Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

Câu chuyện cái chợ; Ngôi làng nguy hiểm nhất thế giới, cảnh tượng khiến du khách không thốt nên lời;Vị tổng trấn cho xây Khuê Văn Các, chợ Đồng Xuân

Câu chuyện cái chợ

cau chuyen cai cho thumbnail
Ừ nhỉ, chợ quê ta thì có gì đặc biệt? Ngày ngày vẫn họp, ngày nào cũng đông, hoạt động cả năm chẳng ngày nào ngưng nghỉ, hàng hóa bày bán thì phong phú vô cùng, kẻ bán người mua đông như trẩy hội… Có thể ai đó nói như thế, và nghĩ vậy thì cũng là điều bình thường, nhưng nếu họ có mặt ở chợ vào một thời chưa xa lắm thì sẽ thấy có nhiều điều thú vị…
Điều đầu tiên là chợ quê ta không có tên, không như chợ ở các vùng xung quanh, chợ nào cũng có danh, ví dụ như chợ Thông, chợ Lựa, chợ Huyện hay chợ Viềng. Người nơi khác gọi theo địa danh là chợ Thuận Vi, người Nam Định bên kia sông thì gọi là chợ Gòi, một cái tên lạ lẫm mà trong chúng ta nhiều người cũng không biết. Còn dân quê ta thì cứ nôm na gọi là chợ Nhà, nào là đi chợ “nhà”, ra chợ “nhà” mà tôi cũng không hiểu chữ “nhà” này là tính từ hay danh từ trong ngôn ngữ nữa. Có lẽ chữ chợ Nhà đã là tên riêng của chợ, là cách gọi của ông cha ta từ lâu lắm rồi…
cau chuyen cai cho 1
Chẳng ai biết chính xác chợ có từ bao giờ và lại nằm ở vị trí không được trung tâm cho lắm, người dưới Toàn Thắng, Tiền Phong hoặc khu dưới của Bách Tính, Thuận Nghiệp đi chợ thì hơi xa. Chợ xưa nhỏ hơn một chút so với bây giờ nhưng thông thoáng hơn, khu bên dưới còn là thổ cư của một số gia đình, giữa chợ có cái quán không biết được xây từ bao giờ, quán thứ hai xưa là một tòa nhà lớn được dùng để làm cửa hàng bách hóa của xã thời bao cấp. Các bờ tường cạnh đường cũng đã có từ thủa xưa, cửa hàng quán xá không có nhiều như bây giờ.
Chợ được họp gọn gàng chứ không tràn ra đường, nơi đó khi xưa để dành cho người thiên hạ đem rơm rạ đến bán. Chợ xưa không họp vào ngày đầu năm – tức mồng một Tết Nguyên đán, lúc đó chợ là thiên đường cho lũ trẻ vui chơi, lũ con trai thì đánh đáo bằng những đồng 5 xu, 2 xu có lỗ với đồng cái bằng chì tròn và nặng. Rồi những năm chiến tranh, thời Mỹ ném bom miền Bắc, chợ cũng phải sơ tán, dân ta họp chợ trên đường, khi thì dọc theo đường ra Trung Hòa, lúc dọc đường Chiến Thắng kéo dài vượt qua khu Chùa – tức khu ủy ban nhân dân hay trạm xá bây giờ. Mùa nước lũ chợ vẫn họp, người ta mua bán trên thuyền, hàng hóa vẫn đủ cả, cảnh tượng tựa như vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long…
cau chuyen cai cho 2
Chợ Thuận Vi ta cũng có nhiều thứ độc đáo lắm, ví như một số loại bánh khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác, như bánh bèo hay bánh hấp chẳng hạn, đều là những thứ bánh rẻ tiền nhưng ngon đặc trưng, rất phù hợp với túi tiền của người lao động. Bánh cuốn Thuận Vi thì khỏi nói, chẳng người Bách Thuận nào khi sinh sống xa quê mà quên được món này. Tôi đã từng thưởng thức bánh cuốn Thanh Trì, bánh cuốn Vân Đình đã có tiếng tăm, nhưng chẳng nơi đâu sánh được với bánh quê mình. Bánh cuốn những nơi đó được mùi thơm của thịt nướng che lấp đi, chứ nếu ăn mỗi bánh chay thì chán ngắt; trong khi đó bánh quê ta chỉ cần thêm bát nước mắm chanh ớt là có thể ăn đến no chẳng cần đến chả thịt.
Tôi đi xa quê đã lâu, nhưng mỗi khi có dịp trở lại là luôn yêu cầu người nhà cho ăn những loại bánh của quê hương. Nào là bánh cuốn mềm vá béo ngậy; bánh tẻ thật ngon, khi bóc ra có màu xanh bắt mắt và ruột trắng tinh, khi ăn có cảm giác cứng giòn chứ không nhão; nào là bánh chưng; nào là bánh nếp có hình dáng như cái chóp nón ngộ nghĩnh, các cháu tôi từ Hà Nội về thấy lạ lắm, chúng gọi là bánh chưng Gù. Xưa chợ quê ta còn có loại bánh rất đặc trưng nữa, tuy không ngon lắm nhưng được cái bình dân, chỉ cần vài hào thôi là cũng lưng lưng cái bụng, đó là bánh đúc, được làm từ gạo hay ngô, khi ăn thì chấm với mắm tôm…
cau chuyen cai cho 3
Mải miên man với các loại bánh trái mà tôi suýt quên điều hay nhất chỉ có ở chợ quê ta ngày ấy, đó là, trong khi các vùng quê khác dùng cân hoặc đôi khi là cái đấu gỗ để mua bán gạo cám, thì dân mình lại dùng cái bơ, gọi là bơ 8 lạng. Tôi chẳng biết một bơ có đủ tám lạng hay thừa thiếu mà chỉ thấy thú vị về cách mua bán bằng bơ này. Khi đong bơ người ta còn lấy tay be xung quanh cho gạo đầy thêm, người bán thì gạt xuống, kẻ mua thì cho thêm, nhìn tức cười lắm. Rồi cả người bán lẫn người mua đều vui vẻ hỉ hả, chẳng thấy ai vì đầy vơi mà cãi cọ bao giờ. Đấy cũng là nét đẹp của văn hóa quê ta.
cau chuyen cai cho 4
Chợ Thuận Vi, chợ quê ta khi xưa là thế đấy, ai bảo là không có gì đặc biệt, không có gì để nhớ?
Nguyễn Như Thạnh (Cộng hòa Séc)

Ngôi làng nguy hiểm nhất thế giới, cảnh tượng khiến du khách không thốt nên lời

Thế gian không thiếu những phong cảnh làm say đắm lòng người. Nhưng có một nơi sơn thủy hữu tình, cảnh sắc tuyệt đẹp đến nỗi người ta sẵn sàng mạo hiểm để được chiêm ngưỡng. Đó chính là làng Quách Lượng, nằm tại huyện Huy, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
Người ta vẫn nói rằng, để đi lên làng Quách Lượng được đã khó, nhưng chiêm ngưỡng nó còn cần phải có đủ dũng khí và lòng can đảm. Hãy cùng khám phá xem nơi đây có đúng như lời đồn đại đó không?
lang-nguy-hiem1
Ngôi làng được bao quanh bởi những ngọn núi lớn, thế núi dựng thẳng đứng, cao ngút ngàn tầm mắt. Trải qua niên đại 600 năm, Mẹ Thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây một kiệt tác giống như những “bậc thang dẫn lên Trời”, cấu thành từ 720 bậc đá cheo leo. Ngôi làng nằm trong “rãnh trời” tự nhiên này chỉ cách núi Tích huyện Lăng Xuyên (Trung Quốc) không quá 10 km.
lang-nguy-hiem2
Ngôi làng cao 1700 m so với mực nước biển, vậy nên vốn trời sinh đã có cái khí thế sừng sững, oai nghiêm.
lang-nguy-hiem3
Chỉ nhìn thôi cũng khiến người xem phải “thót tim”. Nếu thực sự đứng từ trên cao nhìn xuống, chắc hẳn không ít người sẽ cảm thấy nôn nao, chếnh choáng.
lang-nguy-hiem4
Anh chàng này chắc cũng đã phải trang bị một “tinh thần thép”!
lang-nguy-hiem5
Lý Bạch có bài thơ “Thục đạo nan”, nói rằng: “Đường đến nước Thục khó, khó hơn lên trời xanh”. Nhưng xem ra vẫn không thấm gì với đường lên ngôi làng này.
lang-nguy-hiem6
Có thể nói, sự can đảm của những thôn dân nơi đây còn cao hơn… độ cao của ngôi làng.
lang-nguy-hiem7
Nhiều năm trước đây, 13 thanh niên trai tráng đã mất 5 năm để hoàn thành con đường dài 1250 m, nối liền từ mặt đất lên đỉnh núi, phá vỡ thế cô lập của ngôi làng.
lang-nguy-hiem8
Để xuống núi, người dân chỉ có thể đi bằng “độc đạo” này…
lang-nguy-hiem9
Không có điện, cũng không có đồ cơ khí, 13 thanh niên đã dùng chính mồ hôi công sức của mình để khai phá con đường.
lang-nguy-hiem10
Người nơi đây mỗi ngày tiêu hết 1 hào (khoảng 350 VND), họ sống bằng nghề bán dê, bán thảo dược và cây chặt được trên núi.
lang-nguy-hiem11
Cây lê già đầu làng không biết đã ở đây bao nhiêu năm? Chứng kiến bao nhiêu vui buồn của làng Quách Lượng?
lang-nguy-hiem12
Một trong 13 chàng thanh niên năm xưa giờ cũng đã già, làm nghề buôn bán nhỏ kiếm sống qua ngày.
lang-nguy-hiem13
Kiến trúc của những ngôi nhà ở đây cũng mang phong cách rất mộc mạc, khoẻ khoắn.
lang-nguy-hiem14
Một góc sân của ngôi nhà. Chẳng ai có thể tưởng tượng được nơi đây cách mặt đất hơn 1000 m.
lang-nguy-hiem15
Phải khó khăn lắm khách tham quan mới tìm được một chút gì đó của nền công nghiệp hiện đại.
lang-nguy-hiem16
Người ngoài khó có thể biết được đây là vật gì? Một đầu to, một đầu nhỏ, ở tách biệt 1 khu đất…
lang-nguy-hiem17
Đứng từ trên cầu, người ta có cảm giác như đang cách biệt cõi hồng trần xô bồ và chật hẹp.
lang-nguy-hiem18
Con đường hình chữ “Chi” (之) là lối đi duy nhất lên núi.
lang-nguy-hiem19
Bức tranh sinh động này có lẽ sẽ khiến nhiều người cảm thấy nao lòng…
lang-nguy-hiem20
Hãy giữ lại trong tâm trí cảnh tượng hùng vĩ, nơi sơn cùng thủy tận…
lang-nguy-hiem21
Ngôi làng Quách Lượng nằm lọt thỏm trong vùng núi Thái Hàng, thuộc hệ thống núi tiếp giáp giữa 2 huyện Sơn Tây và Hà Nam, Trung Quốc. Trong hơn 10 năm trở lại đây, khu vực này mới có người biết đến.
lang-nguy-hiem22
Điều đặc biệt nhất của ngôi làng này, đó là con đường duy nhất đi lên đây có nhiều đoạn hầm được đào xuyên qua núi hoàn toàn bằng thủ công.
lang-nguy-hiem23
Đây được cho là con đường đáng sợ nhất thế giới.
lang-nguy-hiem24
Vượt qua những hầm đá này, bạn có thể được chiêm ngưỡng kỳ quan tuyệt đẹp được mệnh danh là “Kỳ quan thứ 9 của Thế giới”.
lang-nguy-hiem25
Năm 1972, 13 chàng thanh niên không chút phương tiện hiện đại nào trong tay, đã mất 5 năm để khai phá con đường núi dài 1250 m, rộng 6 m, cao 4 m để thông ra bên ngoài.
lang-nuy-hiem26
Điều đáng nói ở đây là đá tại vùng núi này thuộc loại đá trầm tích, có độ cứng cấp 8,3, vậy mà họ lại có thể đào thủ công hoàn toàn như vậy. Thật đáng khâm phục!
lang-nguy-hiem27
Cả đoạn đường uốn lượn, gấp khúc liên tục.
lang-nguy-hiem28
Có đoạn đường thì bằng phẳng, có đoạn thì khúc khuỷu gập ghềnh.
lang-nguy-hiem29
Cứ cách một đoạn lại có một hầm nhỏ xuyên qua vách núi như thế này, người đi đường có cảm giác như được mở ra một cảnh sắc mới.
lang-nguy-hiem30
Nơi đây thực sự vẫn còn rất thô sơ, dường như nền văn minh bên ngoài khó có thể ảnh hưởng quá nhiều…
lang-nguy-hiem31
Vài chục hộ gia đình sống trong những ngôi nhà có tường được xây bằng đá núi, dính bằng vôi, cửa làm bằng gỗ…
lang-nguy-hiem32
lang-nguy-hiem33
lang-nguy-hiem34
lang-nguy-hiem35
Đặc biệt nhất là mái ngói được làm bằng những phiến đá ngọc tìm thấy trong núi, dưới làn sương mỏng, hiện lên trông vô cùng tinh tế.
lang-nguy-hiem36
Ngôi làng có tổng cộng 83 hộ dân, gồm 329 người, đa số đều là người Sơn Tây di cư lên.
lang-nguy-hiem37
lang-nguy-hiem38
Làng Quách Lượng còn có tên gọi khác là Ao Trời. Năm 1975, người dân nơi đây đã cải tạo lại con đập, tạo thành 1 hồ nước nằm ngay giữa Thiên – Địa – Nhân. Thật quả đúng như tên gọi!
Minh Xuân
Xem thêm:

Vị tổng trấn cho xây Khuê Văn Các, chợ Đồng Xuân

Khuê Văn Các, chợ Đồng Xuân, cột cờ…, các công trình biểu tượng của Hà Nội đều được xây dựng dưới thời Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành, khởi công từ những năm 1804-1805.

Nguyễn Văn Thành là khai quốc công thần của vua Gia Long, có quân công hạng nhất, từng được giao giữ chức Khâm sai Chưởng Tiền quân, Bình Tây đại tướng quân, tước Quận công. Về văn nghiệp, ông nổi tiếng ở vai trò Tổng tài soạn thảo Hoàng Việt luật lệ (thường được gọi là bộ luật Gia Long) và Tổng tài biên soạn Quốc triều thực lục. Trong số nhân vật dưới thời vua Gia Long, hiếm có vị quan nào văn võ toàn tài như vậy.
Nguyễn Văn Thành sinh năm 1758, tại Gia Định, quê gốc ở Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế. Đại Nam thực lục, bộ sách ghi chép sự tích các nhân vật nổi bật thời nhà Nguyễn (Sơ tập, quyển 21), nêu rõ: "Thành trang mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ". Từ năm 1773, ông cùng cha là Nguyễn Văn Hiền theo chúa Nguyễn Phúc Thuần chống lại quân Tây Sơn, sau đó theo phò Nguyễn Ánh cho đến khi thống nhất đất nước năm 1802.
vi-tong-tran-cho-xay-khue-van-cac-cho-dong-xuan
Tượng Tổng trấn Nguyễn Văn Thành tại một ngôi miếu thuộc Đại Nội Huế. Ảnh: wikipedia
Nhiều câu chuyện được chép kể về công trạng của Nguyễn Văn Thành, như khi phụ tá cha đi lấy thóc ở Sông Cầu (Phú Yên), bị quân Tây Sơn phục kích, ông lùi lại sau trận, sai người đội thóc giơ đòn gánh lên làm vũ khí, treo áo làm cờ, đánh trống hò reo giả làm quân cứu viện, khiến quân Tây Sơn phải lui binh.
Năm 1787, Nguyễn Ánh bị đánh thua, phải chạy ra đảo Thổ Chu, bị hết lương ăn, Nguyễn Văn Thành đem quân cướp thuyền buôn của Hạ Châu đi qua. Bị lái buôn chống cự rất dữ, ông cũng bị vài vết thương nhưng vẫn cố nhảy lên cướp được thuyền gạo mang về cho quân ăn.
Trong những chiến dịch cuối cùng của Nguyễn Ánh đánh lại nhà Tây Sơn, Nguyễn Văn Thành được trao quyền Tiết chế, từ Nguyễn Huỳnh Đức trở xuống đều chịu quyền sai khiến. Vua Gia Long lên ngôi, ông được giao giữ chức Tổng trấn Bắc thành, cai quản toàn bộ các tỉnh miền Bắc từ Ninh Bình trở ra, với lời phủ dụ "Việc Bắc Thành đều giao cho ngươi cả". Ông cai quản Bắc thành cho đến năm 1810.
Khi nhậm chức, ông “phủ trăm họ, chiêu dụ hào kiệt, những Hương cống Tiến sĩ đời Lê đều đến cửa, ông lấy lễ hậu đãi, nên ai cũng vui làm việc”. Trong những công việc cụ thể, ông cho quy hoạch lại thành Thăng Long, trong Hoàng thành, lấy cửa Đoan Môn, điện Kính Thiên làm chuẩn, phía trước dựng cột cờ gọi là kỳ đài cao một trăm thước ta (40 m), lấy đó làm hiệu lệnh trong quân.
Cột cờ bắt đầu dựng năm 1805, mãi đến năm 1812 mới hoàn thành. Kiến trúc cột cờ bao gồm ba tầng đế và một thân cột, hiện vẫn được coi là một trong những biểu tượng của Hà Nội.
Về việc hoạch định phố phường, ông chia các doanh, vệ ngang dọc như bàn cờ, đặt ngôi chợ lớn ở cửa chính Đông (chợ Đồng Xuân ngày nay), phân chia quán xá, đường đi thật vuông, thẳng. Chợ lúc đầu chỉ làm bằng tre gỗ, mãi đến thời Pháp thuộc mới được xây bằng gạch với những hồi tường vòm hiện nay.
Ông cũng cho tu bổ Văn Miếu, xây thêm Khuê Văn Các, với kiến trúc đặc sắc dạng cổ lầu, tầng gác bên trên là những kết cấu bằng gỗ, bốn góc có hàng lan can bằng gỗ tiện, mái ngói được nâng bởi những giá gỗ đơn giản, vững chắc mà thanh thoát. Cửa và thanh gỗ tạo hình sao Khuê tỏa sáng, tượng trưng cho văn học. Đây cũng là biểu tượng đặc trưng cho thành phố Hà Nội.
vi-tong-tran-cho-xay-khue-van-cac-cho-dong-xuan-1
Khuê Văn Các, biểu tượng của Hà Nội.
Tổng trấn Nguyễn Văn Thành cũng là người đề cập đến quy định “nhiệm kỳ” cho quan lại: “Thành dâng sớ, xin định 3 năm làm 1 khóa, quan phủ huyện 3 năm không có lỗi điệu bổ chức khác. Đến 6 năm mới xét giỏi kém định truất nhắc”.
Sử nhà Nguyễn khen ngợi Nguyễn Văn Thành là người "Biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong chư tướng vua trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán. Mỗi khi ông đến chầu, vua cho ngồi thong dong hỏi han, ông cũng đem hết sức hiểu biết tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh, biết điều gì là nói hết, cũng nhiều bổ ích".
Về tài cầm binh, Tiền quân Nguyễn Văn Thành là vị tướng "phân tích kỹ lưỡng, đâu là điểm mạnh, đâu là thế yếu, rồi mới quyết đoán, lúc tiến, khi lui nhằm giảm thiểu hao tổn tướng sĩ”.
Khi lâm trận, ông “dụng binh mưu lược rồi mới đánh cho nên ít khi thua”. Đến khi đảm đương công việc Tổng trấn Bắc Thành thì được khen là “không động đến lời nói nét mặt mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước”.
Năm thứ 7 (1808), Bắc Thành tứ trấn trộm giặc nổi dậy như ong, ông sai thuộc tướng chia đường tiến đánh, ở trong thành chỉ lưu lính vài trăm người, 2 thớt voi, và nói với bộ thuộc rằng chỉ bấy nhiêu quân voi xem giặc có dám đến không. Quan quân tiến đánh lớn nhỏ 36 trận mới dẹp yên được. Ông làm sách công trạng dâng lên vua, được thưởng 20.000 quan tiền.
Tuy văn võ toàn tài, có nhiều công trạng như vậy, nhưng Nguyễn Văn Thành cùng cả gia đình lại chịu kết cục bi thảm, nguyên nhân cũng bởi không biết chiều ý nhà vua.
Khi được triệu về kinh, do lỡ lời khi bình luận về việc chọn huyệt mộ cho vua Gia Long, vua bắt đầu không thích ông, sau này khi gặp chuyện của con trai là Nguyễn Văn Thuyên, vua mới đem các lời nói ấy ra để luận tội.
Khi Thừa Thiên Cao Hoàng hậu mất, vua muốn hoàng tử Đảm (sau là vua Minh Mạng) làm chủ tang (hoàng tử là con ruột của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu họ Trần, chỉ là con nuôi Thừa Thiên Cao hoàng hậu họ Tống), Nguyễn Văn Thành đã ngăn cản. Ông muốn lập Hoàng tôn Đán, con hoàng thái tử Cảnh, lên làm thái tử, trong khi vua muốn lập hoàng tử Đảm, nên càng khiến nhà vua khó chịu.
Năm 1815, con của ông Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Thuyên, vì một bài thơ ý nghĩa mập mờ bị vu cho là có ý phản nghịch, bị môn hạ tố giác với quan Bộ Hình là Nguyễn Hữu Nghị, rồi tố cáo với Lê Văn Duyệt. Duyệt vốn có hiềm khích với Nguyễn Văn Thành, nên tố lên vua. Lúc đó, vua cho sự việc chưa rõ ràng, nên chưa xử.
Đến năm 1816, nhân việc nắm áo vua van nài xin xử lý rõ ràng sự việc bị quần thần hãm hại, Nguyễn Văn Thành mới bị vua ghét, cấm vào chầu. Vua giao Lê Văn Duyệt tra tấn Thuyên, Thuyên sợ phải nhận tội, cha cũng phải nhận tội theo. Vua nghĩ Nguyễn Văn Thành là đại thần, thu ấn cho về ở nhà riêng. Năm sau, ông lại bị hậu duệ vua Lê là Diên tự công Lê Duy Hoán vu cha con Nguyễn Văn Thành rủ mưu phản, nên bị nhốt vào ngục, rồi uống thuốc độc tự tử, thọ 60 tuổi.
Lúc này vua mới xem tớ biểu trần tình của Nguyễn Văn Thành để lại mà khóc, tha cho các con, cho tiền lụa hậu để an táng.
Mãi đến khi vua Tự Đức lên ngôi (1847), vua mới xuống chiếu rửa tội cho Nguyễn Văn Thành để khuyến khích người có công.
Lăng mộ của Nguyễn Văn Thành ở Thủy Phương, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, tuy không đồ sộ nhưng vẫn giữ được những nét hoa văn chạm trổ tinh xảo.
Lê Tiên Long

Không có nhận xét nào: