(Giáo dục) - Cổ nhân có câu “lương sư hưng quốc”. Nhưng bất hạnh thay là nước Việt Nam hôm nay, “lương sư” đang ngày ngày càng hiếm; trong khi những nhà sư phạm “nửa mùa”, thích lôi người người học ra làm chuột bạch thí nghiệm với các sáng kiến lạ đời, thì lại nhiều nhan nhản.
Giữa bầu không khí phấn khởi của cả nước vì một số thành tựu kinh tế xã hội nổi bật trong thời gian qua, thì những vết sạn của cả nền giáo dục lại khiến công chúng không thể không bức xúc. Gần đây nhất, đó chính là những tranh cãi xoay quanh “công nghệ giáo dục” trong việc giảng dạy tiếng Việt ở bậc tiểu học của ông Giáo sư Hồ Ngọc Đại (con rể cố Tổng bí thư Lê Duẩn).
Trên thực tế, ông Đại chỉ là dân ngoại đạo về ngữ văn và ngôn ngữ học, hoàn toàn không có thành tựu nào nổi bật (ở đây chỉ các công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, được công nhận là có giá trị học thuật lẫn khả năng ứng dụng trong thực tiễn). Thời chiến tranh khốc liệt, ông được nhà nước cử sang Liên Xô học ngành tâm lý học, rồi trở về nước làm luận án tiến sĩ, song lại liên quan đến chủ đề tâm lý trong việc giảng dạy toán học ở bậc phổ thông. Từng nhận là có đọc một cuốn sách ghi chép những kiến thức tổng hợp về lịch sử hình thành và phát triển của tiếng Việt suốt hơn 300 năm, ông đã lấy đó để làm động lực cho những sáng kiến cải cách ngôn ngữ về sau này. Thử hỏi như vậy, ông Đại lấy tư cách gì hay dựa trên cơ sở học thuật nền tảng nào để đòi cải biến tiếng Việt?
Bằng công nghệ giáo dục “độc đáo” của mình, ông Đại đề nghị giản lược hóa cách phát âm, chỉ sử dụng âm vị “cờ” cho cả 3 mặt chữ C,Q,K. Cách làm này, theo nhiều thầy cô giáo có kinh nghiệm đứng lớp, rất dễ gây nhầm lẫn (ngay với người lớn, đừng nói trẻ nhỏ), khiến các bậc phụ huynh không khỏi lo lắng. Nhiều học giả, như nhà nghiên cứu độc lập Cao Tự Thanh, đã chỉ ra âm vị của C,K có thể giống nhau, nhưng nếu áp đặt cho Q thì chắc chắn là sai và không thể thay thế một cách tùy tiện như trên được. Và mặc dù không thể phản biện lại, nhưng ông Đại vẫn luôn khăng khăng, rằng chỉ có phương pháp của mình mới là đúng và sẽ hữu ích đối với hoạt động dạy học hiện đại, giúp cả thầy cô giáo lẫn học sinh thuân tiện hơn trong việc đánh vần. Chưa hết, sáng kiến của ông Đại còn được một người bạn lâu năm của ông là PGS. TS Bùi Hiền – từng gây hoang mang dư luận bởi đề án đòi thay đổi lối viết tiếng Việt (mà ngay đến chính ông Bùi Hiền cũng còn chưa quen) – cổ vũ hết mình.
Là người Việt Nam, chúng ta cần hiểu rõ nguồn gốc và trân trọng ngôn ngữ của mình, bao gồm tiếng nói và chữ viết. Nếu chữ Quốc ngữ – thành quả vĩ đại, kết tinh ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa như mang thanh âm của người Việt, nghĩa Hán tự, nhưng được biểu thị bằng các ký tự La tinh – mới có lịch sử khoảng 400 năm nay và chỉ thực sự trở nên phổ biến, thành chữ viết chính thức của cả dân tộc trong độ 100 năm trở lại; thì các thanh điệu trong tiếng Việt (cụ thể là 6 dấu thanh) đã phải mất gần 2000 năm để hình thành và phát triển đến độ ổn định như ngày nay. Ấy vậy mà hai ông giáo sư tiến sỹ đương đại, vốn chẳng được đào tạo bài bản về ngôn ngữ học như các giáo sĩ, thừa sai truyền đạo phương Tây khia xưa (có công phát minh và hoàn thiện lối viết Quốc ngữ khi nghe tiếng nói của người An Nam rồi ghi lại bằng các ký tự La tin, ban đầu chỉ là để phục vụ mục đích rao giảng Tin mừng), đã đòi cải biến cả cách phát âm lẫn lối viết của tiếng dân tộc, chỉ vì cái tôi và sự ngạo mạn của bản thân (hoặc giả cũng có thể nắm được một chút lợi ích nào đó).
Nhưng nguy hiểm hơn, thay vì lấy ý kiến rộng rãi để bổ túc và hoàn thiện, nhất là cần chứng minh tính đúng đắn và khả năng ứng dụng đại trà của phương pháp mới (nếu đúng là nó có giá trị) dựa trên tinh thần bao dung của khoa học, thì một người được gọi là trí thức, đạo mạo, đức cao vọng trọng như ông Đại lại tìm cách “lách luật”, đi đường “tiểu ngạch” cùng một số vị quan chức, lãnh đạo giáo dục (như nguyên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận và Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển) thực hiện chiến lược đánh “du kích”, ban đầu cho in, thí điểm và chỉ đạo địa phương mua sách (thông qua công ty xuất bản độc quyền với giá bán cao gấp 2 – 3 lần bình thường), ban đầu từ Lào Cai – một tỉnh miền núi, để rồi sau đó nhân rộng ra. Một số nguồn tin cho biết, nhiều phụ huynh đã phải chạy đôn chạy đáo để tìm mua những cuốn sách giáo khoa tiếng Việt có chất lượng rất thấp (do ông Đại làm chủ biên), và ước tính cả xã hội đã tiêu tốn tới 400 – 500 tỷ đồng cho mô hình thí điểm này.
Cuối cùng, theo GSTS Trần Đình Sử, mọi nghiên cứu khoa học cần thiết phải vì mục đích nhân văn và mang lại lợi ích kinh tế xã hội. Đất nước này đang rất thiếu những sáng tạo và ý tưởng đột phá (nhất là về khoa học công nghệ) để đẩy mạnh năng suất lao động, nhằm thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển, chứ chúng ta không cần những đề xuất “tào lao”, gây lãng phí tốn kém, thậm chí chỉ nhằm mục đích bòn rút ngân sách công. Những đề xuất và việc làm, theo kiểu của GS. Hồ Ngọc Đại hay PGS.TS Bùi Hiền, vì rất thiếu nền tảng căn bản, bên cạnh trình độ nhận thức lẫn hiểu biết về kinh tế – văn hóa – xã hội quá thấp, tất yếu sẽ gây nên hậu quả tai hại cho đất nước, thậm chí còn mang tính “hủy diệt văn hóa” … Thế mới biết, sở hữu nhiều bằng cấp, học hàm, học vị thì chưa hẳn đã là trí thức, … và ngay trong giới “trí thức”, cũng có không ít trường hợp điển hình của việc “giả” hay bằng “dỏm”. Vì vậy, dư luận không nên ủng hộ hay thậm chí là tiếp tay cho những suy nghĩ và hành vi “hại dân hại nước” như vậy.
(Theo Bút Danh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét