Phạm Viết
Đào.
Sau
năm 1975, sau Đại hội Đảng lần thứ 4, mặc dù vẫn trong không khí say sưa, lên đồng
bởi chiến thắng, tại Hà Nội đời sống thực tại bắt đầu tác động tới những người
thật sự quan tâm tới thế sự…
Sau
năm 1975, do các nước XHCN chính thức cắt viện trợ nên cán bộ công nhân viên chức
bắt đầu ngấm đòn về cái giá của sự độc lập tự chủ, còn nông dân thì bị xiềng
xích bởi chính sách hợp tác hóa nông nghiệp lỗi thời,nên sa vào cảnh nghèo đói.
Nhiều vùng Thanh Hóa, Nghệ An đang ngấp nghé thảm cảnh chết đói.
Hồi
đó, quãng 1976-1977 tôi làm biên tập tại Fafilm Việt Nam được giao nhiệm vụ về
Thanh Hóa lấy tài liệu để tập hợp báo cáo thành tích chuẩn bị đề nghị tuyên
dương: Đơn vị chiếu bóng lưu động Anh hùng của huyện Tĩnh Gia…Đơn vị này có
thành tích: có nhiều sáng kiến, bất chấp bom đạn của không quân Mỹ, duy trì được
hoạt động chiếu bóng trong giai đoạn chiến tranh phá hoại tại vùng chiến sự ác
liệt này.
Tôi
về Tĩnh Gia một tháng, bám theo đội chiếu bóng lưu động này để lấy tài liệu, để
nghe anh em kể cho nghe họ đã duy trì hoạt động chiếu bong lưu động bất chấp
bom đạn ác liệt của không quân Mỹ. Tĩnh Gia Thanh Hóa hồi đấy là yết hầu giao
thông từ miền bắc vào nam.
Hàng
ngày tôi bám theo đội chiếu bong lưu động, ở lại Tĩnh Gia gần 1 tháng và thấy
nhiều người dân ở đây chỉ sống bằng khoai sắn. Gia đình ông chủ nhà ở xã Khoa
Trường, nơi đội chiếu bong ngủ nhờ cho biết: Tháng qua bản than ông say sắn 3 lần
vì 6 tháng qua gia đình ông chỉ có ăn sắn…
Nếu
một vài chi tiết như vậy để thấy thực trạng kinh tế và đời sống cơ cực của người
dân Việt sau năm 1975. Và do sự thúc bách bởi hoàn cảnh đó, trong đội ngũ lãnh
đạo cấp cao nhất là những ông từng chiến đấu ở chiến trường miền nam cảm thấy
lao lung bởi cái mô hình sản xuất quan lieu báo cấp của miền bắc XHCN…
Theo
dõi thông tin hồi đó, sau Đại hội Đảng 4, chúng tôi đã chuyền tay nhau đọc 1
bài viết của ông Nguyễn Cơ Thạch, được đánh máy, phát biểu trong một cuộc nói
chuyện hẹp nào đó. Hồi đó ông Nguyễn Cơ Thạch đang là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao…
Đọc
bài viết của Nguyễn Cơ Thạch, thấy ông phân tích tình hình thế giới và quan hệ
đối ngoại của Việt Nam có vẻ nghiêng sang hướng muốn ngả về hướng Mỹ và phương
tây…
Cùng
với Nguyễn Cơ Thạch, một số nhân vật lừng lẫy trước 1975 như Thượng tướng Trần
Văn Trà, Trần Bạch Đằng, Dương Quỳnh Hoa, Ngô Bá Thành tự nhiên mất hút trên
chiến trường. Đây là giai đoạn chúng tôi xem bộ phim “Ván bài lật ngửa”, một bộ
phim tình báo dựa vào nguyên mẫu Phạm Ngọc Thảo của Nguyễn Trường Thiên Lý…
Chúng
tôi dò hỏi nhau, Nguyễn Trường Thiên Lý là ai mà đột ngột xuất hiện trong làng
điện ảnh với những tư liệu độc đáo để viết kịch bản cho phim? Sau này biết được
đó là Trần Bạch Đằng…
Cùng
hồi đó chúng tôi chuyền tay nhau đọc cuốn hồi ký của Tướng Trần Văn Trà ghi là
tập 5 “Những chặng đường B2 Thành Đồng – Kết thúc 30 năm chiến tranh” , tập cuối cùng lại xuất bản trước rồi không in
các tập trước đó như một điềm báo về sự trục trặc của tác giả…Tập hồi ký
1,2,3,4 của bộ sách này đã bị dừng và tác giả đã đoán trước được nên cho công bố
trước.
Cùng với Trần Văn Trà, là ông Trần Bạch Đằng, kịch bản bộ
phim dài nhiều tập Ván bài lật ngửa theo nguồn tin vỉa hè do ông viết trong thời
gian bị giam lỏng ở Hà Nội. Trần Bạch Đằng được triệu từ Sài Gòn ra giam long ở
nhà khách Chính phủ ở Chu Văn An…
Sở dĩ có chuyện này là do hồi đó, theo thông tin vỉa hè: các
ông này có tư tưởng chia rẽ bắc-nam…nên bị đì, vô hiệu hóa. Sau này tìm hiểu
thì biết rằng: chính họ, những vị này sau 1975, thất vọng về mô hình XHCN miền
bắc nên họ muốn miền nam giữ nguyên mô hình phát triển kinh tế như trước 1975.
Có ý kiến còn đề nghị giữ lại Đại sứ quán Mỹ lại để mời Mỹ trở lại…
Chúng tôi đã tranh luận với nhau rất nhiều sau khi Đại hội IV
bế mạc 1976. Hồi đó, sau khi đại hội kết thúc, cán bộ công nhân viên trong các
doanh nghiệp nhà nước nghỉ làm 1 tháng để đọc và thảo luận các văn kiện đã phát
trong dịp đại hội…
Khi phải đọc và thảo luận những văn bản giáo điều, cứng nhắc,
tôi và một số an hem từng du học Đông Âu bắt đầu “phá ngang” quay sang phát biểu
ngược, coi những nghị quyết của đại hội này là giáo điều và cứng nhắc. Chúng tôi quay sang ủng hộ quan điểm
của ông Nguyễn Cơ Thạch nên tìm cách bắt tay lại với Mỹ và phương tây. Phê phán
chủ trương xây dựng 400 pháo đài cấp huyện mô hình của Bungaria và chỉ tiêu đạt
20 triệu tấn lương thực trong nhiệm kỳ BCH này? Bản thân tôi năm 1976 đã đưa
chuyện người Nhật gạt nước mắt để bắt tay với Mỹ và họ đã đưa đất nước vượt qua
thảm họa chiến tranh…
Tôi còn nhớ, sau 1 tháng thảo luận, tôi là một trong những
người bị ghi vào số đen của đảng bộ Fafilm Việt Nam. Ông H. bí thư đảng ủy kiêm
giám đốc trong phiên tổng kết đã nặng nề lên án: Trong khi toàn đảng, toàn
quân, toàn dân lao vào cuộc chiến đấu dành độc lập dân tộc thfi có người “ được
đi tây trúc lấy kinh” đã quay về phê phán, đả kích đảng nặng nề, cho Đảng là
ngu dốt…
Dẫu sao tôi cũng chỉ là 1 cạn bộ mới vào nghề nên sau đó mình
biết đã lỡ lời và phổi bò nên chấp nhận mọi sự ứng xử.
Còn những người nhưu Trần Văn Trà, người năm 1947 đã được ông
Hồ Chí Minh tặng cho thanh kiếm quý nhưng cho tới khi mất vẫn không được tặng
Huân chương độc lập. Những nhân vật như Trần Bạch Đằng, những tên tuổi như
Dương Quỳnh Hoa sau năm 1975 đều mất hút trên chính trường do bởi họ muốn xây dựng
miền nam thành “một đặc khu”. Ý tưởng đó phía Bắc được ông Nguyễn Cơ Thạch tán
đồng. Nếu ý tưởng đó được triển khai từ sau Đại hội IV thì chắc chắn sẽ không
diễn ra thảm cảnh hàng triệu người dân trong đó có cả miền bắc bỏ nước ra đi.
Hồi đó, ngày sau 1976, chúng tôi đã nghe câu đồng dao không
rõ ai là tác giả: Ai ơi chớ vội làm giàu; Thằng Mỹ nó rút thằng Tàu nó qua…
Điều tiên tri này quả đáng ứng nghiệm dần và Luật Đặc khu là “cái
ổ” pháp lý để đại họa “ một ngàn năm bắc thuộc” lần thứ 2 được tái diễn như lời
than tuyệt vọng của ông Nguyễn Cơ Thạch…
P.V.Đ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét