùng các chiến mã khác để tiền bề kén chọn.
Con Thiên lý mã được dịp rồi phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đi. Nó bang hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố gióng hai tai tóp bụng lại lấy hơi hý một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hý của nó vừa ré lên thì cụt lủn như có vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cũng cất tiếng hý làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên lý càng cắm đầu cắm cổ chạy. Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoảy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đằng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng:
“Tiếng tăm lừng lẫy như ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng, than ôi! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa!”.
Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau , chừng như cố để giữ lấy cái thế “Cao đầu phóng vĩ”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét