Bùi Quang Vơm
18-1-2016
Đọc bài trả lời phỏng vấn của ông do báo Tuổi Trẻ thực hiện hôm 16/01,
quả thật tôi hết sức bất ngờ. Thú thật là tôi chưa bao giờ tâm đắc
như vậy với một đảng viên cộng sản. Ông nói: “Tình hình hiện nay phải đổi mới căn bản thì mới giải
quyết căn bản được tình hình. Tôi hiểu giá trị của việc phải ổn định để phát
triển, nhưng đổi mới căn bản không có nghĩa là không ổn định, không có nghĩa là
làm mất ổn định, mà đổi mới căn bản mới có một sự ổn định căn bản, lâu dài,
thực chất, chắc chắn“.
Ông hoàn toàn đúng. Phải đổi mới căn bản thì mới giải quyết
căn bản được tình hình. Những cái gọi là đổi mới tới thời điểm này,
là đổi mới trên ngọn, đổi mới chắp vá, không phải là đổi mới căn
bản theo đúng nghĩa chữ căn bản là gốc rễ, tiếng Anh hay tiếng Pháp
đều gọi là radical. Vì không đổi mới tới tận gốc rễ, cho nên đảng
cứ loay hoay giữa sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, giữa quan hệ
sản xuất Tư bản chủ nghiã với quan hệ sản xuất XHCN. Từ đó mới ép
cho ra cái Thị trường Định hướng XHCN, ngụ ý Thị trường nhưng có sự
chỉ đạo của Đảng. Đây có nghĩa là Thị trường nửa vời, là đổi mới
không căn bản.
Muốn có phát triển nên phải cầu cứu Thị trường, nhưng
muốn tới XHCN thì phải tiêu diệt dần kinh tế tư nhân TBCN. Đã Định
hướng XHCN thì đương nhiên và bắt buộc phải ưu tiên kinh tế thuộc sở
hữu Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước phải là chủ đạo. Nền kinh tế
có một thành phần làm chủ đạo, được Nhà nước bảo hộ, vạch sẵn
đường đi theo một ý tưởng chủ quan nào đó, cũng gọi là kế hoạch
hoá, thì không còn là nền kinh tế thị trường nữa. Thị trường là
Cung Cầu, là Cạnh Tranh làm thế nào để Định Hướng? Vừa muốn được
công nhận Thị Trường đầy đủ vừa muốn có kinh tế được Định Hướng,
có phải là lẩn thẩn không?
Một chuyện chưa rõ ràng nữa là, cái định hướng có
phải ngụ ý rằng, trong khi chưa tới được XHCN, thì còn cần Kinh tế
thị trường, sau đó thì không. Nghĩa là tới lúc nào đó, các thành
phần kinh tế phi XHCN khác sẽ phải bị triệt tiêu, chỉ còn lại duy
nhất kinh tế quốc doanh. Khi ấy, có phải Đảng lại phát động chiến
dịch Cải tạo thương nghiệp Tư bản Tư doanh. Và Thần Chết Đỗ Mười lại
tái xuất?!
Có lần ông Trọng hé lộ rằng có lẽ phải đến giữa thế
kỷ này mới kết thúc giai đoạn quá độ. Chưa một ai xác định những
tiêu chí cần đủ của giai đoạn quá độ, nhưng ngầm hiểu là đạt ngang
với các nước phát triển hịện nay. Đó là lúc tận thế của các Đại
gia tư nhân và kinh tế cá thể.
Hiểu chữ căn bản (radical) của ông cho đúng nghĩa là đổi
mới từ nền tảng của xã hội. Đó là cái nền mà trên đó chúng ta xây
dựng mọi cấu trúc, cả kinh tế lẫn văn hóa xã hội, cái mà Mác gọi
là Hạ tầng cơ sở. Một hạ tầng xã hội đa thành phần, đa sở hữu gọi
là Hạ tầng Đa nguyên là Hạ tầng hình thành tự nhiên ngay từ khi ra
đời và phát triển của xã hội loài người. Trên cái nền Hạ tầng
này, Kinh tế thị trường cũng hình thành tự nhiên, tự điều chỉnh, tự
thích ứng, tự hoàn thiện dưới áp lực không bao giờ giảm gay gắt của
những xung đột tự thân, mà mãi tới thế kỷ thứ mười tám, mới có
một người Anh tên là ADAM SMITH đặt tên cho nó là Bàn tay vô hình.
Bản chất của Xã hội là Đa Nguyên. Nó chỉ bị bóp méo,
biến dạng do các nguyên nhân khác nhau từ ý chí chủ quan của loài
người, hoặc các sản phẩm từ ý chí của con người, như các loại Tôn
giáo, các loại triết học, các loại chủ nghĩa.v.v… Nhưng tất cả
những loại biến dạng này chỉ có tính tạm thời, hay gọi là trạng
thái không ổn định, giống như dao động của con lắc, như sóng gió trên
mặt hồ nước.
Trên cái nền Đa nguyên ấy, mọi cái đều Đa nguyên. Mác
gọi là Hạ tầng cơ sở và Thượng tầng kiến trúc. Trong một xã hội
không thể chỉ có một loại người, chỉ có một loại tư tưởng. Có
những Tôn giáo có tới hàng trăm triệu tín đồ. Nhưng không bao giờ chỉ
có một tôn giáo duy nhất trên mặt Địa cầu. Đức tin là cái riêng,
thuộc sở hữu riêng, bất khả tước đoạt của mỗi người. Đó chính là
bản chất của Đa Nguyên.
Cho nên cái căn bản mà ông nói, tôi hiểu đó không phải
là đổi mới, mà về bản chất, nó là sự trở về. Trở về với trạng
thái vốn có trước khi nó bị biến dạng. Nền kinh tế Kế hoạch hoá
tập trung quan liêu, hướng tới một nền kinh tế không sở hữu, không
hàng hoá, không tiền tệ, là một loại biến dạng, tức là nó chỉ
xuất hiện do ý chí của con người trong một giai đoạn nhất định. tức
một loại biến động, một dao động, nhưng là dao động tắt dần, và
thời kỳ này là thời kỳ nó đã tắt từ châu Âu, đang tắt và sẽ tắt
hoàn toàn. Cái đuôi Định hướng XHCN chính là sự níu kéo của cái dao
động quán tính đó. Cái đuôi này tự nó sẽ biến mất.
Tôi biết khi nói chỉ có Đổi mới căn bản mới giải quyết
căn bản được tình hình, có nghĩa là chỉ có bỏ hẳn cái đuôi XHCN vớ
vẩn kia đi, thì mới có bình đẳng cơ hội kinh doanh, bình đẳng về các
nguồn lực, mới hết bao cấp, mới hết ưu tiên, hết bảo hộ và mới có
cạnh tranh thực sự, và quan trọng hơn là mới mất đi cái đống tài
sản công làm mồi ăn cho những lòng tham không đáy.
Nhưng tôi không dám chắc rằng nói đổi mới căn bản là ông
ngụ ý đổi mới cả nền tảng tư tưởng. Tức là bấng cả rễ Chủ Nghĩa
Mác-Lênin. Chính Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguyên nhân của mọi nguyên
nhân.
Trong số các ông, tôi không nhớ là ai, có người nói rằng
“Kinh tế thị trường trong XHCN hay trong TBCN đều phải là kinh tế thị
trường. Tất nhiên XHCN cao hơn, nhưng trước khi cao hơn thì phải bằng
đã”.
Đúng quá, Mác nói rằng sau khi phát triển tới tột bậc,
Xã HộiTư Bản sẽ chuyển sang Xã Hội Chủ Nghĩa?! Như vậy là XHCN cao
hơn, ưu việt hơn, nhưng chủ nghĩa tư bản phát triển trên mặt đất từ ba
trăm năm nay, mà chẳng thấy nước Tư Bản phát triển nhất nào chuyển
thành nước XHCN cả. Có vẻ như ở các nước Tư Bản phát triển này,
không có ai đào mồ chôn ai cả. Các giai cấp đối kháng sống thuận hoà
với nhau. Giai cấp vô sản được nhà nước tư sản bảo hộ bằng mọi lọai
chính sách, từ bảo hiểm y tế tới bảo hiểm thất nghiệp, thu nhập thấp
được trợ cấp để đảm bảo sức mua tối thiểu…tự do nghiệp đoàn, tự do
xuống đường…Chủ Nghĩa Mác phá sản và trở thành thủ phạm của hận
thù và phân hoá xã hội, thậm chí là gợi hứng của chủ nghĩa khủng
bố. Trước khi có XHCN ở Việt Nam, hãy cố vươn lên cho bằng cái Xã
Hội Tư Bản kia đã.
Ông Trọng, vốn tự cho là người có lý luận uyên bác,
không hiểu tại sao lại tự hỏi “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ
nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa….”
Không biết cái Chủ Nghĩa Xã Hội hoàn thiện của ông là
gì? Có phải cái xã hội không giai cấp, không sở hữu, không có kinh
tế hàng hoá, không sử dụng tiền tệ, làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu, xã hội tự quản không chính phủ, không nhà nước… Đây là một mớ
những ước vọng ấu trĩ, hoang tưởng. Tôi không tin rằng ông Trọng vẫn
kiên định lòng tin vào những thứ này như là lý tưởng của chủ nghĩa
cộng sản khoa học. Tại sao một tiến sỹ lý luận, một tổng bí thư
một Đảng đang cầm quyền có thể đặt một câu hỏi như thế, trong khi
ngay trước mắt ông, một thế giới Tư Bản tồn tại từ hơn ba trăm năm
vẫn đang không ngừng hoàn thiện và đang là ước mơ của bao dân tộc, trong
đó có cả Việt Nam.
Khi ông nói “đổi mới căn bản mới có một sự ổn định căn bản, lâu
dài, thực chất, chắc chắn”, tôi hiểu là ông muốn nói tới bản chất của
Ổn Định. Ổn định căn bản, thực chất, chắc chắn, phải là ổn định
tự thân, tự nhiên, không phải ổn định do cưỡng bức, gò ép. Bất cứ
sự ổn định nào đạt được bằng bạo lực, và duy trì bằng áp lực nhân
tạo, thì sau khi dỡ bỏ bạo lực, dỡ bỏ áp lực, sự ổn định ngay lập
tức biến mất.
Xã hội Việt Nam, nền Chính trị Việt Nam đang có ổn
định, không có tranh chấp, bạo loạn, không có biểu tình đình công…
nhưng không phải là ổn định thực chất, chắc chắn, không phải ổn định
căn bản. Nó đang được duy trì bằng bưng bít thông tin, bằng ngăn cấm
tự do tư tưởng, tự do tìm kiếm tin tức, tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tự do biểu tình… Trật tự xã hội đang được duy trì bằng một
lực lượng cảnh sát khổng lồ, một áp lực thường trực trên không khí
sinh hoạt xã hội. Chỉ cần buông lỏng hệ thống áp lực này, chưa thể
biết những biến cố gì có thể xảy ra, Đấy chính là mầm mống củ sự
mất ổn định, hay là ổn định không thực chất.
Vì vậy tôi hiểu rằng, đổi mới căn bản của ông là Dân chủ
hoá xã hội thực sự, không phải là dân chủ hình thức. Bởi vì dân
chủ thực chất đảm bảo các quyền tự do cơ bản của con người, đảm bảo
để xã hội luôn có đầy đủ cơ hội giải tỏa bức xúc gây ra bởi những bất
cập luôn tồn tại trong chính sách, trong luật pháp v.v..tạo điều kiện
cho một sự điều chỉnh và hoàn thiện kịp thời, đồng thời như những
van supáp giải toả và điều hoà áp lực xã hội, tạo sự ổn định bền
vững. Bởi vậy, Dân chủ hoá xã hội, không phải không phải là buông
lỏng các áp chế, tạo ra bất ổn định, mà là tạo ra sự ổn định có
tính căn bản, thực chất và bền vững, thông qua việc triệt tiêu tận
gốc các mầm mống bất ổn định một cách tự động.
Về việc chống Tham nhũng, tôi thấy Ông cũng rất đúng,
khi nói rằng “Lâu nay trong chống tham nhũng đã có nhiều nghị quyết, nhưng
tại sao tham nhũng và lợi ích nhóm chưa dừng lại, có mặt còn tiếp tục phát
triển? Cũng như ông GS. Hoàng Chí Bảo, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung
ương, cũng nói rất đúng rằng “Giờ có cả tham nhũng trong chính sách, tham
nhũng trong chính trị chứ không chỉ có tham nhũng trong kinh tế. Tham nhũng giờ
không phải là tham nhũng vặt mà là tham nhũng lớn, không chỉ tham nhũng cá biệt
mà còn thành cả hệ thống.”
Sau đó ông tự hỏi “Có điều gì đó phải suy nghĩ cặn kẽ hơn.
Thứ nhất là thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực và thứ hai là chưa phát huy đầy đủ
dân chủ.”
Đúng là muốn chống được Tham nhũng thì việc trước nhất
là phải kiểm soát quyền lực, vì chỉ có quyền mới tham nhũng, dân
thì tham nhũng cái gì! Mà không phải là đảng viên thì làm gì mà có
quyền. Ông cũng thừa biết rằng cần phải có một cơ quan độc lập mới
kiểm soát được, mà làm sao có được một cơ quan như thế trong chế độ
độc đảng cầm quyền. Với cơ chế Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt
đối mọi hoat động của xã hội, quyền chức do đảng phân phát ra, quyền
kiểm soát quyền chức phát ra ấy lại là đảng. Đó là cái vòng luẩn
quẩn người ta vẫn gọi là vừa đá bóng, vừa thổi còi. Quyền không
thể kiểm soát thì tất có chuyện lộng quyền lộng, lạm dụng quyền
vì vụ lợi là hành vi tham nhũng.
Như vậy, chỉ có trong đảng thì không thể kiểm soát được
chuyện lạm quyền, cho nên như ông nói, thứ hai là phát huy đầy đủ dân chủ.
Đúng quá, nếu có dân chủ đầy đủ đúng nghĩa thì đương nhiên có Luật
Pháp độc lập, có tự do báo chí, có tự do chính trị… như vậy sẽ có
đầy đủ mọi phương tiện, công cụ để giám sát quyền lực. Quan chức
tham ô như con chuột trong lồng dưới hàng triệu con mắt, có tài, có
gan cũng khó ăn cắp được.
Cũng phải nói thêm rằng, để chống ăn cắp, ngoài chuyện
giám sát cẩn thận kẻ có khả năng ăn cắp, còn phải triệt tiêu tất
cả những của cải có thể được coi là vô chủ, tức là dễ dàng trở
thành của ăn cắp. Đó là tài sản thuộc sở hữu nhà nước tại các Tập
đoàn quốc doanh, là tài sản công, là đất đai nhà nước thống nhất
quản lý, là hầm mỏ, là rừng, là biển. Tất cả những loại tài sản
này dứt khoát phải có chủ. Nhà nước là tất cả, nhưng chẳng là ai.
Cho nên, cái của nhà nước cũng là của tất cả.
Còn chuyện về chủ quyền, tôi thấy ông khôi hài nhưng
cũng thật đúng. “Thế giới ngày nay cũng như một làng. Trong làng có kẻ khỏe
mạnh, hung bạo, nhưng không vì thế mà muốn hiếp đáp ai cũng được, không thể cậy
khỏe làm càn. Vì người yếu thế hơn biết la làng, cả làng biết xúm lại…” Nhưng
ông chợt làm tôi liên tưởng tới anh Chí, Chí Phèo. Nếu đã biết la
làng, thì từ kêu la đến cào mặt chẳng còn mấy. Nên làm tới luôn.
Làm ầm lên là đúng, với kẻ chơi không quân tử và mẹo
vặt, chẳng nên âm thầm chịu trận ra vẻ cao thượng làm gì. Nhưng về
lâu dài đây chắc chắn không phải là lối chơi tối ưu. Trung quốc có
thay đổi được tính cách, nếu cứ mãi nằm trong tay một nhóm người
cầm quyền. Ông thử nghĩ xem điều gì xảy ra nếu Trung Quốc trở thành
một nước dân chủ như Pháp, Mỹ? Trung Quốc có dễ dàng thu hút các
nước để tạo ra một cộng đồng hoà bình, thịnh vượng kiểu Châu Âu
không? Có lẽ cả ASEAN nhập vào cộng đồng này cả. Như vậy, vấn đề
là giúp Trung Quốc trở thành người khổng lồ thật sự. Một anh Cả
xứng đáng. Lo gì phải làm đường tơ luạ trên bộ, trên biển, rồi những
con đường, những vành đai, vừa tốn kém vừa lộ liễu dã tâm. Và nếu
quyết tâm giúp Trung Quốc, chắc ASEAN phải Dân chủ hoá trước.
Tôi đặc biệt tâm đắc với tiêu chí cán bộ “Đổi Mới,
nhưng Trong Sạch” của ông, hoàn toàn trùng khớp với kiến nghị của tôi
trong bức thư “Chọn gì, Bầu ai” gửi Đaị biểu các ông cách đây vài
tuần. Nói thẳng ra là tôi không chọn ông Dũng, nhưng cũng không chọn
ông Trọng cho vị trí đứng đầu đảng. Nhưng tôi có chút nghi ngờ. Theo
như ông nói, phương án lựa chọn là hết sức thận trọng, làm rất kỹ
nên cuối cùng có được sự nhất trí rất cao giữ Bộ Chính trị và TW.
Việc ông Trọng làm tiếp Tổng Bí thư thêm một hai năm
nữa, không có gì đáng nói, vì đây là cái lúng túng của Bộ Chính
trị trong việc chuẩn bị cán bộ nguồn, cũng có chuyện bây giờ, nhân
tài như lá muà thu. Dù sao thì ông ấy cũng chỉ là bước đệm.
Nhưng như vậy ông Trần Đại Quang làm Chủ tịch nước hai
năm để chuẩn bị cho vị trí Tổng Bí Thư là kế thừa, hay căn bản. Kế
thừa gì, truyền thống Tổng Bí thư là người Bắc à? Hay căn bản, đúng
là đang từ Lý luận, Quốc hội sang Tổng Bí thư, bây giờ từ Công
An sang Tổng Bí thư, thực là một thay đổi cực lớn nhưng rõ ràng không
thể Căn bản được. Nước nhà vốn đang thèm, đang thiếu dân chủ, nhất
là đã quá nhiều công an.
Ông Nguyễn Xuân Phúc, không thể biết ông này là căn bản,
thừa kế hay trẻ hoá. Tôi không thấy ông này thuộc lọai nào. Và tôi
cũng không tin là ông này trong sạch.
Cuối cùng thì cũng phải xin được chia tay ông, mặc dù
còn rất, rất nhiều điều tôi muốn được thọ giáo ông, vì quả thực,
tôi đã không ngờ được nghe những điều trên kia từ miệng một TW uỷ
viên, một phó Ban Tuyên Giáo TW. Những điều nói ra của ông là qúa
đúng. Chắc chắn còn nhiều điều chưa thể hoặc chưa tiện nói ra. Có
thể tôi đã nhầm khi nghĩ rằng TW các ông như ếch ngồi đáy giếng, các
ông chỉ được nhìn một mảnh trời con con, mà tệ hơn, ngay cái mảnh bé
xíu đó lại có cái màu của cái mắt kính mà người ta đeo vào mắt
các ông. Tôi thành thực xin được xá tội.
Nghĩ tới Đại hội ngày mai, tôi cứ ước gì cả hai trăm TW
uỷ viên, hay cả 1510 Đại biểu Đại Hội, đều giống như ông, có được
hiểu biết và tấm lòng của ông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét