06/01/2018 - 13:00
Bài liên quan của Phạm Viết Đào.
TTH - Tất nhiên đây là chuyến du Xuân năm trước. Tuy vậy, một sự ngẫu nhiên thú vị là khi tôi đang viết những dòng này thì đúng 80 năm trước, chàng thanh niên 18 tuổi Nguyễn Kim Thành (tên thật của nhà thơ Tố Hữu) sáng tác những bài thơ đầu tay, về sau in trong tập “Từ ấy”...
Nơi đây, cội nguồn đầu tiên của “hồn thơ” Tố Hữu
Về Quảng Thọ (Quảng Điền), đến nhà cụ thân sinh nhà thơ Tố Hữu, tôi thoáng chút ngần ngại đứng lặng bên hai bụi “cán giáo” (loại tre cây nhỏ, thẳng tắp) sum suê dựng thành vòm cổng xanh um trước khu vườn. Dè dặt và chậm rãi, tôi đi qua lối nhỏ giữa khu vườn các loại rau. Căn nhà ngói thấp bé vắng ngắt, một lát mới có một phụ nữ đã đứng tuổi từ phòng trong ra tiếp. Cả chủ và khách đều thoáng chút bỡ ngỡ. Tôi xưng danh và xin được thắp hương lên bàn thờ. Được biết, người chủ căn nhà này gọi nhà thơ Tố Hữu bằng chú. Ông đang đi chơi hàng xóm.
Chị chủ nhà kể qua và có ý phàn nàn là căn nhà xập xệ, ngói dột, tường nứt, nhưng chưa có ai lo… Tôi không tiện hỏi kỹ vì e có điều “tế nhị”. Nhà Lưu niệm Tố Hữu thì đã được khánh thành từ tháng 10/2009, trong khuôn viên gia đình nhà thơ tại Làng Quốc tế Thăng Long (Cầu Giấy - Hà Nội). Cho dù vậy, trước khi rời cái “cổng xanh” kết bằng lá tre sum suê, ngoái lại nhìn căn nhà vắng lặng khuất phía trong, lòng tôi cứ có chút băn khoăn, bỗng nhớ đến những câu thơ da diết của Tố Hữu viết về quê hương:
Chị chủ nhà kể qua và có ý phàn nàn là căn nhà xập xệ, ngói dột, tường nứt, nhưng chưa có ai lo… Tôi không tiện hỏi kỹ vì e có điều “tế nhị”. Nhà Lưu niệm Tố Hữu thì đã được khánh thành từ tháng 10/2009, trong khuôn viên gia đình nhà thơ tại Làng Quốc tế Thăng Long (Cầu Giấy - Hà Nội). Cho dù vậy, trước khi rời cái “cổng xanh” kết bằng lá tre sum suê, ngoái lại nhìn căn nhà vắng lặng khuất phía trong, lòng tôi cứ có chút băn khoăn, bỗng nhớ đến những câu thơ da diết của Tố Hữu viết về quê hương:
“Huế ơi! Quê mẹ của ta ơi!
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín, mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Không phải là tất cả, nhưng chính quê hương với tiếng mẹ ru, với sông núi, mây gió, với tiếng hò man mác… mới là nguồn cội khơi dậy sáng tạo nghệ thuật. Có lẽ vì vậy mà Khu Di tích thi hào Nguyễn Du được xây dựng bên sông Lam. Chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế cũng đã từng về thăm Nhà lưu niệm Nam Cao tại làng Đại Hoàng (huyện Lý Nhân, Hà Nam) quê hương Nam Cao) và Nhà lưu niệm Nguyễn Bính tại làng quê Thiện Vịnh (huyện Vụ Bản) để thấy tận mắt nơi từng có vườn chuối và cái lò gạch “của Nam Cao” và những dậu mồng tơi “của Nguyễn Bính”…
Nói điều này, chẳng phải để đề nghị xây dựng Nhà Lưu niệm nhà thơ Tố Hữu tại làng Phù Lai, khi nhà lưu niệm ông đã có ở Hà Nội; tuy vậy, lòng tôi vẫn có chút chi đó không yên trước một “khoảng trống” không có dấu tích gì của Tố Hữu, ngay chính tại quê nhà. Quê hương - nguồn cội, đâu nhất thiết phải là nơi ta sống nhiều năm; mà mỗi con người gắn bó, được nuôi dưỡng bởi quê hương với rất nhiều nguồn mạch vô hình, đa dạng và có thể nói là thiêng liêng.
Trước thềm Xuân 2018, gặp một vị lão thành từng công tác ở Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, quê ở Quảng Thọ, ông cho biết có đồng chí lãnh đạo tỉnh vừa nói với ông rằng, năm 2020 sắp tới là kỷ niệm tròn 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu, không biết có nên tính tới việc xây Nhà lưu niệm ở quê không? Con cháu nhà thơ thì ở xa, trao đổi với huyện Quảng Điền, UBND huyện cũng chưa biết làm sao…
Vậy ra không chỉ riêng tôi có chút băn khoăn về “khoảng trống” lưu niệm nhà thơ nổi tiếng ở quê nhà. Có thể đây sẽ là nội dung của một cuộc họp sắp tới để tìm ra một “phương án” tối ưu. Tôi bỗng hình dung đó sẽ là một phương án tốn ít tiền của nhất, giản dị, nên thơ và gần gũi với mọi người, đúng theo tinh thần mấy câu thơ cuối cùng của nhà thơ.
Xin tạm biệt đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đường, tro bón đất
Sống là cho và chết cũng là cho.
Và tôi tưởng tượng mùa Xuân hai năm nữa, du khách sau khi thăm Nhà trưng bày Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ra cổng, sẽ thấy tấm biển chỉ dẫn “Đường đến nơi tưởng niệm nhà thơ Tố Hữu”; và bên cái “vòm cổng tre xanh” được giữ nguyên như cũ, có tấm biển ghi đại ý: “Nơi đây, cội nguồn đầu tiên của hồn thơ Tố Hữu”; bên trong khu vườn, các em học sinh Quảng Thọ đang chăm hoa và cây cảnh; có thể xen kẽ với cây cảnh, hoa là những bảng khắc một số câu thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu; còn căn nhà “xập xệ” đã được “trùng tu” có thể dành một phòng hay xây thêm một phòng nhỏ để treo một số ảnh đặc sắc về cuộc đời nhà thơ và đặt tủ sách trưng bày đầy đủ thi phẩm của Tố Hữu và các sách báo, các luận án viết về sự nghiệp của ông…
Một “công trình” như thế, có lẽ không cần dùng đến ngân sách Nhà nước. Mấy năm trước, chỉ một mình nhà thơ Ngô Minh “kêu gọi”, hàng trăm người yêu thơ Phùng Quán đã góp được mấy trăm triệu đồng, xây khu mộ khang trang cho cả hai vợ chồng nhà thơ trên một khu đồi rất đẹp của quê hương ông, huống chi là “chủ tướng” nền thi ca cách mạng Tố Hữu.
Nguyễn Khắc Phê
6-2-1955
Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006.
Nguồn:
1. Gió lộng, NXB Văn học, 1961
2. Thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, 2003
Quê mẹ |
Gởi Huế yêu
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi...
Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương!
Mái nhì man mác nước sông Hương
Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường!
Ôi những đêm xưa, tối mịt mùng
Con nằm bên mẹ, ấm tròn lưng
Ngoài hiên nghe tiếng giày đi rỏn
Mẹ bấm con im: Chúng nó lùng
Con hỏi vì sao chúng nó tìm
Tìm ai, con hỏi, mẹ rằng: Im!
Mẹ ơi, đời mẹ buồn lo mãi
Thắt ruột mòn gan, héo cả tim
*
Mẹ không còn nữa, còn đây Huế
Con lớn lên, con biết lẽ rồi:
Nước mất nhà tan, đời khổ thế
Không làm nô lệ đứng lên thôi!
Con lớn lên, con tìm Cách mạng
Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi
Mẹ không còn nữa, con còn Đảng
Dìu dắt con khi chửa biết gì.
Huế không buồn nữa, Huế ta ơi
Mắt ướt trăm năm đã hé cười
Nghìn mảnh tương lai về phấp phới
Truyền đơn cờ đỏ gió tung trời.
Roi điện cùm xai toé máu tươi
Xà lim không thể khoá hồn người
Bừng bừng tiếng hát rung song sắt
Tiếng hát ta bay lộng giữa đời...
Tháng Tám vùng lên Huế của ta
Quảng - Phong ơi, Hương Thuỷ, Hương Trà
Phú Vang, Phú Lộc đò lên Huế
Đỏ ngập dòng sông rộn tiếng ca.
*
Từ ấy, xa quê mẹ đến rày
Lắng nghe từng buổi, nhớ từng ngày
Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây!
Cắn răng gian khổ tám năm trời
Huế của ta không một bước lùi
Huế của ta đây cầm vững súng
Chúng bay không thể có đường vui
Chúng bay không thể có ngày mai
Chết dưới chân bay vạn bẫy gài
Chết xuống đầu bay từng hốc núi
Hải Vân thăm thẳm huyệt đêm ngày!
Làng ta giặc đốt mấy lần qua
Mà đất Phù Lai vẫn tốt cà
Mà quít Hương Cần ta vẫn ngọt
Nhớ anh du kích trấn Dương Hoà
Chí ta như núi Thiên Thai ấy
Đỏ rực chiều hôm dậy cánh đồng
Lòng ta như nước Hương Giang ấy
Xanh biếc lòng sông những bóng thông...
*
Lửa chiến tranh nay đã tắt rồi
Mà lòng ta vẫn cháy không nguôi
Mẹ ơi dưới đất còn chua xót
Những tiếng giày đinh đạp núi đồi!
Ôi Huế ngàn năm, Huế của ta
Đường vào sẽ nối lại đường ra
Như con của mẹ về quê mẹ
Huế lại về vui giữa Cộng hoà.
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi...
Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương!
Mái nhì man mác nước sông Hương
Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường!
Ôi những đêm xưa, tối mịt mùng
Con nằm bên mẹ, ấm tròn lưng
Ngoài hiên nghe tiếng giày đi rỏn
Mẹ bấm con im: Chúng nó lùng
Con hỏi vì sao chúng nó tìm
Tìm ai, con hỏi, mẹ rằng: Im!
Mẹ ơi, đời mẹ buồn lo mãi
Thắt ruột mòn gan, héo cả tim
*
Mẹ không còn nữa, còn đây Huế
Con lớn lên, con biết lẽ rồi:
Nước mất nhà tan, đời khổ thế
Không làm nô lệ đứng lên thôi!
Con lớn lên, con tìm Cách mạng
Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi
Mẹ không còn nữa, con còn Đảng
Dìu dắt con khi chửa biết gì.
Huế không buồn nữa, Huế ta ơi
Mắt ướt trăm năm đã hé cười
Nghìn mảnh tương lai về phấp phới
Truyền đơn cờ đỏ gió tung trời.
Roi điện cùm xai toé máu tươi
Xà lim không thể khoá hồn người
Bừng bừng tiếng hát rung song sắt
Tiếng hát ta bay lộng giữa đời...
Tháng Tám vùng lên Huế của ta
Quảng - Phong ơi, Hương Thuỷ, Hương Trà
Phú Vang, Phú Lộc đò lên Huế
Đỏ ngập dòng sông rộn tiếng ca.
*
Từ ấy, xa quê mẹ đến rày
Lắng nghe từng buổi, nhớ từng ngày
Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây!
Cắn răng gian khổ tám năm trời
Huế của ta không một bước lùi
Huế của ta đây cầm vững súng
Chúng bay không thể có đường vui
Chúng bay không thể có ngày mai
Chết dưới chân bay vạn bẫy gài
Chết xuống đầu bay từng hốc núi
Hải Vân thăm thẳm huyệt đêm ngày!
Làng ta giặc đốt mấy lần qua
Mà đất Phù Lai vẫn tốt cà
Mà quít Hương Cần ta vẫn ngọt
Nhớ anh du kích trấn Dương Hoà
Chí ta như núi Thiên Thai ấy
Đỏ rực chiều hôm dậy cánh đồng
Lòng ta như nước Hương Giang ấy
Xanh biếc lòng sông những bóng thông...
*
Lửa chiến tranh nay đã tắt rồi
Mà lòng ta vẫn cháy không nguôi
Mẹ ơi dưới đất còn chua xót
Những tiếng giày đinh đạp núi đồi!
Ôi Huế ngàn năm, Huế của ta
Đường vào sẽ nối lại đường ra
Như con của mẹ về quê mẹ
Huế lại về vui giữa Cộng hoà.
6-2-1955
Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006.
Nguồn:
1. Gió lộng, NXB Văn học, 1961
2. Thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, 2003
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét