Posted on 07/11/2017
Nguồn: Stephen Kotkin, “Communism’s Bloody Century”, Wall Street Journal, 03/11/2017
Người dịch: Hiếu Chân
Một trăm năm kể từ cuộc đảo chính của Lenin ở Nga, thứ ý thức hệ dấn thân cho sự nghiệp xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã để lại một chặng đường dài hủy diệt và chết chóc.
Tầm tuần này một thế kỷ trước, chủ nghĩa cộng sản chiếm được đế quốc Nga, đất nước lớn nhất thế giới tại thời điểm đó. Các phong trào thiên tả đủ loại đã lan tràn trong chính trị châu Âu trước khi diễn ra cuộc cách mạng ngày 25 tháng Mười năm 1917 (trùng vào ngày 7 tháng Mười Một theo lịch cải cách của Nga), nhưng Vladimir Lenin và những người bolsheviks của ông thì khác hẳn. Họ không chỉ mang một niềm tin hoang tưởng mà còn linh hoạt trong chiến thuật và may mắn hơn các đối thủ.
Chủ nghĩa cộng sản đi vào lịch sử như là sự kết tội chủ nghĩa tư bản, kịch liệt nhưng đầy chất lý tưởng, và hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn. Những người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, cũng như những người cánh tả khác, đều đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản đã gây ra tình trạng bi thảm của nông dân và công nhân cũng như sự lan tràn của lao động nhập cư và lao động trẻ em. Những người cộng sản nhìn thấy cuộc tàn sát trong Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất như là hậu quả trực tiếp của sự cạnh tranh khốc liệt giữa các cường quốc để giành giật thị trường nước ngoài.
Nhưng một thế kỷ cầm quyền của chủ nghĩa cộng sản – mà ngày nay vẫn còn đứng vững ở Cuba, Bắc Hàn và Trung Quốc – đã làm rõ cái giá phải trả về nhân mạng của một chương trình chính trị quyết tâm lật đổ chủ nghĩa tư bản. Hết lần này đến lượt khác, nỗ lực xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã gây ra cái chết của một số lượng người đáng kinh ngạc. Từ năm 1917 – ở Liên Xô, Trung Quốc, Mông cổ, Đông Âu, Đông Dương, Phi châu, Afghanistan và nhiều nước châu Mỹ Latin – chủ nghĩa cộng sản đã làm thiệt mạng ít nhất 65 triệu người, theo nghiên cứu cẩn thận của các nhà dân số học.
Những công cụ hủy diệt của chủ nghĩa cộng sản bao gồm việc trục xuất hàng loạt, các trại cưỡng bức lao động và sự khủng bố của nhà nước cảnh sát – một mô hình được lập ra bởi Lenin và đặc biệt là người kế tục ông là Joseph Stalin. Mô hình này được nhân rộng nhiều nơi. Dù chủ nghĩa cộng sản đã cố ý giết chết một lượng lớn người dân nhưng thậm chí còn nhiều nạn nhân hơn đã chết vì nạn đói – hậu quả của những dự án tàn bạo về cải tạo xã hội.
Với những tội ác mang “tầm sử thi” này, Lenin và Stalin phải chịu trách nhiệm cá nhân, cũng như Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Pol Pot ở Campuchia, gia tộc họ Kim ở Bắc Hàn và các nhà độc tài cộng sản khác ít tàn bạo hơn. Nhưng chúng ta đừng bỏ qua các ý tưởng đã thôi thúc những kẻ độc ác này tàn sát con người trên quy mô lớn như vậy, cũng đừng quên cái bối cảnh dân tộc thôi thúc họ đi theo các ý tưởng này. Sự nghiệp chống chủ nghĩa tư bản hấp dẫn họ do tính đúng đắn của chính nó và trong tâm trí họ, đó cũng là công cụ để các quốc gia chậm tiến nhảy vọt lên, đứng vào hàng ngũ các cường quốc.
Giờ đây, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa đã lụi tàn, nhưng một trăm năm của nó, xét như một sự nghiệp vĩ đại chống chủ nghĩa tư bản, vẫn đòi hỏi một sự phân xử thích hợp.
Vào tháng Hai năm 1917, Nga hoàng Nicholas đệ Nhị thoái vị dưới áp lực của các tướng lĩnh, những người lo ngại rằng các cuộc biểu tình và tuần hành đòi cơm áo ở thủ đô St. Petersburg đang làm xói mòn nỗ lực chiến tranh chống Đức và các nước đồng minh của nó. Cuộc Cách mạng tháng Hai, như tên gọi biến cố ấy, lập ra một chính phủ lâm thời không do người dân bầu lên; chính phủ này cầm quyền mà không có một nghị viện dân cử. Nông dân bắt đầu giành lấy ruộng đất và các xô-viết (tức là các ủy ban chính trị) bắt đầu được thành lập trong binh lính ở chiến trường, cũng giống như các xô-viết đã được lập ra trước đó trong các nhóm chính trị ở đô thị.
Mùa thu năm ấy, khi chiến tranh diễn ra ngày càng dữ dội, những người bolshevik của Lenin đã tiến hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang, huy động được có lẽ không quá 10.000 người. Cuộc đảo chính của họ không nhắm lật đổ chính phủ lâm thời từ lâu đã trở nên dở sống dở chết; thay vì vậy họ chống lại các xô-viết chính ở thủ đô do những người xã hội chủ nghĩa ôn hòa hơn thống trị. Cuộc Cách mạng tháng Mười bắt đầu là một cuộc lật đổ chớp nhoáng mà những người cánh tả cấp tiến thực hiện để chống lại phần còn lại của cánh tả, thành phần tố cáo những người bolshevik vi phạm quy tắc và sau đó đã bỏ ra khỏi các xô-viết.
Những người bolshevik, cũng như nhiều đối thủ của họ – là môn đệ trung thành của Karl Marx, nhà tư tưởng cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực vĩ đại của lịch sử. Cái mà ông gọi là chế độ phong kiến sẽ phải nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản, rồi đến lượt mình, chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản và cuối cùng là một thế giới đại đồng không tưởng xa xăm! Marx hình dung ra một kỷ nguyên mới của tự do và sung túc, và điều kiện tiên quyết của nó là sự phá hủy “chế độ nô lệ tiền lương” và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Như ông và người cộng sự Friedrich Engels từng tuyên bố trong Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, học thuyết của họ “có thể được tóm gọn trong một câu đơn nhất: bãi bỏ quyền tư hữu”.
Một khi đã giành được quyền lực vào đầu năm 1918, những người bolshevik tự đổi tên thành đảng Cộng sản và họ tìm cách buộc nước Nga phải cấp tốc đi lên chủ nghĩa xã hội, đi tới giai đoạn cuối cùng của lịch sử. Hàng triệu người bắt đầu tập sống theo những phương cách mới. Tuy nhiên không ai biết chính xác xã hội mới sẽ ra làm sao. “Chúng tôi không thể mô tả đặc điểm của chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi không biết, chúng tôi không thể nói chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt đến hình thức hoàn hảo của nó”, Lenin kết luận như vậy vào tháng Ba năm 1918.
Nhưng với họ có một điều rõ ràng: chủ nghĩa xã hội không giống chủ nghĩa tư bản. Chế độ xã hội chủ nghĩa thay thế quyền tư hữu bằng sở hữu tập thể, thị trường thay bằng kế hoạch hóa và các nghị viện “tư sản” thay bằng “quyền lực nhân dân”. Tuy vậy vào thời điểm đó ngay cả một số người cộng sản đã rút ra kết luận là trong thực tế không thể nào thực hiện được kế hoạch hóa khoa học. Còn công cuộc tập thể hóa quyền tư hữu đã đem lại quyền lực không phải cho nhân dân mà cho nhà nước.
Quá trình do người cộng sản phát động đã kéo theo sự bành trướng rộng rãi một guồng máy công an mật vụ để xử lý các vụ bắt bớ, lưu đày trong nước và hành quyết những “kẻ thù giai cấp”. Việc tước quyền sở hữu của các nhà tư bản cũng làm giàu cho một giai cấp mới các cán bộ nhà nước, những người nắm quyền kiểm soát tài sản quốc gia. Tất cả các đảng phái và quan điểm nằm bên ngoài học thuyết chính thống đều bị đàn áp, chính trị như là một cơ chế để điều chỉnh bị xóa bỏ.
Những mục tiêu được tuyên bố của cuộc cách mạng năm 1917 là sự sung túc và công bằng xã hội, nhưng sự tiêu diệt chủ nghĩa tư bản đã sinh ra những cơ cấu làm cho các mục tiêu đó không bao giờ đạt được.
Ở khu vực đô thị, chế độ xô-viết có khả năng dựa vào lực lượng công nhân nhà máy có vũ trang, những người mới kết nạp đảng đầy nhiệt huyết và công an chìm, dựa vào những người trẻ nôn nóng xây dựng thế giới mới. Nhưng ở nông thôn, người nông dân – có khoảng 120 triệu người như vậy – đã thực hiện cuộc cách mạng của riêng họ, lật đổ giới quý tộc và thiết lập trong thực tế quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.
Với một đất nước bị tàn phá đang đi tới bờ vực của nạn đói, Lenin bắt buộc các cán bộ đảng còn miễn cưỡng phải chấp nhận cuộc cách mạng riêng rẽ của nông dân trong thời điểm đó. Ở nông thôn một nền kinh tế gần giống kinh tế thị trường vẫn được cho phép vận hành, bất chấp sự phản đối của các đảng viên cộng sản thuần túy.
Khi Lenin qua đời vào năm 1924, sự nhân nhượng với nông dân đã trở thành vấn đề của Stalin. Cho đến năm 1928, có chưa tới 1% diện tích đất canh tác đã được hợp tác hóa một cách tự nguyện. Vào thời điểm ấy, phần lớn các nhà máy chủ yếu đều đã do nhà nước làm chủ và chính quyền đã cam kết một kế hoạch 5 năm công nghiệp hóa. Các nhà cách mạng bực tức khi thấy giờ đây Liên Xô có hai hệ thống không tương thích với nhau – chủ nghĩa xã hội ở thành phố và chủ nghĩa tư bản ở làng quê.
Stalin đã không trì hoãn. Ông áp đặt công cuộc tập thể hóa cưỡng bức trên toàn quốc, từ ven biển Baltic tới ven bờ Thái Bình Dương, bất chấp những cuộc nổi loạn của quần chúng nông dân. Ông đe dọa các cán bộ đảng, bảo họ rằng nếu như họ không nghiêm túc trong việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, họ hãy chuẩn bị sẵn sàng để giao quyền lực cho những nhà tư sản đang nổi lên ở nông thôn. Ông kích hoạt cuộc chiến tranh giai cấp chống lại “kulak” (trung nông và điền chủ), và bất cứ ai bảo vệ họ, áp đặt hạn ngạch (quota) cho việc bắt bớ tràn lan và lưu đày nội địa.
Stalin nói rõ nguyên lý cơ bản về ý thức hệ của ông: “Chúng ta có thể phát triển nông nghiệp theo kiểu kulak, kiểu nông trại cá nhân, bên cạnh trang trại quy mô lớn” giống như ở “Mỹ và các nước khác” hay không? Ông hỏi. “Không, chúng ta không thể. Chúng ta là đất nước Xô-viết. Chúng ta muốn xây dựng một nền kinh tế tập thể, không chỉ trong công nghiệp mà cả trong nông nghiệp”.
Và ông đã không bao giờ thoái lui, ngay cả khi, do hậu quả các chính sách của ông mà đất nước Nga rơi vào một nạn đói nữa vào các năm 1931-1933. Tập thể hóa cưỡng bức trong mấy năm ngắn ngủi đó đã cướp đi sinh mạng của khoảng từ 5 đến 7 triệu người.
Tiền lệ khủng khiếp của Liên Xô đã không ngăn cản được các nhà cách mạng cộng sản khác. Mao Trạch Đông, một người cứng rắn như Stalin, đã vươn lên vị trí cao nhất của phong trào cộng sản Trung Hoa và vào năm 1949, ông và các đồng chí của ông trở thành người chiến thắng trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc. Mao đã thấy cái giá nhân mạng khổng lồ trong cuộc thử nghiệm của Liên Xô như là yếu tố nội tại của thành công!
Chính sách Đại Nhảy Vọt của Mao, một chiến dịch bạo lực diễn ra từ 1958 tới 1962, là nỗ lực tập thể hóa khoảng 700 triệu nông dân Trung Quốc và mở rộng công nghiệp về nông thôn. “Ba năm lao động cần cù và chịu đựng [để có] ngàn năm thịnh vượng”, là một trong những câu khẩu hiệu nổi bật thời đó.
Các báo cáo sai lệch về những vụ thu hoạch thắng lợi và nông dân sung sướng vui vẻ tràn ngập các khu nhà ở được cung cấp đầy đủ của giới tinh hoa cộng sản cầm quyền ở Bắc Kinh. Nhưng trong thực tế, chương trình của Mao đã dẫn tới một trong những nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử, làm chết đói khoảng từ 16 đến 32 triệu người. Sau thảm họa, mà những người sống sót nói tới như là “làn gió cộng sản”, Mao dập tắt hết những lời kêu gọi ngừng tập thể hóa nông nghiệp. Như ông từng tuyên bố: “nông dân muốn tự do nhưng chúng ta muốn chủ nghĩa xã hội”.
Những mất mát khủng khiếp này vẫn không ngăn chặn được sự lặp lại tính tàn bạo cộng sản nhân danh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sau khi chinh phục được Campuchia vào năm 1975, Pol Pot và phe Khmer Đỏ của ông ta đã đuổi hàng triệu người ra khỏi các thành phố, đẩy họ về nông thôn làm việctrong các công xã và các dự án cưỡng bức lao động. Họ tìm cách biến Campuchia thành một xã hội thuần nông không có giai cấp.
Khmer Đỏ bãi bỏ đồng tiền, cấm đánh bắt cá để kinh doanh, hành quyết các tu sĩ Phật giáo, Hồi giáo; các cộng đồng thiểu số gốc Việt và gốc Hoa của đất nước bị coi là “kẻ xâm nhập”. Chế độ của Pol Pot cũng tập trung trẻ em để ngăn ngừa việc chúng bị lây nhiễm ý thức hệ từ cha mẹ “tư bản” của chúng.
Được biết đã có khoảng 2 triệu người Campuchia, tương đương một phần tư dân số vào thời ấy, đã chết vì đói rét, bệnh tật, bị hành quyết hàng loạt trong bốn năm ác mộng dưới ách cai trị của Pol Pot. Ở một số khu vực, ao chuôm nào đào lên cũng thấy sọ người.
Phân tích về giai cấp của Marx bác bỏ tính chính danh của mọi phong trào chính trị đối lập, không chỉ từ các phần tử “tư sản” mà từ ngay bên trong các phong trào cộng sản – bởi vì những người đối lập phục vụ “một cách khách quan” cho lợi ích của trật tự tư bản quốc tế. Cái lô-gic về cách mạng không ngừng nghỉ chống chủ nghĩa tư bản sẽ chỉ tới một lãnh tụ duy nhất trên đỉnh một hệ thống độc đảng.
Từ Nga tới Trung Quốc, từ Bắc Hàn tới Cuba, các nhà độc tài cộng sản đều chia sẻ những đặc điểm chung chủ yếu. Tất cả đều ít nhiều tuân theo khuôn mẫu của Lenin: một sự pha trộn hệ tư tưởng đấu tranh với những thủ đoạn vô nguyên tắc. Và tất cả đều có sức mạnh ý chí tuyệt vời – điều kiện tiên quyết để thủ đắc những gì chỉ có sự đổ máu không tính nổi mới có thể mang lại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ vừa qua chủ nghĩa cộng sản không phải là tác nhân duy nhất thực hiện các vụ tàn sát. Sự đàn áp của chủ nghĩa quốc xã (Nazi), những cuộc chiến tranh thanh lọc sắc tộc cũng đã giết hại khoảng 40 triệu người. Và trong thời Chiến tranh Lạnh, phong trào chống cộng sản đã kích hoạt những cơn bùng phát bạo động bất ngờ và dữ dội ở Indonesia, châu Mỹ Latinh và nhiều nơi khác.
Nhưng bằng chứng về nỗi kinh hoàng cộng sản nổi lên liên tục trong nhiều thập niên đã gây sốc nặng cho những người cánh tả và theo tư tưởng tự do ở phương Tây, những người cùng chia sẻ nhiều mục tiêu công bằng xã hội của các nhà cách mạng. Nhiều người phản đối Liên Xô đã làm méo mó chủ nghĩa xã hội, và quy những tội ác của chế độ Xô-viết cho tình trạng lạc hậu của nước Nga, cho tính khí của Lenin và Stalin. Dù sao, Marx không bao giờ ủng hộ việc tàn sát hàng loạt hoặc các trại lao động kiểu Gulag. Không tìm đâu thấy ông biện luận rằng công an chìm, trục xuất người trên xe chở súc vật và chết đói hàng loạt là những biện pháp nên dùng để thiết lập các trang trại tập thể.
Nhưng nếu chúng ta phải học có một bài học từ một thế kỷ cộng sản thì đó chính là: để thực thi các lý tưởng của Marx thì cần phải phản bội chúng. Đòi hỏi của Marx “bãi bỏ quyền tư hữu” là tiếng kèn xung trận kêu gọi hành động – nhưng cũng là con đường kiên định dẫn tới sự hình thành nhà nước đàn áp, không bị kiểm soát.
Một số nhà xã hội chủ nghĩa bắt đầu nhận ra rằng, không thể có tự do nếu không có thị trường và sở hữu tư nhân. Khi họ bắt đầu giải hòa với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, hy vọng sẽ điều tiết thay vìxóa bỏ nó, họ bị cáo buộc là những kẻ phản bội. Theo thời gian, ngày càng có nhiều nhà xã hội chủ nghĩa chấp nhận kiểu nhà nước phúc lợi, hoặc kinh tế thị trường có sự phân phối. Nhưng tiếng còi kêu gọi vượt qua chủ nghĩa tư bản vẫn còn vang vọng trong một số người cánh tả.
Những thành trì cố thủ quan trọng của thế kỷ cộng sản vẫn còn tồn tại, dù không theo kiểu Marxist chính thống, ở Nga và Trung Quốc. Cả hai quốc gia này vẫn tiếp tục hoài nghi những gì có lẽ là quan trọng nhất của thị trường tự do và sở hữu tư nhân: khả năng đem lại cho người dân thường sự độc lập trong suy nghĩ và hành động, cho họ quyền theo đuổi những lợi ích của chính họ mà họ thấy phù hợp, trong đời sống riêng tư, xã hội dân sự và không gian chính trị.
Nhưng chống chủ nghĩa tư bản còn được sử dụng như một chương trình thay thế trật tự thế giới bằng một trật tự mới, trong đó những mục tiêu dân tộc chủ nghĩa từ lâu bị đè nén sẽ được hiện thực hóa. Đối với Stalin và Mao, người thừa kế những nền văn minh cổ đầy tự hào, châu Âu và Hoa Kỳ đại diện cho sức cám dỗ và mối đe dọa của một phương Tây siêu việt. Những người cộng sản tự đặt ra cho mình nhiệm vụ phải đuổi kịp và vượt qua các đối thủ tư bản chủ nghĩa và giành cho đất nước mình vị thế trung tâm trên sân khấu quốc tế. Cuộc đấu tranh cách mạng cho phép nước Nga thỏa mãn cái ý thức kéo dài nhiều thế kỷ về sứ mệnh đặc biệt của mình trên thế giới, trong khi nó cho Trung Quốc cơ hội để tuyên xưng một lần nữa là Vương quốc Trung tâm.
Sự chống đối phương Tây của Vladimir Putin, cùng với sự pha trộn đặc thù của ông trong đó niềm hoài vọng về thời đại Xô-viết hòa với sự phục hồi Chính thống giáo Nga, được xây dựng trên tiền lệ của Stalin. Về phần mình, tất nhiên Trung Quốc vẫn là cường quốc cộng sản cuối cùng, ngay cả khi Bắc Kinh quảng bá và cố gắng kiểm soát một nền kinh tế phần lớn là thị trường. Giờ đây, dưới quyền ông Tập Cận Bình, đất nước này vừa đi theo hệ tư tưởng cộng sản vừa khai thác văn hóa truyền thống Trung Hoa trong nỗ lực nâng cao vị thế quốc gia như là một sự thay thế phương Tây.
Thế kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản đã đi tới lúc kết thúc, và chúng ta có thể bày tỏ niềm vui về sự lụi tàn của nó. Nhưng những khía cạnh đáng lo ngại trong di sản của nó thì vẫn còn dai dẳng!
Stephen Kotkin là giáo sư sử học và quan hệ quốc tế đại học Princeton và nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Hoover của đại học Stanford. Cuốn sách mới nhất của ông, “Stalin: Chờ đợi Hitler, 1929-1941” vừa được Penguin Press xuất bản tháng trước.
Nguồn: Viet-studies
Nguyễn Trung - Sau thế kỷ “đỏ” sẽ là thế kỷ “xám”?
Một câu hỏi trong khi nghĩ về 100 năm Cách mạng Tháng Mười và đại hội 19 của ĐCSTQ vừa mới bế mạc
I. Về ảnh hưởng của Cách Mạng Tháng Mười
Thừa nhận những ảnh hưởng sâu rộng toàn cầu của Cách mạng tháng Mười Nga, nhiều báo chí và học giả trên thế giới gọi 100 năm qua là thế kỷ “đỏ”. Đánh giá này trước hết dựa vào những tác động của Cách mạng Tháng 10 đã làm thay đổi sâu sắc diện mạo thế giới và xu thế phát triển của nó với những dấu ấn khác nhau suốt 100 năm qua, mặc dù nước Nga của tổng thống Putin không có lễ kỷ niệm sự kiện này.
Sự thật là:
- CMTM đã diễn ra như một tất yếu lịch sử của sự phát triển ở nước Nga đã đi tới bước khốn cùng và trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang ở đỉnh cao trong cuộc đấu tranh chống lại sự bóc lột tàn tệ của chủ nghĩa tư bản tại thời kỳ này. Cuộc cách mang này mang trong nó những lý tưởng cao đẹp về giải phóng con người, hứa hẹn khả năng mở ra một con đường phát phát triển mới đầy hy vọng, vì lẽ này nó được coi như mùa xuân của nhân loại, đã cổ vũ nức lòng trào lưu tiến bộ trên thế giới. Những người chống lại quan điểm này gọi CMTM là một cuộc đảo chính bôn-xê-vich!
- Xuất hiện cường quốc XHCN Liên Xô với tính cách là một trong những yếu tố quyết định cùng với các lực lượng đồng minh đánh bại các thế lực phát xít trong chiến tranh thế giới II.
- Tạo ra sự hình thành hệ thống thế giới XHCN - trong đó có sự ra đời của CHND Trung Hoa - đối kháng với hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, làm xuất hiện cục diện chiến tranh lạnh I với nội dung “2 phe 4 mâu thuẫn”.
- Thúc đẩy và hậu thuẫn mạnh mẽ phong trào giành độc lập dân tộc của các nước thế giới thứ ba - qua đó góp phần quan trọng vào việc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thuộc địa. Trong quá trình phát triển này chủ nghĩa đế quốc với nội hàm cổ điển coi như đã cáo chung,
- vân vân...
Cùng với những thay đổi tự thân tất yếu trong quá trình phát triển cũng như trong quá trình tham gia toàn cầu hóa của các nước phương tây - đứng đầu là Mỹ, sự xuất hiện hệ thống thế giới XHCN đã góp phần nhất định vào những thay đổi ở các nước phương Tây với những nội dung như: khắc phục ở mức có thể những khuyết tật của hệ thống tư bản chủ nghĩa, chuyển sang giương cao ngọn cờ tự do - dân chủ - nhân quyền và ngọn cờ toàn cầu hóa, tham gia vào và đẩy mạnh cuộc đấu tranh “ai thắng ai?” do phe XHCN đề xướng giữa hai con đường XHCN và TBCN trong chiến tranh lạnh...
Có thể sẽ không phải là quá lời nếu nói rằng: Trong suốt thời kỳ này các nước phương Tây đã có những thay đổi theo hướng tự hoàn thiện và nâng cao khả năng cạnh tranh của chính mình để thích nghi với cục diện quốc tế ở thời kỳ này. Một phần đáng kể những thay đổi này đã chịu những tác động nhất định trực tiếp hoặc gián tiếp từ hệ thống thế giới XHCN - rõ nét nhất là những diễn biến trong khoảng thời gian này đã làm xuất hiện và cuối cùng là đã làm mất đi chủ nghĩa thực dân mới của các nước phương Tây, vì phương thức này đã trở thành “đồ cổ” trong cục diện mới của thế giới đương thời. Có lẽ cũng không sai nếu cho rằng CNTB đã học được nhiều điều và khai thác được đáng kể những khuyết tật của hệ thống thế giới XHCN; đến lượt nó - chủ nghĩa tư bản, đã tích cực tham gia hoặc tạo ra được những ảnh hưởng / tác động vào quá trình làm sụp đổ hệ thống thế giới XHCN. Tuy nhiên trước sau vẫn phải nhấn mạnh: Sự sụp đổ của các nước Liên Xô - Đông Âu trước hết và chủ yếu là do các nguyên nhân tự thân bên trong của những quốc gia này.
Như một quy luât khách quan, sau khi tận dụng hết khả năng trong nước phát triển theo chiều rộng, hệ thống chính trị của các nước LXĐÂ đứng trước hai thách thức cơ bản không vượt qua nổi:
(a) Hệ thống chính trị ra đời từ bạo lực cách mạng và chiến tranh, nhưng trong quá trình phát triển sau đó của đất nước trong thời bình dần dần hệ thống này đã bộc lộ nguyên hình và hoành hành trọn vẹn với tính cách là chế độ toàn trị với nhiều hệ quả rất nghiêm trọng - bao gồm cả những tội ác khủng khiếp - cho chính những quốc gia này cũng như cho thế giới còn lại;
(b) Sự phát triển theo chiều rộng của nền kinh tế kế hoạch hóa và bao cấp đã đi tới ngưỡng ách tắc và tất yếu đổ vỡ.
Ngoài ra còn phải kể đến một loạt những nguyên nhân lịch sử và chính trị sâu xa không thể hàn gắn được trong các mối quan hệ giữa một bên là Liên Xô và một bên là các nước XHCN đông Âu, và sức ép cạnh tranh giữa 2 hệ thống thế giới đã tới mức không chịu đựng nổi. Trong khi đó ngay từ rất sớm CHNDTH đã tách ra tranh giành ngọn cờ lãnh đạo của Liên Xô.
Tất cả những lý do nêu trên giải thích sự sụp đổ tất yếu của các nước LXĐÂ.
Thừa nhận như trên, còn phải thừa nhận những diễn tiến khác của thế kỷ “đỏ”:
- Cách mạng Tháng 10 đã phá bỏ được chế độ Nga hoàng, nhưng không thể thực hiện được những lý tưởng và giá trị cao đep mang tính xã hội chủ nghĩa đã tạo ra chính cuộc cách mạng này. Bởi vì bạo lực cách mạng chỉ có thể xóa bỏ được chế độ sa hoàng thối nát không còn lý do để tồn tại. Nhưng bạo lực cách mạng không thể mang lại cho Liên Xô chủ nghĩa xã hội theo những lý tưởng đã viết trên lá cờ cách mạng của nó, cho dù nước Nga trong giai đoạn ban đầu này đã tạo ra được những “thần kỳ” (miracles) nào đó - bao gồm cả sức mạnh đánh bại phát xít Đức và Nhật trong chiến tranh thế giới II - và với những cái giá đã phải trả đắt như thế nào! Sau khi khai thác hết những nguồn lực có thể huy động được của thời kỳ đầu, chế độ toàn trị của Liên Xô - ra đời tư bạo lực của Cách mạng Tháng 10 và chiến tranh - cuối cùng đã không thể mang lại cho Liên Xô sự phát triển mới lẽ ra phải có. Cách mạng Tháng 10 với sự sụp đổ sau này của Liên Xô nói riêng và của các nước XHCN Đông Âu nói chung cho thấy xây dựng một xã hội mới với những giá trị mới phải là kết quả và thành quả của phát triển, chứ không thể đơn thuần là làm cách mạng và dựa vào bạo lực của quyền lực mà có thể tạo ra được. Thực ra trước đó Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã chứng mình thực tế quyết liệt này như một quy luật tất yếu, (tìm hiểu thêm vấn đề: “cách mạng ăn thịt những đứa con của mình” của cuộc Cách mạng này).
- Hoàn toàn không thể có chuyện sự sụp đổ của Liên Xô chỉ là thất bại của chủ nghĩa xã hội mô hình xô viết. Bởi vì kết luận như thế, ắt dẫn tới những câu hỏi: Vậy mô hình đúng của chủ nghĩa xã hội là gì? Mô hình này đã có ở đâu trên trái đất này?.. Ai trả lời được?.. Thậm chí còn phải quay lại những câu hỏi kinh điển cũ không dễ gì trả lời, ví dụ: Thế nào là chủ nghĩa xã hội? theo định nghĩa nào? chủ nghĩa hay và ý thức hệ nào?.. CNXH nên được hiểu là mục tiêu, là những giá trị cần đạt được do những thành quả của phát triển đem lại, hay là phương tiện? là con đường?.. Có hay không một CNXH như một thể chế chính trị gắn với ý thức hệ Mác - Lênin như thế?..
Sự phát triển của các nước Bắc Âu đang được cọi là “CNXH hiện thực” hiện nay của trào lưu dân chủ xã hội, nhưng chủ nghĩa dân chủ xã hội đã bị chính Quốc tế III (Comintern, 1919...) và CNML lúc đương thời bác bỏ, không thể coi nó cũng là một sản phẩm của thế kỷ “đỏ”, nên xin dành cho một dịp bàn luận khác.
- Vân vân...
Song sự sụp đổ của các nước LXĐÂ đã cho phép kết luận: CNXH được xây dựng theo ý tưởng và phương thức ra đời từ CMTM trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin (như đang định hình là nền tảng tư duy của ĐCSVN) đã tự chứng mình là ảo tưởng, tất yếu thất bại. Nên coi thất bại này - cũng là một sản phẩm rất quan trọng của thế kỷ “đỏ, vì đấy là bài học nhiều quốc gia đã phải trả giá đắt, ngay nay rất cần biết tới trong tư duy và trong những quyết định mới cho hiện tại và tương lai. Trước hết đấy cũng là bài học lớn và đã phải trả giá đắt của chính nước ta trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc suốt 42 năm độc lập - thống nhất vừa qua. Cuộc sống trên thế giới trong suốt thời gian 100 năm sau CMTM đã khẳng định: Để giành được những tiến bộ xã hội đáng mong muốn, nhất thiết phải thông qua con đường tạo ra phát triển mà văn minh nhân loại đã tổng kết.
Thuộc về thế kỷ “đỏ” này, còn phải kể đến những tàn dư nó để lại với không ít hệ lụy cho đến hôm nay trong nhiều nước thuộc thế giới thứ ba đã từng có các phong trào “cánh tả”, cho dù những phong trào này mang tên gọi là gì và nhuốm mầu sắc chính trị nào, nhất là các phong trào cánh tả “mao-ít”.
Song trong khoảng gần ba thập niên cuối cùng của thế kỷ “đỏ” này - nghĩa là sau khi các nước LXĐÂ sụp đổ, không hề có một biểu hiện nào xảy ra trên thế giới cho phép kết luận tiến lên CNXH (như đang được hiểu theo ý thức hệ của CNML) là xu thế tất yếu của xã hội loài người. Trong khi đó lại đang diễn ra một xu thế khác rất đặm nét của tính “chế độ toàn trị”, đang chi phối sâu sắc sự phát triển của thế giới hiện tại, đó là:
- Từ sự sụp đổ của Liên Xô XHCN - cái nôi của CMTM - đang dần dần trỗi dậy trở lại đế chế Nga vóc dáng kiểu sa hoàng dưới thời Putin hiện nay;
- và từ CHNDTH xã hội chủ nghĩa đặc sắc TQ, một đế chế Trung Hoa đang trên đường phục hưng với giấc mộng Trung Hoa.
II. Chẳng lẽ sau thế kỷ “đỏ” sẽ là thế kỷ “xám”?
Vâng, sau thế kỷ “đỏ” có thể sẽ là thế kỷ “xám”!?..
Đấy là ý nghĩ ngay tức khắc của tôi, sau khi thấy thiên hạ đưa ra khái niệm thế kỷ “đỏ” trong bàn luận về 100 năm Cách mạng Tháng Mười. Nhất là ít lâu nay đó đây trên thế giới đã có ý kiến coi thế kỷ 21 là của Trung Quốc.
Sự thật suy nghĩ trên là một phản sạ tự nhiên rất tiêu cực trong tôi, trước hết[1] xuất phát từ những kinh nghiệm cay đắng trong quan hệ của nước ta với TQ trên chặng đường kể từ hội nghị Geneva 1954 về Đông Dương cho đến hôm nay. Chặng đường này có nhiều cột mốc đau khổ, thậm chí không hiếm những chặng đường vô cùng đẫm máu cho nước ta, rồi còn biết bao nhiêu sự can thiệp khác nữa vào nước ta của quyền lực rắn và quyền lực mềm “made in China”... Rồi còn biên giới / biển đảo của nước ta bị xâm phạm, đất nước đang bị uy hiếp, trên thực tế đang bị bao vây chiến lược, sự lệ thuộc nguy hiểm chưa có lối ra...
Chặng đường đau khổ này tất cả mọi người đều biết, xin miễn kể lại tại đây... Người Việt nào có thể nhắm mắt trước sự thật nghiêm trọng này? Tôi cũng vậy, mặc dù không lúc nào tôi ngừng suy nghĩ, gạn đục khơi trong, cố níu kéo những điều tốt đẹp đã có, ngày đêm hì hục đi tìm con đường xây dựng mối quan hệ hữu nghị thật, hợp tác thật không thể thiếu giữa nước ta và nước láng giềng khổng lồ này.
Đại hội 19 của ĐCSTQ không làm cho cảm nghĩ tiêu cực nêu trên của tôi mất đi. Thật lòng thì phải nói: Đại hội 19 của ĐCSTQ với kết cục như chúng ta đã biết, đang tăng thêm sự lo lắng trong tôi, vì hai lẽ:
1. TQ kể từ thời Đặng Tiểu Bình đã và đang trở thành vấn đề của cả thế giới chưa có lời giải; sau đại hội 19 thách thức này đối với cả thế giới càng gia tăng, trước hết là cho các nước láng giềng, trong đó có nước ta.
2. Không thể nói đất nước ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho đối mặt với mọi vấn đề của cục diện thế giới đã sang trang hôm nay đang thách thức nước ta, trong đó trước hết là những vấn đề xuất phát từ đế chế Trung Hoa trên đường phục hưng đang trực tiếp đặt ra cho nước ta.
III. Về cái thế kỷ “xám”
Có thể nói lịch sử đế chế Trung Hoa với bản sắc văn hóa và chính trị đã kiến tạo ra nó là liên tục cho đến hôm nay, ngoại trừ khoảng một thế kỷ gián đoạn kể từ khi xảy ra chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (1839 - 1842). Nguyên do của sự gián đoạn này là thế giới từ lâu đã chuyển sang thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, trong khi đế chế trung tâm này (Trung Quốc) vẫn còn đang ngủ. Khi CHNDTH ra đời năm 1949, đế chế này đã tức khắc thức dậy, cho dù nó khoác trên mình chiếc áo cộng sản.
Ngay từ lúc còn thân cô thế cô trong thời Mao, đế chế thức dậy này đã ấp ủ khát vọng “gió Đông thổi bạt gió Tây”, thực hiện những chiến dịch phát triển cuồng vỹ với nhiều tội ác đẫm máu cho theo đuổi khát vọng bá vương, xử sự với thế giới bên ngoài theo phương châm “thiên hạ đại loạn, Trung quốc đại trị!”, “mục tiêu biện minh cho biện pháp”...
Mao thất bại vì quá vỹ cuồng, song đế chế thức dậy này kể từ thời Đặng Tiểu bình cho đến hôm nay đã tìm ra được con đường phục hưng của nó: Nương vào sự vận động của thế giới, đem toàn lực và lợi thế nước đông dân số 1 thế giới để trở thành công xưởng của thế giới, khai thác như vơ vét triệt để quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới đang ở thời kỳ cao trào theo cách có lợi nhất cho Trung Quốc.
Quá trình phát triển nêu trên khởi đầu từ quan điểm chiến lược “dò đá qua sông”, “giấu mình chờ thời” trong thời Đặng, rồi đến chặng đường “trỗi dậy hòa bình”... Với nền kinh tế có quy mô lớn thứ 2 thế giới và là một thị trường mà kinh tế thế giới không thể bỏ qua, quyền lực mềm của Trung quốc đã luồn sâu đáng kể tại không ít quốc gia trên thế giới, đồng thời chủ nghĩa thực dân mới của Trung Quốc đã bỏ xa chủ nghĩa thực dân mới của các nước tư bản thời sau chiến tranh thế giới II... Ngoài những căn cứ quân sự xây trên các đảo Trung quốc lấn chiếm trên Biển Đông, thiết lập vùng cấm bay trên biển Hoa Đông, Trung Quốc đã thuê được căn cứ quân sự ở Djibouti (châu Phi), sẽ mở tiếp ở Pakistan, đã tăng cường ảnh hưởng ở nhiều nước châu Phi, là nhân vật số 1 của diễn đàn BRICS (khối các nước nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới).., v... v... Hơn nữa nhiều thể chế và định chế là rường cột làm nên trật tự kinh tế và chính trị hiện hành của thế giới đã và đang bị Trung Quốc và phương thức phát triển của nó làm méo mó hoặc bị lũng đoạn đáng kể.
Trong khi đó việc các cường quốc phương tây xây dựng “luật chơi” mới nhằm thay đổi xu thế vận động này của Trung Quốc không thành công. Mọi nỗ lực của Mỹ và phương Tây muốn lôi kéo Trung quốc cùng đi với mình để trở thành một cường quốc có trách nhiệm đối với thế giới, hoặc muốn kiềm chế Trung Quốc, đều thất bại.
Bằng những chiến lược thực dụng khác nhau qua từng thời kỳ phát triển, GDP per capita của Trung quốc năm 1978 (khi bắt đầu đổi mới theo quan điểm “mèo trắng, mèo đen...”) là 200 USD, hiện nay đạt khoảng 8000 USD, tăng gấp 40 lần, trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 sau Mỹ, không xa sẽ vượt qua quy mô của Mỹ. Hiển nhiên khó tìm ra được một nước nào trong một khoảng thời gian ngắn lịch sử khoảng 4 thập kỷ đã có thể làm được như vậy để so sánh.
Không thể nói khác: Đế chế thức dậy này của nước 1,3 tỷ dân đã đi được một chặng đường dài trên con đường phục hưng của nó, đang trở thành một nhân tố chi phối theo cách của nó sự phát triển của thế giới. Nói thế giới hôm nay chưa có giải pháp nào hữu hiệu cho “Frankenstein Trung Quốc” chính là vì những lẽ này.
Hôm nay, với tiềm lực kinh tế và quân sự đã đạt được trong tay, đế chế này qua diễn văn khai mạc đại hội 19 của Tập Cận Bình (18-10-2017), đã trân trọng tuyên ngôn trước toàn thế giới mục tiêu sẽ trở thành lãnh đạo thế giới, bằng nền kinh tế sẽ đứng đầu thế giới, với lực lượng quân sự sẽ vượt lên hàng đầu thế giới, với chiến lược “một vành đai, một con đường” là công cụ kinh tế và chính trị hỗ trợ sự thực thi... Tất cả được gói ghém trong “giấc mộng Trung Hoa”, trên nền tảng tư tưởng Tập cận bình đã được đưa vào Điều lệ ĐCSTQ, với sự xác lập đảng là số một quân đội là số hai dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối của một lãnh tụ duy nhất được xếp ngang với Mao hoặc thậm chí vượt Mao, được dẫn dắt dưới lá cờ của CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.
Tôi nghĩ, nên vượt lên trên mọi suy nghĩ cảm tính để nhìn thẳng vào sự thật: Trong trò chơi tranh giành quyền lực (games of power), tuyên ngôn này là sự lựa chọn có lý và cần thiết ở thời điểm này cho Trung Quốc trên con đường phục hưng vai trò đế chế của nó. Điều này còn hàm nghĩa với những rối loạn hiện thời, cục diện thế giới đã sang trang hôm nay đang mang lại cơ hội nhất định cho sự lựa chọn như vậy. Thậm chí đây còn là sự lựa chọn duy nhất có thể để Trung Quốc thoát khỏi nguy cơ tan rã trong thế giới toàn cầu hóa hôm nay và nhất quyết không bỏ lỡ cơ hội phục hưng đế chế sờ thấy được trong cục diện quốc tế hiện đang rối loạn này. Nghĩa là một sự lựa chọn chớp thời cơ, vượt nguy cơ ách tắc và tan rã bên trong, tập trung quyền lực cao nhất, quyết đẩy Trung quốc lên phía trước, tất cả thể hiện không thể hiểu nhầm trong khẩu khí vừa hoành tráng vừa đe dọa trong suốt toàn bài diễn văn hơn 3 tiếng đồng hồ!.. Đấy là sự lựa chọn rất quyết liệt chưa từng có của trí tuệ và ý chí của giới tinh hoa trong truyền thống đế chế Trung quốc cho Trung Quốc, nó khác hẳn với những gì rối bời đang diễn ra trong giới cầm quyền ở Mỹ! Sức nặng của mọi vấn đề mà thế giới nói chung và nước ta nói riêng sẽ phải chịu đựng trong đối mặt với đế chế Trung Quốc trên đường phục hưng nằm trọn vẹn trong sự lựa chọn này và khả năng thực thi nhất định của nó.
Đương nhiên, giữa khát vọng giấc mộng Trung Hoa dù được thiết kế tinh khôn như thế nào và thực tế của đời sống thế giới luôn luôn có khoảng cách, rộng hẹp ra sao còn tùy diễn biến của thời cuộc quốc tế. Điều chắc chắn “giấc mộng Trung Hoa” vừa là khát vọng phục hưng đế chế, vừa là một dilemma đời đời của Trung Quốc. Bởi chưng không tập quyền cao độ thì tan rã, đổ vỡ và không phát triển, không đẩy Trung Quốc lên được. Nhưng càng tập quyền nguy cơ đổ vỡ càng gia tăng. Đổ vỡ thời Mao đã minh chứng điều này. Những giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa Trung Quốc và sự hình thành cùng với lẽ tồn tại của quốc gia đế chế này tạo ra cái dilemma cố hữu này, có thể nói cố hữu tới mức như là trời buộc, ngoại trừ cho đến khi có sự thay đổi đột biến nào đó! Đây là nhược điểm, đồng thời cũng là chỗ yếu căn bản của đế chế Trung Hoa. Đặc tính này có thể gây khó / dễ cho thế giới, nhiều hay ít tùy diễn biến và phản ứng của thế giới. Chính đặc tính này khiến nó không có khả năng, không có lợi ích trở thành một cường quốc có trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Do đó khát vọng vai trò lãnh đạo thế giới sẽ chỉ là một loại thuốc không thể thiếu cho kích thích tinh thần người dân Trung Quốc nhiều hơn là một khả năng hiện thực. Chưa nói đến sự phát triển trên thế giới ngày nay đã đi rất xa không còn chỗ cho một sự lãnh đạo như thế.
Song mối nguy hiểm lớn nhất của “giấc mộng Trung Hoa” đối với thế giới bên ngoài nằm ở chỗ tính mỵ dân của nó kích thích chủ nghĩa dân tộc nước lớn trong tâm lý nhân dân Trung Quốc ở tầm ảnh hưởng và sự tác động lớn chưa từng có, nhất là tại quốc gia này vốn dĩ có truyền thống lịch sử và văn hóa từ ngàn xưa nuôi dưỡng tâm lý dân tộc nước lớn, trước hết là trong đối xử với các nước láng giềng nhỏ yếu hơn... Xin đừng quên nhân dân hai nước Đức và Nhật đã bị đẩy vào chiến tranh thế giới II như thế nào!
Cục diện thế giới hôm nay còn đậm lên một vấn đề thời sự mới khác trước: Trong mối quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ, Trung, Nga với tính cách là những diễn viên chính trên sân khấu tranh giành quyền lực thế giới, dù xảy ra xung đột cục bộ ở bất kỳ đâu, hoặc đạt được thỏa hiệp nào với nhau cho bất kỳ vấn đề gì trên thế giới này, đều có thể làm cho một khoảng trống quyền lực nào đó dưới một dạng nào đó còn đang tồn tại ở khu vực Biển đông càng trở nên “trống rỗng” thêm (more emptier), các nước trong khu vực sẽ lĩnh đủ.
Nhân đây cũng xin lưu ý, trong diễn văn tại đại hội 19, tư tưởng Tập Cận Bình có một nội dung chủ ý nhấn mạnh đến chủ nghĩa Mác đã được Trung Quốc hóa và CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới như một phát kiến mới về lý luận và ý thức hệ để tiếp tục dẫn dắt Trung Quốc trên con đường thực hiện giấc mộng Trung Hoa. Đây là một món ăn tinh thần mới, không thể thiếu trong thực đơn của giới tinh hoa trong truyền thống đế chế Trung Quốc chuẩn bi cho nhân dân Trung Quốc, để giữ mộng và xây mộng. Người nước ngoài như chúng ta không có phần trong bữa tiệc này. Nếu tham ăn cố tình dự tiệc, sẽ có thể bị ngộ độc thực phẩm. Chỉ có 6 âm tiết thôi “trung, quốc, hóa, thời, đại, mới”, nhưng đủ nói lên tất cả, không thể “trệch hướng” vào đâu được, và đủ để cho lãnh đạo Trung Quốc tùy nghi vận dụng, cho đối nội cũng như cho đối ngoại. Thực là tài quá! Giỏi quá!.. Là người có khuyết tật hay viết dài, tôi bái phục thừa nhận đây là bậc thầy của sử dụng ngôn từ. Lại tự nhủ mình phải đọc hay nghe những âm tiết này bằng kinh nghiệm.
Tôi nghĩ, không nên võ đoán hoặc suy nghĩ theo thành kiến về hiện tại hay tương lai, để không một giây phút rời tai rời mắt đối với mọi diễn biến tốt / xấu của hiện tại và tương lai. Càng không nên để cho thần hồn nát thần tính. Nhưng cũng xin đừng bao giờ xem thường kinh nghiệm đã tích lũy được. Nhìn lại 40 năm qua, thú thực nhiều lúc tôi có cảm nghĩ sự lớn mạnh của một Trung Quốc bá vương cho đến nay cứ ngày một ngày hai liên tục lừng lững như một con lũ không gì cản được, nhất là tại khu vực Đông Nam Á này, và ảnh hưởng của nó, nhất là sự tham gia của quyền lực mềm Trung Quốc theo kiểu mỗi tình huống đều là một cơ hội “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, đã gây ra nhiều điều xám xịt trên thế giới những thập kỷ vừa qua, và ngay cả trên nước ta, với nhiều hệ quả lâu dài trùng điệp thiên la địa võng.., trong đó có sự lệ thuộc đang rất khó gỡ của nước ta. Cái cảm giác thế kỷ “xám” của tôi bắt nguồn từ đây.
Không thể không suy nghĩ về cái thế kỷ “xám” có thể này, trước mắt là cho những năm tới, cho một vài thập kỷ tới.
IV. Lời kết
Mối nguy lớn nhất đối với một quốc gia cũng như một con người không phải là chính bản thân mối nguy ấy - dù là nội dung hay kích cỡ mối nguy ấy như thế nào, mà là sự nhắm mắt trước mối nguy ấy vì bất kỳ lý do nào. Nếu đấy là sự nhắm mắt do khiếp đảm, hoặc do lẩn tránh sự thật, cũng đều đồng nghĩa với tự nộp mạng cho mối nguy ấy.
Như đã nhận đinh bên trên: Không thể nói đất nước ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho đối mặt với mọi vấn đề của cục diện thế giới đã sang trang hôm nay đang thách thức nước ta, trong đó trước hết là những vấn đề xuất phát từ đế chế Trung Hoa trên đường phục hưng đang trực tiếp đặt ra cho nước ta.
Từ chỗ đất nước ta không được chuẩn bị sẵn sàng như vậy đến chỗ “nhắm mắt” cách nhau bao xa? Hay là sự không sẵn sàng này chính là hiện tượng đang nhắm mắt?..
Xin coi hỏi như thế là nhiệm vụ vô cùng nghiêm trọng cho từng người dân Việt Nam, song trước hết là cho ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo của nó, để quyết định thái độ và hành động.
Với quyền lực nắm trọn vẹn vận mệnh đất nước trong tay, trách nhiệm chuẩn bị mọi mặt cho đất nước sẵn sàng với cái thế kỷ “xám” này duy nhất đặt lên vai ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo của nó. Đảng sẽ có công hay tội đối với đất nước hoàn toàn tùy thuộc vào thực thi thành công hay thất bại, hay lẩn tránh trách nhiệm ràng buộc này. Ngay bây giờ Đảng phải tự hỏi mình: Hiện nay Đảng không sẵn sàng, hay chưa đủ sẵn sàng, hay đang nhắm mắt?!
Mở mắt nhìn thẳng vào sự thật, khó khăn nào cũng có lối ra, trước hết để xác lập nhận thức và ý chí phải có, tạo ra sức mạnh đồng thuận của cả nước đưa đất nước ra khỏi những khó khăn hiện nay, có thực lực và bản lĩnh đối mặt với cái thế kỷ “xám”. Đây còn là con đường giành lấy và xây dựng hữu nghị thật, hợp tác thật nước ta không thể thiếu trong quan hệ với Trung Quốc, phải cùng đi với cả thế giới mà giành lấy. Mọi liều thuốc giả đều là tự sát, dù tên gọi của nó là gì, “đại cục”, “tương giao”, “tương đồng”.., dù bằng các liệu pháp trấn áp, cấm đoán, dùng đội ngũ dư luận viên, phát triển hội cờ đỏ...
Cũng xin nhắc lại một lần nữa: ĐCSVN không phải là hay giống như ĐCSTQ, nhiệm vụ chính trị của nó đối với quốc gia Việt Nam hoàn toàn khác với nhiệm vụ này của ĐCSTQ đối với Trung Quốc, như nước khác với lửa, như ngày khác với đêm. Một bên là làm cho đất nước có thực lực, ý chí và bản lĩnh trở thành láng giềng được tôn trọng, một bên là phục hưng đế chế trung tâm thiên hạ. Trong cái thế kỷ “xám” này Việt Nam trước sau vẫn là cái đích của đế chế Trung Hoa trên đường phục hưng./.
Nguyễn Trung
Hà Nội, Võng Thị, ngày 06 tháng 11 - 2017
[1] Xin nhấn mạnh như thế để tập trung chỉ nói về quan hệ VN-TQ, những vấn đề quan hệ quốc tế khác của Việt Nam không bàn trong bài này.
Tác giả gủi cho viet-studies ngày 6-11-17
(Viet-studies)
Xem thêm:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét