Một trong những hình ảnh mang tính biểu tượng nhất của sự sụp đổ của Sài Gòn đã không xảy ra ở Sài Gòn mà xảy ra trên biển, nơi lính Mỹ đẩy trực thăng ra khỏi tàu của họ.
Mỹ bắt đầu rút quân khỏi Nam Việt Nam năm 1973 theo hiệp định Paris với thời hạn cuối cùng là năm 1976. Tuy nhiên, đến năm 1974, Tổng thống Gerald Ford nhận ra họ gặp vấn đề: bất cứ người miền Nam nào phục vụ cho người Mỹ có thể bị Bắc Việt tấn công khi họ tiếp quản.
Tháng 4 năm 1975 Tổng thư ký Henry Kissinger đã nhận được danh sách khoảng 1,6 triệu người có nguy cơ phải rời khỏi Việt Nam. Ngoại trừ người Mỹ, người phụ thuộc và các quốc tịch khác làm việc cho chính phủ Mỹ, thì có khoảng 600.000 người Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, vì họ không thể đưa 600.000 người ra nên số quân của Nam Việt Nam bị hạ xuống còn 17.000 gồm những người làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kỳ và bảy người liên quan đến họ. Sau đó, họ đã xem xét kỹ hơn biên chế đại sứ quán và chốt con số gần 200.000.
Ngày 1 tháng 4, Quân đội, Hải quân, Không quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bắt đầu cắm trại tại Căn Cứ Phòng Đệm Quốc Phòng (DAO) của Sài Gòn để chuẩn bị cho việc di tản. Đó là tín hiệu cho các đại sứ quán khác để đưa công dân của họ ra ngoài cũng như các cơ quan thông tấn yêu cầu phóng viên của họ rời đi, cũng như CIA. Tuy nhiên, một người đàn ông nói không cần thiết.
Graham Anderson Martin là Đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam kể từ năm 1973 và ông tin rằng sức mạnh của Hoa Kỳ sẽ cản trở bước tiến của Bắc Việt. Martin cũng không muốn mọi người nghĩ Mỹ sẽ chạy nên ông ta ra lệnh cho nhân viên của mình ở lại; mặc dù Chuẩn Tướng Richard E. Carey, Chỉ Huy Trưởng Lữ Đoàn 9 Lữ Đoàn Nhảy Dù Hải quân, đã tới Việt Nam vào ngày 13 tháng 4 để giải thích với Martin.
Martin giữ vững niềm tin của mình cho đến ngày 28/4 khi người miền Bắc bao vây Sài Gòn. Lúc 6 giờ tối, họ ném bom căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất ởngay bên cạnh sân bay nên sân bay bị phá hủy: máy bay không thể cất cánh để di tản được.
Martin đã đưa vợ mình bay đi nhưng vẫn nhấn mạnh rằng nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở lại các vị trí của họ; trừ những người phải hộ tống vợ.
Sáng hôm sau lúc 7am, Bộ trưởng Quốc phòng Đô đốc D. Homer D. Smith kêu gọi Đại sứ đưa ra tín hiệu sơ tán cho chiến dịch Frequent Wind -tên mới của chiến dịch Talon Vise. Martin từ chối và đòi hỏi xem căn cứ không quân. Sau khi trực tiếp đến nơi ngó nghiêng được một góc, ông ta phát lệnh Di tản.
“Giáng sinh trắng” đã được phát trên đài phát thanh, nhưng đã quá muộn. Hàng ngàn người miền Nam hoảng loạn đã kẹt xe trên đường phố để chạy ra phía nam. Những người khác đã làm tắc nghẽn các đại sứ quán nước ngoài khi cầu xin thị thực vào phút chót. Xe buýt và ôtô chở người Mỹ hoặc bè cánh khác bị thương mắc kẹt trong giao thông.
Những người Mỹ đã đến Đại sứ quán Hoa Kỳ hoặc các cơ sở DAO tìm thấy những cánh cổng đóng cửa để ngăn chặn cơn sóng của những người Việt hoảng sợ đang cố gắng vào. Không có máy bay chở khách nào sẵn có, chỉ còn lại máy bay trực thăng.
Những người này sơ tán khỏi cả hai địa điểm ra biển, nơi các tàu chiến Mỹ đang chờ đợi. Họ sử dụng những chiếc máy bay trực thăng AH-1J SeaCobra và loại khác.
Trong 18 giờ tiếp theo, 81 chiếc máy bay trực thăng quá tải, được điều khiển bởi những quân nhân đã kiệt sức, đã chuyên chở đầy người ra tàu biển mà không quan tâm đến việc họ có nằm trong danh sách được chấp thuận hay không.
Sự hỗn loạn còn xảy ra khi các thành viên của quân đội miền Nam Việt Nam có thể lái máy bay cướp được và tự chở gia đình họ ra tàu biển.
Như thiếu tá Nguyễn Văn Ba có vợ và ba con, không nói tiếng Anh hoặc có thị thực Hoa Kỳ. Ông ta lấy cắp chiếc trực thăng Chinook CH-47 từ căn cứ của ông ta, bay đến khu phố cuả mình và ra lệnh cho gia đình và hàng xóm của ông ta lên và bay ra phía biển.
Cuộc đánh bạc đã trả giá khi anh ta phát hiện ra USS Kirk, nhưng lại không được hạ cánh vì trực thăng quá lớn, nếu cố gắng hạ cánh, các cánh quạt sẽ phá hủy tầng trên của tàu và gây ra tai nạn.
Nguyễn bay lơ lửng trên con tàu và sử dụng ngôn ngữ cử chỉ, cầu xin những thủy thủ đón hành khách của mình. Sau đó, ông bay ra biển, nhảy ra khỏi trực thăng và một chiếc thuyền đã cứu ông ta. Trực thăng không người điều khiển chìm xuống biển.
Một máy bay của VNAF Cessna o-1 đã bay qua USS Midway và cầu xin: “Hãy di chuyển trực thăng sang một bên và tôi có thể hạ cánh trên đường băng của tàu, máy bay có thể bay thêm 1 giờ nữa. Xin vui lòng cứu tôi. Thiếu tá Buang, vợ và 5 đứa con . ”
Chỉ có một giải pháp: đẩy trực thăng xuống biển để lấy chỗ trống cho chiếc VNAF Cessna hạ cánh. Vài chiếc 45 UH-1 Huey (trị giá khoảng 10 triệu đô la) và ít nhất một CH-47 Chinook đã bị đẩy xuống biển.
Vào cuối chiến dịch Operation Frequent Wind vào 30/4, khoảng 7.000 người đã được cứu với chi phí tương đương đào tạo hai phi công.
Tuy nhiên, vẫn có hàng ngàn người bị bỏ lại phía sau bao gồm cả những người Mỹ đã nghe bài hát của Bing Crosby quá muộn.
(George Winston/WH)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét