Nguồn
gốc hai chữ “cộng sản” (共产) từ đâu ra ?
Communism chủ nghĩa cộng sản, hay Communist – người cộng sản mà Việt Nam và Trung
Quốc gọi, có bắt nguồn từ gốc tiếng Latin Communis nghĩa là common với ý nghĩa là chung với tinh thần cộng
đồng – communitas. Đó cũng
là gốc của từ community – cộng đồng, nơi mọi người sinh sống,
làm ăn đều bình đẳng với nhau, chia sẻ tài vật, vì sự phát triển chung.
Communist là những người sống trong cộng đồng.
Đây chẳng phải là chủ thuyết, tôn giáo, triết học cao siêu. Lối sống là đạo đức,
là nhân cách từ trái tim con người đi ra.
Nguyên văn Các Mác đặt cho học thuyết của ông bằng tiếng Đức là Kommunismus (tương đương tiếng Pháp là
communisme, tiếng Anh là communism, tiếng Nga là коммунизм). Nếu dịch đúng
ra tiếng Việt thì tên học thuyết phải là “Chủ nghĩa cộng đồng”, theo đó,
tên đảng phải là “Đảng cộng đồng Việt Nam”.
Người
Trung Quốc đầu thế kỷ 20 cố ý dịch tạm bợ Kommunismus thành “chủ nghĩa cộng sản”.
Nguyên do nhóm các giáo sư đại học Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, sau đó
là cử nhân sư phạm Mao Trạch Đông và những người thành lập Đảng cộng
sản TQ năm 1921 đã dịch ẩu và đặt ra như thế.
[Gongshan (共产) hay Cộng Sản do nhóm Trần Độc Tú và Lý Đại
Chiêu dịch từ Communism của Karl Marx vào thập niên 1910. Thực ra, Marx chỉ nói
đến chế độ công hữu thời xã hội nguyên thủy [primordial society] mà chưa ai chứng
nghiệm—tương tự như Fu Xi [Phục Hi]/Bao Xi [Bào Hi] [2852 TTL] của Ban Gu [Ban
Cố], trong Han shu [Hán thư], dẫn lại trong I Ching [Chu Dịch]. Hoàn toàn không
sát nghĩa với Comunism…
Vì
sao họ không dùng chữ “cộng đồng” mà dùng “cộng sản”?
Với
trình độ học vấn đại học, ba ông Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Mao
Trạch Đông không thể hiểu lầm chữ nghĩa.
Họ
cố ý thay “cộng đồng” (共同) bằng “cộng sản” (共产) hẳn là có một ý tứ nhất định.
Thực
ra trong Hán ngữ, tương đương với “cộng đồng” cũng có chữ “đại đồng”
(大同) xuất hiện từ thời Khổng
tử. Trong Kinh Lễ, đức Khổng Tử từng ước mơ xây dựng nên một xã hội
lý tưởng gọi là thế giới đại đồng. “Đại đồng” gần nghĩa như “cộng
đồng” vậy. Nhưng “cộng đồng” và “đại đồng” vẫn là trừu tượng đối
với đại đa số dân chúng Trung Hoa vô sản thất học.
Chữ
“cộng sản” tiếng Hán có nghĩa “cùng
sản xuất, chung sở hữu tài sản, cùng sinh đẻ”- nghe thô kệch, vụn
vặt, phiến diện, ngô nghê nhưng được cái cụ thể sinh động, dễ hiểu.
Thực
ra “cộng sản” chỉ là một phần nội hàm của “cộng đồng”. Chả lẽ lãnh
tụ Đảng TQ không rành chữ Hán và chữ Đức ?! Không phải thế, họ dịch ra “cộng
sản” một cách thực dụng, bởi nghĩ rằng “cộng sản” với nội dung cụ thể đơn
giản sẽ khiến cho dân đen dễ hiểu. Đặc biệt người dân nghèo, thợ thuyền
chẳng có tài sản gì đáng kể, nay vô Đảng để đi đấu tranh, giành
giật hết tài sản của giai cấp địa chủ và tư sản làm của chung thì
thích lắm. Mác cũng từng nói “giai cấp vô sản đấu tranh chẳng có gì
để mất, nếu có mất thì chỉ mất đi xiềng xích dây trói mà thôi”.
Tất nhiên, cái tên Đảng cụ thể hấp dẫn như vậy sẽ khêu gợi dân chúng
nức lòng hăng hái đi theo đảng. Lãnh tụ TQ bất chấp rằng chữ “cộng sản” chỉ
là một phần nhỏ, phần thô trong khái niệm “cộng đồng” của Mác.
Như
vậy, Đảng cộng sản TQ ra đời mang theo chứng chỉ khai sinh giả mạo!
Ông
Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu “cộng sản” Việt Nam họp từ ngày 6/1/1930
đến ngày 8/2/1930 tại Hương Cảng để bàn bạc thống nhất ba tổ chức cộng sản
tại Đông Dương hợp thành Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc vẫn dùng nguyên chữ “cộng sản” đặt tên đảng, noi theo
đàn anh TQ, mặc dù ông Nguyễn khá giỏi chữ Tây và cả chữ Hán. Ông Nguyễn
thừa biết là dịch sai, nhưng có hề gì, miễn là cùng tên chứng tỏ
cùng phe cánh với Đảng cộng sản Trung Quốc là được (!).
Đã
có thời, ông Hồ Chí Minh sửa tên đảng là “Đảng lao động Việt Nam”, như thế rất
chuẩn. “Đảng của người lao động Việt Nam”, lao động chân tay và lao động trí
óc, bất kể anh là “giai cấp công nhân” hay trí thức.
P.V.Đ
( Sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét