20-9-2018. Nguồn: FB THS
Ông Dương Danh Dy đã từ trần hôm 17 tháng 9 và được đưa
đến nơi an nghỉ cuối cùng một cách lặng lẽ. Chỉ có
vài cơ quan truyền thông thuộc hệ thống truyền thông chính thức loan báo điều
này sau khi mạng xã hội và hệ thống truyền thông quốc tế đưa tin.
Với ông Dy, chết không
phải là hết. Chuyện ông giã từ cuộc đời là dịp để người ta ôn – nhớ lại nhiều
thứ, cả riêng với cá nhân ông lẫn những vấn đề có liên quan tới lịch sử, giờ
tác động không chỉ tới hiện tại mà còn ảnh hưởng đến tương lai:
– Dương Danh Dy – Bí
thư thứ nhất của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, rồi Tổng Lãnh sự Việt Nam
tại Quảng Châu, Trung Quốc suốt hai thập niên (1977 – 1996), một trong những
người được xem là “hiểu Trung Quốc nhất” đã đưa ra nhiều cảnh báo, khuyến cáo
có giá trị nhất về quan hệ Việt – Trung. Góp sức cảnh tỉnh, loại bỏ sự mơ hồ
giữa vận nước với “tình hữu nghị” và nỗ lực toan làm cho nó “đời đời bền vững”…
– Dương Danh Dy – viên
chức ngoại giao kỳ cựu, thành viên của một thế hệ các viên chức ngoại giao như
Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ,… tuy là Đảng viên CSVN nhưng suy tư và hành
động vì lợi ích lâu dài của quốc gia, đặt lợi ích quốc gia bên trên tham vọng
đổi hết mọi thứ để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng CSVN,
nâng tinh thần dân tộc lên cao hơn “tinh thần quốc tế vô sản”…
Dương Danh Dy từ biệt
cuộc đời một cách lặng lẽ nhưng thời điểm ông “bỏ cuộc chơi” lại nhắc – khiến
người ta nhớ tới “Hồi ức và suy nghĩ” của ông Trần Quang Cơ (1927 – 2015) – một
viên chức có 44 năm phục vụ trong lĩnh vực ngoại giao, từ chối khi được phân
công làm Ngoại trưởng, xin rút ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN.
Người ta nhớ tới Dương Danh Dy vì ông là người trực tiếp dùng Internet phổ biến
“Hồi ức và suy nghĩ” (1) – bạch hóa những bất thường, phi lý trong quá trình
“bình thường hóa quan hệ Việt – Trung” mà di hại chưa biết đến bao giờ mới có
thể khắc phục!
***
Một tuần trước khi ông
Dy từ biệt cuộc đời, hệ thống truyền thông chính thức loan báo, Cục Xuất bản –
In – Phát hành yêu cầu Sở Thông tin – Truyền thông các tỉnh, thành phố kiểm
tra, rà soát và thu hồi cuốn “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” trên toàn quốc để
“ngăn chặn việc phát tán cuốn sách có nội dung sai sót ra thị trường”.
“Gạc Ma – Vòng tròn bất
tử” là cuốn sách đầu tiên hệ thống hóa những thông tin, dữ kiện liên quan tới
chuyện Trung Quốc cưỡng đoạt các bãi đá ngầm thuộc chủ quyền của Việt Nam tại
quần đảo Trường Sa hồi đầu năm 1988, kèm tường thuật của một số nhân chứng may
mắn sống sót sau cuộc thảm sát ngày 14 tháng 3 năm 1988 ở bãi đá ngầm Gạc Ma,
được… in – xuất bản – phát hành một cách… hợp pháp trên… lãnh thổ Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cho dù tham gia tổ chức
nội dung, biên soạn “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” có hai ông tướng (Lê Mã Lương –
Thiếu tướng, cựu Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân và Lê Kế Lâm – Chuẩn Đô đốc, cựu Tham mưu phó đặc trách tác
chiến của Quân chủng Hải quân, cựu Giám đốc Học viện Hải quân), một cựu Vụ
trưởng đặc trách Cơ quan Thường trực phía Nam của Ban Tuyên giáo Ban Chấp hành
Trung ương Đảng CSVN (Đào Văn Lừng), một Đại biểu Quốc hội bốn nhiệm kỳ kiêm
Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (Dương Trung Quốc), 68 nhà báo và các
cựu chiến binh là nhân chứng vụ thảm sát ở bãi đá Gạc Ma nhưng tất cả đều bị
một số ông tướng xem là “những kẻ đang thực hiện âm mưu xét lại lịch sử, hạ bệ
thần tượng, bôi nhọ quân đội và xúc phạm vai trò lãnh đạo của Đảng”…
Cho dù chính quyền Việt
Nam đã thành lập một hội đồng cấp quốc gia để thẩm định nội dung của riêng “Gạc
Ma – Vòng tròn bất tử” và sau khi nâng lên, đặt xuống nhiều lần, hội đồng này
mới gật đầu, giấy phép xuất bản mới được cấp cho nhà xuất bản thứ 14 (Nhà Xuất
bản Văn học) nhưng cuối cùng hóa ra vẫn còn “sai sót” đến mức phải thu hồi!
“Sai sót” chính dẫn tới
chuyện “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” bị xem là “cực kỳ nghiêm trọng, có hệ thống,
nằm trong âm mưu xét lại lịch sử, nhằm làm suy yếu chế độ, làm phân hóa nội bộ
Đảng, tiếp tay cho âm mưu ‘bài Trung, phò Mỹ, lật sử, dựng cờ vàng, thay chế
độ’ của các thế lực thù địch, tiến hành ‘diễn biến hòa bình’ chống phá chế độ
ta” là thông tin về “lệnh cấm nổ súng”. Dẫu không nêu đích danh nhưng “Gạc Ma –
Vòng tròn bất tử” khiến người ta phải liên tưởng đến vai trò, trách nhiệm của
ông Lê Đức Anh, khi ấy là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, sau này là Chủ tịch
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng lúc với sự kiện
công bố lệnh thu hồi “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử”, người ta thấy một số diễn đàn
điện tử, một số trang facebook đăng lại bài “Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề
Trung Quốc và biển Đông” (2) của ông Khuất Biên Hòa, Đại tá, Trợ lý của ông Lê
Đức Anh.
Nếu đọc “Hồi ức và suy
nghĩ” của ông Trần Quang Cơ, sẽ tìm thấy tại phần tường thuật về “Đại hội 7 và
cái giá phải trả cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc”, ông Cơ than
như thế này về Lê Đức Anh: Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để
đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối
ngoại! Thời điểm 1990, tướng Lê Đức Anh tìm mọi cách để thuyết phục Bộ Chính
trị nên trả mọi giá để “bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc” vì: “Mỹ là kẻ
thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh đó là Trung Quốc”
(Hồi ức và suy nghĩ – chương 14)…
Nói cách khác, “Đại tướng
Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển Đông” của ông Khuất Biên Hòa là một nỗ
lực “giải độc dư luận” từ thông tin, ý kiến của những người trong cuộc như ông
Trần Quang Cơ, vừa nhằm loại bỏ trách nhiệm, vừa tô vẽ lại hình ảnh của ông Lê
Đức Anh, kiểu như tác giả của 2/3 cuộc “lui quân vĩ đại trong lịch sử nhân loại
ở thế kỷ 20” (rút quân khỏi Campuchia và rút quân khỏi biên giới phía Bắc của
cả Việt Nam lẫn Trung Quốc để “khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập lại quan
hệ bình thường giữa hai quốc gia, hai dân tộc).
***
Thập niên 1990, ít
nhất, Việt Nam cũng có một Nguyễn Cơ Thạch – Ngoại trưởng, Ủy viên Bộ Chính trị
– tuyệt vọng cảnh báo “Chúng ta lại bước vào thời kỳ Bắc thuộc mới”, vì không
cản được nỗ lực trả mọi giá để “bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc” và
chính vì can ngăn, nhận định như thế mà bị Trung Quốc xem là trở ngại, bị giới
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam gạt ra
rìa.
Thập niên 2000, ít nhất
cũng có một Trần Quang Cơ, cảnh báo đồng chí, đồng bào bằng “Hồi ức và suy
nghĩ”. Thập niên 2010, ít nhất cũng có một Dương Danh Dy, lưu ý phải chú ý về
“Hội nghị Thành Đô”, công khai thừa nhận trong một cuộc tọa đàm tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm rằng, trong Hiệp định Phân định biên giới Việt – Trung, Việt Nam mất
1.500 cây số vuông – tương đương diện tích tỉnh Thái Bình và mất toàn những địa
danh có tính biểu tượng như: Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm… vì bị
Trung Quốc gài từ hồi thập niên 1950, 1960 của thế kỷ trước (3)…
Đáng buồn là những nhân
vật như thế quá ít nên “tinh thần bốn tốt”, “16 chữ vàng” mà Trung Quốc đề ra
vẫn được giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam xem là
“kim chỉ nam”, nên sau những ông tướng như Lê Đức Anh, vẫn còn nhiều ông tướng
khác như Nguyễn Chí Vịnh, cổ súy cho suy nghĩ: “Nếu có được một người bạn XHCN
rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam” (4)!
***
Những Nguyễn Cơ Thạch,
Trần Quang Cơ, giờ là Dương Danh Dy,… đã từ biệt cuộc đời một cách lặng lẽ
nhưng có muốn cũng chưa thể đặt dấu chấm hết cho những cuộc ra đi đó.
Với tuổi tác, tình
trạng sức khỏe như đã biết về ông Lê Đức Anh, có lẽ ông Anh cũng sắp chết và
chắc chắn, dù muốn hay không, “toàn Đảng, toàn quân, toàn dân” cũng phải để tang
ông Anh.
Dẫu quốc tang rình rang
tới mức nào, Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tụng ca tới đâu thì người
Việt và các thế hệ hậu sinh của người Việt cũng sẽ nhớ: 1988 – ngoài bãi đá Gạc
Ma (Johnson), Trung Quốc còn cưỡng đoạt của Việt Nam sáu bãi đá ngầm khác ở
quần đảo Trường Sa (Châu Viên – Cuarteron, Chữ Thập – Fiery Cross, Ga Ven –
Gaven, Tư Nghĩa – Hughes, Vành Khăn – Mischief, Xu Bi – Subi), song một tháng
sau ngày mất bảy bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa và sự kiện Trung Quốc thảm
sát 64 người lính Việt Nam vẫn còn nóng hổi, lúc đến thăm quần đảo Trường Sa
nhân dịp kỷ niệm 33 năm Ngày Truyền thống của Quân chủng Hải quân (07/05/1955 –
07/05/1988), chính ông – Lê Đức Anh – vẫn khẳng định “nhân dân Việt Nam biết ơn
sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Trung Quốc”, dù “nhất quyết bảo vệ chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ” nhưng sẽ “nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng
giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu
nghị giữa hai nước”?
Người Việt và các thế
hệ hậu sinh của người Việt sẽ ghi nhận, bất kể bảy bãi đá ngầm mà Trung Quốc
cưỡng chiếm của Việt Nam đã được bồi đắp thành chuỗi căn cứ quân sự nhằm hiện
thực hóa dã tâm mà ai cũng thấy là độc chiếm biển Đông nhưng khi xây dựng Bảo
tàng Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa tại Lý Sơn – Quảng Ngãi, nhằm trưng
bày dấu tích về lịch sử chủ quyền của người Việt trên biển Đông, những cá nhân
mà ông – Lê Đức Anh – đã tham gia đào tạo, quy hoạch để lãnh đạo quốc gia, quân
đội vẫn không quên giới thiệu những “lời vàng, ý ngọc” của chính ông về ơn
nghĩa Trung Quốc và mối tình sâu nặng giữa Việt với Trung!
Chắc chắn sẽ rất ít
người Việt và con cháu quên rằng, từ 1990, sau khi ông – Lê Đức Anh – và các
đồng chí đồng thời với ông hoàn thành “bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc”,
những người lính Việt đã tử trận ở biên giới Việt – Trung từ 1979 đến 1988, ở
Campuchia đều bị gạt ra khỏi lịch sử. Lịch sử Đảng CSVN và lịch sử hiện đại do
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam soạn thảo không giành chỗ cho họ vì
điều đó ảnh hưởng đến cam kết thực thi “Láng giềng tốt. Bạn bè tốt. Đồng chí
tốt, Đối tác tốt” và “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai”.
Chết không phải là hết
nên sống, hành xử thế nào mới quan trọng. Sợ, lên án, ngăn chặn “lật sử” cũng
không thể cản được việc lật lại lịch sử, xác định chính xác, rõ ràng, ai thực
sự có công, ai thực sự đắc tội với dân tộc này.
(1) https://baotiengdan.com/…/…/2018/09/hoi-ky-tran-quang-co.pdf
(2) http://vietnamnet.vn/…/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trun…
(3) https://www.facebook.com/nxdien2k15/posts/1912455759057386
(4) https://tinquansu.wordpress.com/…/khong-ai-quen-loi-ich-qu…/
Nguyễn Xuân Diện
·
TIẾT LỘ VỀ CUỘC GẶP GIỮA VÕ VĂN KIỆT
VÀ DƯƠNG DANH DY TẠI HÀ NỘI
Gần cuối đời Võ Văn Kiệt mới hiểu Nguyễn Cơ Thạch
Huỳnh Phan
19-9-2018
19-9-2018
Lời tác giả: Vĩnh biệt chú Dương Danh
Dy, nhà ngoại giao – nhà nghiên cứu Trung Quốc. Bài phỏng vấn và lần chụp ảnh
cuối cùng với chú (dù không được đăng) vào mùa xuân năm nay.
Một hôm, vào cỡ gần cuối năm 2006,
ông Dương Danh Dy nhận được cú điện thoại từ thư ký nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Người thư ký nói rằng ông Kiệt muốn gặp ông Dy, và đề nghị ông Dy hẹn ngày đến
Biệt thự Tây Hồ. Ông Dy không biết lý do ông Kiệt muốn gặp mình, một quan chức
ngoại giao cấp trung đã nghỉ hưu, nhưng vẫn cứ hẹn ngày và đến.
Đến nơi, ông mới vỡ lẽ ra rằng ông
Kiệt mới đọc xong cuốn Hồi ký Trần Quang Cơ, và muốn hỏi ông Dy, một chuyên gia
về Trung Quốc của Bộ Ngoại giao, xung quanh cuốn hồi ký này.
Nhà báo Huỳnh Phan: Lần đầu tiên gặp
ông Võ Văn Kiệt, câu nói đầu tiên ông nói với ông Kiệt là gì?
Ông Dương Danh Dy: Tôi nói với ông
Kiệt rằng chính tôi là người đưa cuốn hồi ký của nguyên Thứ trưởng Trần Quang
Cơ lên mạng. Ông Cơ rất thân với tôi, và sau khi hoàn thành xong hồi ký, ông đã
đưa nó cho tôi đọc.
Cuộc nói chuyện ở Biệt thự Tây Hồ kéo
dài bao lâu, và chủ yếu nói về chuyện gì?
Kéo dài tới 2 tiếng. Chủ yếu xung
quanh chuyện ngành ngoại giao, và cá nhân Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đã làm
trong thời gian Việt Nam bị cấm vận, và cố gắng thoát khỏi điều đó, trong đó có
việc rút quân khỏi Cămpuchia, đặc biệt là nỗ lực bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc. Nói chung là những điều đã được cố Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang
Cơ ghi lại.
Nhưng quá trình bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc là do phía Đảng tiến hành cơ mà?
Ông Kiệt cũng đặt vấn đề như vậy. Tôi
có giải thích rằng sau cuộc gặp của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch với Trợ lý Bộ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín, phía Trung Quốc đã không muốn tiếp xúc
để bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam qua con đường ngoại giao, vì
Tín cho rằng quan điểm của Bộ trưởng Thạch quá cứng rắn. Và Trung Quốc đã phát
tín hiệu, qua cuộc gặp bí mật với lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam, về việc phải
mở ra một kênh khác – đó là Ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Và mọi chuyện như
anh đã biết.
Thực ra ông Thạch có chống lại bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc không?
Tôi có giải thích với ông Kiệt rằng
là một nhà ngoại giao lão luyện, ông Thạch biết bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc sẽ mở ra đột phá khẩu phá thế bao vây cấm vận. Nhưng quan điểm bình
thường hóa của Bộ trưởng Thạch là phải bình đẳng, coi trọng độc lập tự chủ của
Việt Nam, và Trung Quốc không thích thế. Cũng chính vì vậy, trong cuộc gặp
Thành Đô quyết định bình thường hóa, không có mặt Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Tôi cũng nói để ông Kiệt biết rằng,
ngay thời TBT Lê Duẩn, ông Thạch đã đề nghị bỏ Điều 1 trong Hiến pháp 1980 coi
Trung Quốc là kẻ thù số 1, và năm 1984 ông lại đề nghị bình thường hóa quan hệ
ngoại giao với Trung Quốc. Cả hai lần TBT Lê Duẩn đều rất giận dữ với đề nghị
của Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.
Hồi đó, tôi nghe thông tin nói rằng
người ta đồn ông Nguyễn Cơ Thạch có tư tưởng thân Mỹ. Không hiểu ông Kiệt có
hỏi chuyện đó không?
Có. Và tôi giải thích rằng việc ông
Thạch thành lập nhóm nghiên cứu ở Bộ Ngoại giao chuyên tìm hiểu về chống lạm
phát ở nước ngoài, vì ở Việt Nam, và phe XHCN nói chung, đâu có kinh nghiệm
chống lạm phát. Việc ông đọc nhiều sách nước ngoài, trong đó có Paul Samuelson
(người đoạt giải Nobel năm 1970 về kinh tế học) và truyền bá chúng cũng giúp
cho Việt Nam có thêm tư liệu về kinh tế thị trường mới khai sinh ở Việt Nam.
Ông Thạch là người chỉ tôn trọng lợi ích của Việt Nam chứ không thân Mỹ gì cả,
dù ông đã tìm mọi cách để bắt mối với phía Mỹ nhằm xóa bỏ cấm vận với Việt Nam.
Sau khi nghe ông giải thích mọi điều,
ông Kiệt nói gì?
Ông Kiệt nói “bây giờ tôi mới hiểu rõ
ngành ngoại giao đã làm gì trong giai đoạn đó, và anh Nguyễn Cơ Thạch là người
như thế nào”. Ngừng lại một chút, ông Kiệt trầm giọng lại, nói “hôm nào gặp
Phạm Gia Khiêm (lúc đó là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao) tôi sẽ nói
với Khiêm là nên chú ý đến Phạm Bình Minh (lúc này là Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao).
Xin hỏi ông một câu cuối. Nếu ông
Nguyễn Cơ Thạch ở lại tiếp tục sau Đại hội VII, ông sẽ làm gì?
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Cơ Thạch hồi đó thách thức 2 vị trí: tổng bí thư và thủ tướng.
Xin cám ơn ông.
Phạm Đình Trọng
MỘT CHÍNH QUYỀN QUÁI GỞ
Người dân lương thiện nặng lòng với vận mệnh đất nước, chỉ
đơn độc, lặng thầm và ôn hòa bộc lộ chính kiến trên Facebook và tham gia biểu tình đòi
giữ gìn môi trường trong lành của đất nước thì bị tòa án nhà nước cộng sản kết
tội lật đổ chính quyền nhân dân và bị tuyên án 14 năm tù dù không có bất cứ
bằng chứng nào về tội lật đổ.
Cả một đám thanh niên
hư hỏng xài ma túy bị ngất xỉu phải đưa vào bệnh viện cấp cứu thì lập tức phó
chủ tịch Hà Nội kéo cả bộ sậu một đám giám đốc sở, giám đốc Y tế, giám đốc Lao
động Thương binh Xã hội vội vã đến bệnh viện, vồ vập, ân cần, trìu mến thăm
hỏi.
Đứng trước tuổi trẻ
bệnh hoạn ma túy, đám quan chức cộng sản khép nép cung kính như đứng trước
những anh hùng thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ rồi tay nâng phong bì, thân thiết
kính tặng tiền, khuyến khích lớp trẻ cứ ném tuổi trẻ huy hoàng vào ma túy.
Cứ ma túy đi, đừng đòi
dân chủ, nhân quyền.
Cứ ma túy đi, đừng quan
tâm đến biển Đông của tổ tiên ta đang bị giặc Tầu chiếm đoạt, đang hàng ngày
bắn giết dân ta đánh cá trên biển của ta.
Cứ ma túy đi, đừng bận
tậm đến tâm hồn Tàu, tư tưởng nô lệ Tàu đang sai khiến quan chức nhà nước cộng
sản.
Cứ ma túy đi, đừng lo
ngại hàng hóa Tàu đang giết chết nền kinh tế Việt Nam, đang đầu độc con người
Việt Nam.
Cứ ma túy đi, đừng băn
khoăn gì về lũ giặc Tàu đang ồ ạt đổ vào nước ta, đang làm chủ nhiểu vùng lãnh
thổ đất nước ta, đang nghênh ngang mặc áo in hình lưỡi bò đi trên đường phố ta.
Cứ ma túy đi hỡi tuổi
trẻ anh hùng của thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ.
Tuổi trẻ cứ say ma túy
đi để nhà nước cộng sản rảnh tay đưa cả giống nòi Việt Nam vào nô lệ Tàu Cộng.
Một chính quyền quái gở của lịch sử Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét