21/12/2018
Nguồn: Jeffrey D. Sachs, “The War on Huawei”, Project Syndicate, 11/12/2018.
Biên dịch: Nguyễn Tuấn Anh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Việc bắt giữ CFO của Huawei Mạnh Vãn Chu (Meng Wanzhou) là một động thái nguy hiểm của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump trong cuộc xung đột ngày càng căng thẳng với Trung Quốc. Như Mark Twain từng có phát ngôn nổi tiếng, lịch sử thường gieo vần, thời đại của chúng ta ngày càng trở nên giống giai đoạn trước năm 1914. Giống như các cường quốc châu Âu hồi đó, Hoa Kỳ, được lãnh đạo bởi một chính quyền muốn khẳng định sự áp đảo của Mỹ đối với Trung Quốc, đang đẩy thế giới về phía thảm họa.
Bối cảnh của vụ bắt giữ rất quan trọng. Hoa Kỳ yêu cầu Canada bắt giữ bà Mạnh tại sân bay Vancouver trên đường đến Mexico từ Hồng Kông, và sau đó dẫn độ bà sang Mỹ. Một động thái như vậy gần như là một lời tuyên chiến của Hoa Kỳ đối với cộng đồng doanh nghiệp Trung Quốc. Gần như chưa từng có tiền lệ, điều này khiến các doanh nhân Mỹ đi ra nước ngoài gặp rủi ro cao hơn nhiều trước các hành xử tương tự của các nước khác.
Hoa Kỳ hiếm khi bắt giữ các doanh nhân cao cấp, dù là người Hoa Kỳ hay nước ngoài, vì các cáo buộc phạm tội do công ty của họ thực hiện. Các nhà quản lý doanh nghiệp thường bị bắt vì các cáo buộc phạm tội cá nhân (như tham ô, hối lộ hoặc bạo lực) hơn là do cáo buộc đối với các hành vi sai trái của công ty họ. Đúng là các nhà quản lý doanh nghiệp nên phải chịu trách nhiệm cho sự sai trái của công ty họ, và bao gồm các cáo buộc hình sự; nhưng việc khởi xướng điều này với một doanh nhân hàng đầu Trung Quốc chứ không phải là hàng chục CEO và CFO nổi tiếng của Hoa Kỳ, là một sự khiêu khích đáng kinh ngạc đối với chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp và công chúng Trung Quốc.
Mạnh bị buộc tội vi phạm các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran. Tuy nhiên, hãy xem xét việc bà bị bắt giữ trong bối cảnh có một số lượng lớn các công ty, bao gồm cả công ty Hoa Kỳ và công ty nước khác, đã vi phạm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran và các quốc gia khác. Ví dụ, hồi năm 2011, JP Morgan Chase đã phải trả 88,3 triệu đô la tiền phạt vì vi phạm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Cuba, Iran và Sudan. Nhưng, Jamie Dimon đã không bị tóm lôi ra khỏi máy bay và bị tống giam.
Và JP Morgan Chase không phải là trường hợp duy nhất vi phạm các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ. Từ năm 2010, các tổ chức tài chính lớn sau đây đã phải trả tiền phạt vì vi phạm các lệnh trừng phạt của Mỹ: Banco do Brasil, Bank of America, Bank of Guam, Bank of Moscow, Bank of Tokyo-Mitsubishi, Barclays, BNP Paribas, Clearstream Bank, Commerzbank, Compass, Crédit Agricole, Deutsche Bank, HSBC, ING, Intesa Sanpaolo, JP Morgan Chase, Ngân hàng Quốc gia Abu Dhabi, Ngân hàng Quốc gia Pakistan, PayPal, RBS (ABN Amro), Société Générale, Ngân hàng Toronto-Dominion, Ngân hàng Quốc gia xuyên Thái Bình Dương (nay được gọi là Ngân hàng Kinh doanh Beacon), Standard Chartered và Wells Fargo.
Không ai trong số các CEO hoặc CFO của các ngân hàng bị trừng phạt này bị bắt và giam giữ vì những vi phạm này. Trong tất cả các trường hợp này, công ty – chứ không phải là cá nhân nhà quản lý – phải chịu trách nhiệm. Theo một cuộc tổng kết gần đây, họ cũng không phải chịu trách nhiệm cho những vi phạm pháp luật phổ biến trong thời gian trước hoặc sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, mà trong đó các ngân hàng đã phải trả khoản tiền phạt khổng lồ là 243 tỷ đô la. Trong bối cảnh đó, vụ bắt giữ bà Mạnh là một sự thay đổi thông lệ gây sốc. Đúng là nên buộc các CEO và CFO chịu trách nhiệm, nhưng điều đó nên bắt đầu ở trong nước để tránh bị coi là đạo đức giả, lợi ích cá nhân được ngụy trang thành nguyên tắc cao thượng, cũng như nguy cơ gây ra một cuộc xung đột toàn cầu mới.
Khá rõ ràng là hành động của Mỹ đối với bà Mạnh thực sự là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của chính quyền Trump nhằm làm suy yếu nền kinh tế Trung Quốc bằng cách áp thuế, đóng cửa thị trường phương Tây đối với hàng xuất khẩu công nghệ cao của Trung Quốc và ngăn chặn Trung Quốc mua lại các công ty công nghệ châu Âu và Mỹ. Người ta có thể nói không ngoa rằng đây là một phần của một cuộc chiến kinh tế đối với Trung Quốc, và là một cuộc chiến liều lĩnh lúc này.
Huawei là một trong những công ty công nghệ quan trọng nhất của Trung Quốc, và do đó, mục tiêu hàng đầu của chính quyền Trump là nhằm làm chậm hoặc ngăn chặn Trung Quốc tiến vào một số lĩnh vực công nghệ cao. Động cơ của Mỹ trong cuộc chiến kinh tế này một phần là vì thương mại – để bảo vệ và ủng hộ các công ty Mỹ chậm tiến – và một phần thuộc về địa chính trị. Các động cơ của Mỹ không liên quan gì tới việc thượng tôn pháp quyền quốc tế.
Hoa Kỳ đang đặc biệt nhắm đến Huawei là vì thành công của công ty này trong việc tiếp thị các công nghệ 5G tiên tiến trên toàn cầu. Mỹ tuyên bố rằng công ty gây nên một rủi ro bảo mật cụ thể nào đó thông qua khả năng giám sát ẩn trong phần cứng và phần mềm. Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ đã không cung cấp bằng chứng nào cho tuyên bố này.
Một bài chỉ trích gần đây chống lại Huawei trên tờ Financial Times đã tiết lộ nhiều điều về vấn đề này. Sau khi thừa nhận rằng “bạn không thể có bằng chứng cụ thể về sự can thiệp vào Công nghệ Thông tin và Truyền thông, trừ khi bạn đủ may mắn để mò thấy cây kim dưới đáy biển,” thì tác giả chỉ đơn giản khẳng định rằng “bạn không thể nhận lấy rủi ro bằng cách trao an ninh của mình vào tay một đối thủ tiềm năng”. Nói cách khác, dù chúng ta thực sự không thể chỉ ra hành vi sai trái của Huawei thì chúng ta vẫn nên đưa công ty vào danh sách đen.
Khi các quy tắc thương mại toàn cầu cản trở các chiến thuật kiểu “xã hội đen” của Trump, thì các quy tắc này phải đội nón ra đi. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo thừa nhận điều này trong tuần trước tại Brussels. “Chính quyền của chúng tôi,” ông nói, “đã rút khỏi một cách hợp pháp hoặc đàm phán lại các hiệp ước, các hiệp định thương mại đã lỗi thời hoặc gây hại, và các dàn xếp quốc tế khác không phục vụ lợi ích quốc gia của chúng tôi, hoặc lợi ích của các đồng minh của chúng tôi.” Nhưng trước khi rút khỏi các hiệp định này, chính quyền Mỹ đã xem chúng là vô giá trị thông qua các hành động liều lĩnh và đơn phương.
Vụ bắt giữ bà Mạnh chưa từng có tiền lệ thậm chí còn khiêu khích hơn vì nó dựa trên các biện pháp trừng phạt có ảnh hưởng bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, nghĩa là tuyên bố của Hoa Kỳ rằng họ có thể ra lệnh cho các nước khác ngừng giao dịch với các bên thứ ba như Cuba hoặc Iran. Hoa Kỳ chắc chắn sẽ không tha thứ cho Trung Quốc hay bất kỳ quốc gia nào khác nếu họ ra lệnh cho các công ty Mỹ được hoặc không được giao thương với ai đó.
Các lệnh trừng phạt liên quan đến các chủ thể phi nhà nước (như lệnh trừng phạt của Mỹ đối với một doanh nghiệp Trung Quốc) không nên được cưỡng chế thực thi bởi riêng một quốc gia nào đó, mà nên theo các thỏa thuận đạt được trong phạm vi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Về vấn đề này, Nghị quyết 2231 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã kêu gọi tất cả các nước bãi bỏ các lệnh trừng phạt đối với Iran như một phần của thỏa thuận hạt nhân Iran 2015. Tuy nhiên, Hoa Kỳ – và chỉ Hoa Kỳ – hiện bác bỏ vai trò của Hội đồng Bảo an trong các vấn đề như vậy. Chính quyền Trump, chứ không phải Huawei hay Trung Quốc, ngày nay mới là mối đe dọa lớn nhất đối với pháp quyền quốc tế, và do đó đối với hòa bình toàn cầu.
Jeffrey D. Sachs, giáo sư về Phát triển Bền vững và giáo sư về Chính sách và Quản lý Y tế, là giám đốc Trung tâm Phát triển Bền vững tại Đại học Columbia và giám đốc Mạng lưới Giải pháp Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc. Ông là tác giả của các cuốn sách The End of Poverty, Common Wealth, The Age of Sustainable Development, và gần đây nhất là Building the New American Economy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét