This
entry was posted on Tháng Mười 4, 2018, in Kho tàng văn hóa, Lịch sử Việt Nam and tagged cộng
sản, trung hoa. Bookmark the permalink. Bạn nghĩ gì về bài viết này?
Vũ Hồng Lâm*
Tổng quan
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là
một trong những mối quan hệ địa chính trị lâu đời nhất trên thế giới còn tồn
tại đến ngày nay. Nói “quan hệ địa chính trị” để nói về một phạm trù tổng quát
hơn, bao trùm hơn phạm trù “quan hệ giữa hai quốc gia”. Bởi vì trong gần hai
mươi hai thế kỷ lịch sử của nó, quan hệ Việt-Trung không phải lúc nào cũng là
quan hệ giữa hai quốc gia, càng không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa hai
“nhà nước dân tộc có chủ quyền”, như ta vẫn quen hình dung về mối quan hệ giữa
hai “nước” trong thế giới hiện đại. “Quan hệ Việt-Trung” ở đây được hiểu là mối
quan hệ giữa hai thực thể địa chính trị. Mối quan hệ địa chính trị này trong
từng thời kỳ có tính chất gì, mang đặc điểm gì, hay có thể gọi là gì, đó chính
là câu hỏi bao trùm của bài nghiên cứu này.
Quan hệ Việt-Trung trong gần
2200 năm tồn tại từ thế kỷ 2 trước Tây lịch đến nay có thể chia ra bốn thời kỳ
cơ bản. Thời kỳ thứ nhất quen gọi là “thời kỳ Bắc thuộc”, dài khoảng một ngàn năm, từ
lúc nước Âu Lạc của An Dương Vương thuộc về nước Nam Việt của Triệu Đà (năm 179
tr. TL), khi mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng
với miền Trung nguyên Trung Quốc được thiết lập thông qua quan hệ Hán-Nam Việt,
cho đến thời điểm Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938 sau
TL). Thời kỳ thứ hai gọi chung là “thời kỳ Đại Việt”, dài tương đương, từ khi Ngô
Quyền xưng vương (939) đến khi Pháp đặt nền bảo hộ ở Việt Nam và nhà Thanh công
nhận chủ quyền của Pháp ở đây (1883). Thời kỳ thứ ba quen gọi là “thời kỳ Pháp
thuộc”, kéo dài khoảng 6 thập niên, từ 1883 đến 1945, khi Việt Nam tuyên bố độc
lập. Thời kỳ thứ tư gọi chung là “thời kỳ Việt Nam”, dài tương tự, từ 1945 đến
nay. Thời kỳ này gồm 3 giai đoạn: (1) từ cuối thập niên 40 đến cuối thập niên
60, (2) từ đầu thập niên 70 đến cuối thập niên 80, (3) từ đầu thập niên 90 đến
nay.
Thời kỳ Bắc thuộc
Thời Bắc thuộc, Việt Nam được
tổ chức thành quận huyện trong cơ cấu nhà nước đế quốc Trung Hoa với tên gọi
“Giao châu” (nửa đầu thời kỳ) và “An Nam đô hộ phủ” (nửa sau thời kỳ). Quan cai
trị Việt Nam do vua Trung Quốc bổ nhiệm. Như vậy, Việt Nam thống thuộc vào
Trung Quốc về nhân sự lãnh đạo cũng như về chính sách. Song thực tế không nhất
thiết là như vậy. Có hai cách đi ra ngoài khuôn khổ của triều đình Trung Hoa.
Cách thứ nhất được thực hiện
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, sau đó người lãnh đạo khởi nghĩa xưng
“vương” hoặc xưng “đế”. Hiện tượng các thủ lĩnh địa phương nổi lên xưng đế là
hiện tượng bình thường trong lịch sử Trung Quốc. Thế nhưng trong đa số trường
hợp họ đều hướng tới chiếm lĩnh Trung nguyên, thâu tóm cả Trung Quốc về mình:
Dưới vòm trời chỉ có một mặt trời mà thôi. Song ở Việt Nam, những người nổi lên
xưng vương xưng đế chưa bao giờ nuôi ý đồ tiến chiếm Trung nguyên. Họ luôn coi
Trung Quốc như một thiên hạ khác. Họ không định gồm thâu Trung Quốc, mà ngược
lại, họ muốn rạch ngang vòm trời, chia thiên hạ làm hai, nửa bắc của người bắc,
nửa nam của mình. Ở đây, người ta vẫn sử dụng mô hình thế giới của Trung Hoa,
nhưng bóp méo nó đi ở một điểm cơ bản: Thiên hạ chia hai, có hai mặt trời. Tư
tưởng này là viễn tượng về trật tự thế giới của hàng loạt các thế lực lãnh đạo
Việt Nam cho đến mãi về sau. Nó thể hiện trong đế hiệu “Lý Nam đế” của Lý Bí
(544), trong bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” được cho là của Lý Thường Kiệt
(1075), trong bài phú “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (1428). Nhưng không
phải nó chỉ bắt đầu với Lý Bí. Nó đã bắt đầu rất sớm, trước cả khi có mối quan
hệ Việt-Trung nếu ta quan niệm quan hệ Việt-Trung khởi sự cùng với mối liên hệ
địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng và miền Trung nguyên Trung
Quốc. Do đó, mối quan hệ địa chính trị giữa Việt Nam và Trung Hoa ngay từ khi
khởi sự đã được lồng trong cái tư tưởng “Bắc Nam chia đôi” ấy. Kẻ khởi xướng ra
cái tư tưởng “Bắc Nam tương xứng” đó là Triệu Đà, nguyên là một viên tướng nhà
Tần cử xuống cai trị ở vùng Lĩnh Nam. Nhân lúc trung ương Hoa Hạ suy yếu, họ
Triệu nổi lên xưng đế, lập nước Nam Việt, xây dựng chính quyền theo hình mẫu
Trung Hoa, nhưng cải lối sống theo tục Việt. Tuy nhiên Triệu Đà sớm phải thỏa
hiệp với Trung Hoa: Ông phải bỏ xưng “đế”, chịu cho nhà Hán phong “vương”,
nghĩa là công nhận tư cách của mình chỉ như một chư hầu mà vua Hán là bá chủ. Trong suốt thời Bắc thuộc,
các cuộc khởi nghĩa của người Việt cũng đều ngắn ngủi. Phần thắng vẫn thuộc về
kẻ muốn áp đặt trật tự thế giới một trung tâm, mà Việt Nam trong đó chỉ có tư
cách quận huyện.
Cách thứ hai là chấp nhận tư
cách quận huyện của Việt Nam trong cơ cấu tổ chức nhà nước Trung Quốc, nhưng
giữ cho mình một không gian tự chủ riêng. Kẻ cai trị Giao châu hay An Nam tự
lập vào chức đứng đầu bộ máy cai trị địa phương hoặc cha truyền con nối, sự sắc
phong của triều đình trung ương bên Trung Hoa chỉ là hình thức. Tự chủ trong
nhân sự lãnh đạo đi kèm với tự chủ trong chính sách. Những thời kỳ như vậy nổi
bật nhất có họ Sĩ (tk 2 sau TL) và họ Khúc (tk 9).
Thời kỳ Đại Việt
Đây là lúc Việt Nam không còn
chấp nhận tư cách quận huyện trong đế quốc Trung Hoa nữa, và Trung Hoa cũng
phải chấp nhận cho Việt Nam nằm ngoài cương vực của mình. Lịch sử quan hệ
Việt-Trung trong thời kỳ này là lịch sử sự xung đột và thỏa hiệp, lịch sử sự
thể chế hóa các xung đột và thỏa hiệp ấy giữa hai viễn tượng về trật tự thế
giới.
Trung Hoa áp đặt trật tự thế
giới của mình thông qua “lễ”. Để khẳng định vị trí của mình trong trật tự thế
giới của Trung Hoa, Việt Nam phải nộp cống, kẻ cầm quyền mới lên ngôi phải cầu
phong, nhận sắc chỉ của hoàng đế Trung Hoa phải khấu đầu, nếu không làm tròn
phận sự sẽ bị cất quân hỏi tội.
Việt Nam thực hiện một chính
sách hai mặt. Một mặt vẫn thực hiện đủ lễ với Trung Hoa, nghĩa là về hình thức
công nhận trật tự thế giới của Trung Quốc. Mặt khác cứ thực hiện trật tự thế
giới của riêng mình. Tự xưng hoàng đế, coi mình như Trung Quốc ở phương Nam,
bắt các nước ngoài Trung Hoa phải triều cống, sắc phong cho họ, nếu “bất trung”
cũng cất quân hỏi tội. Tuy nhiên, như Alexander Woodside (1971) nhận xét, cái
trật tự “Trung Quốc của phương Nam” này lỏng lẻo hơn “Trung Quốc thật sự” rất
nhiều.
Phương thức đại chiến lược của
Việt Nam đối với Trung Quốc có sự giống và khác giữa hai giai đoạn. Giai đoạn
đầu, thời Lý-Trần, là kháng cự và không chối từ (“non-refus”, chữ dùng của
Pierre Féray, được Trần Quốc Vượng (1991) tâm đắc). Giai đoạn sau, thời
Lê-Nguyễn, là kháng cự và bắt chước. Sự khác nhau này là nguồn gốc gây tranh
cãi về thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc trong thời Trung đại. Vĩnh Sính
(1994) gọi thái độ ấy nói chung là “kháng cự và chấp nhận”, so sánh với thái độ
của sĩ phu Nhật Bản với Trung Quốc là “kính trọng và chối từ”. Sự dịch chuyển
thái độ của Việt Nam với Trung Quốc vào nửa sau thời Trung đại, theo Trần Quốc
Vượng (1993), là do sự thắng thế của đạo Nho, khiến cho trong thời Lê-Nguyễn
tình trạng tam giáo đồng nguyên bị thay bằng tình trạng độc tôn Nho giáo. Mục
tiêu đại chiến lược của giới nho sĩ, tức là nghiệp cấp lãnh đạo Việt Nam trong
thời Trung đại, như Trần Quốc Vượng (1988) chỉ ra, là “vô tốn, bất dị” (không
kém và không khác) Trung Quốc.
Thời kỳ Pháp thuộc
Thời Pháp thuộc, Việt Nam bị
chia làm ba kỳ, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp: Bắc kỳ và Trung kỳ
là xứ bảo hộ, Nam kỳ là thuộc địa. Với Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1885, Trung Quốc
từ bỏ bá quyền của mình và thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Quan
hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp đảm nhiệm và trở thành một bộ phận của
quan hệ Pháp-Trung.
Thời kỳ này cũng là thời kỳ mà
Trung Hoa phải từ bỏ mô hình thế giới truyền thống của mình và áp dụng mô hình
thế giới kiểu Âu, một kiểu trật tự thế giới được công nhận ở châu Âu từ sau Hòa
ước Westphalia (1648). Sự khác biệt lớn nhất giữa hai mô hình Trung Hoa và Tây
phương là trật tự thế giới kiểu Tàu đòi hỏi phải có một trung tâm thiên hạ, đại
diện là hoàng đế Trung Quốc với tư cách “con trời”, dưới ông là một hệ thống
các “phiên bang”, “chư hầu”, “thuộc quốc”, tức là một sự phân biệt trên dưới rất rõ ràng; trong khi
trật tự thế giới kiểu Westphalia không công nhận một trung tâm quyền lực tối
thượng đứng trên các nước khác, cai quản cả thế giới dù chỉ trên danh nghĩa,
các nước có chủ quyền tối cao trong vùng lãnh thổ của mình, và do đó là ngang nhau trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hành xử của các nước
Tây phương phải chia làm hai lớp. Ở phần nghi lễ ngoại giao là mô hình
Westphalia, còn trong thực tế là chính trị dựa trên sức mạnh (power politics).
Chẳng hạn ở Việt Nam, Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh làm thuộc địa, có giao kèo
đàng hoàng. Nghĩa là quyền chiếm đất của Pháp không phải tự nhiên mà có. Pháp
đặt vòng bảo hộ lên Bắc và Trung kỳ, giữ nguyên ngai vàng Hoàng đế Đại Nam, chỉ
đặt “công sứ” cai trị. Nghĩa là vẫn công nhận vua An Nam là chủ nước An Nam.
Tuy rằng tất cả phải chịu sự điều động của Toàn quyền Đông Dương và chính phủ
Pháp. Riêng đối với Trung Hoa, do nước này quá lớn, phương Tây bắt Trung Hoa
phải tô nhượng cho họ một số khu vực đầu mối giao thương, phải thừa nhận cho họ
có khu vực ảnh hưởng trên lãnh thổ mình. Chẳng hạn Pháp bắt nhà Thanh phải thừa
nhận các tỉnh Lưỡng Quảng và Vân Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của Pháp.
Về phía Trung Quốc, một mặt
chuyển theo mô hình thế giới kiểu Âu nhất là trong việc đòi hỏi quyền bình đẳng
với các nước lớn Tây phương, mặt khác vẫn nuôi tham vọng dành lại bá quyền với
các nước khi xưa đã chấp nhận trật tự thế giới kiểu Trung Quốc. Chính sách này
chung cho mọi chính quyền ở Trung Quốc, từ nhà Thanh, Quốc dân đảng đến Cộng
sản đảng.
Lý và thực trong thời hiện đại
Sau Thế Chiến II, cả thế giới
cùng công nhận mô hình Westphalia. Mô hình đó là cơ sở ý thức hệ của Liên Hợp
Quốc (cấm xâm lược, mỗi nước một phiếu), cũng là chỗ bám để các nước thuộc địa
đòi hỏi quyền tự quyết của mình. Chính trên căn bản này mà Ấn Độ và Trung Quốc
đã đề ra “năm nguyên tắc chung sống hòa bình” (tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào nội trị của
nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình). Những nguyên tắc này cũng
được Trung Quốc và Việt Nam coi như một căn bản trong quan hệ giữa hai quốc
gia. Nói cách khác, mô hình thế giới truyền thống kiểu Trung Quốc mà các triều
đình Việt Nam và Trung Hoa chia sẻ trước kia đã không còn hiệu lực pháp lý. Bên
cạnh đó, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa còn
có chung một mô hình thế giới nữa. Theo đó, thế giới chia làm hai phe, xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, trong đó Việt Nam và Trung Quốc cùng thuộc phe
xã hội chủ nghĩa, tức là như “anh em một nhà”.
Trong những năm 50 và 60, Việt
Nam coi Liên Xô và Trung Quốc là hai nước đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là
“anh cả” và “anh hai”. Điều này có vẻ như Việt Nam trùng quan điểm với Trung
Quốc (Liên Xô và Trung Quốc là anh cả và anh hai của phe xã hội chủ nghĩa),
khác quan điểm với Liên Xô (Liên Xô một mình lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa).
Nhưng thực chất có sự khác biệt quan trọng giữa ba quan điểm của ba nước. Trung
Quốc vẫn công nhận phe xã hội chủ nghĩa lãnh đạo bởi Liên Xô, nhưng điểm mấu
chốt mà Trung Quốc đòi hỏi là họ phải được độc lập, không bị phụ thuộc vào “anh
cả”. Vì thế mà Mao muốn Liên Xô chia sẻ kỹ thuật làm bom nguyên tử với Trung
Quốc. Nhưng Liên Xô muốn các nước xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào mình nên từ
chối cho Trung Quốc công nghệ nguyên tử. Đây là nguyên nhân sâu xa và căn bản
của sự “bất hòa” giữa hai nước trong những năm về sau. Về phía Việt Nam, để
phục vụ mục tiêu hoàn toàn giải phóng miền Nam, Việt Nam cần cả hai cường quốc
xã hội chủ nghĩa, còn chuyện họ có phụ thuộc vào nhau hay không thì không quan
trọng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn
Khrushchev cầm quyền ở Liên Xô, Hà Nội bất đồng với Mátxcơva trên hai điểm căn
bản. Thứ nhất là chủ trương chung sống hòa bình giữa hai hệ thống xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Chính sách này làm Hà Nội bất mãn, vì họ không tin
Mỹ cũng muốn chung sống hòa bình, bằng chứng của họ là việc Washington ngày
càng can thiệp sâu vào miền Nam. Thêm nữa, chủ trương chung sống hòa bình đi
ngược lại ý đồ của Hà Nội là quyết tâm giải phóng miền Nam, kể cả bằng vũ lực.
Thứ hai là chủ trương xét lại các giáo điều của Lênin và Stalin. Điều này gây
hoang mang, xáo trộn tư tưởng trong cán bộ, khi mà Hà Nội lại đang rất cần
thống nhất và ổn định tư tưởng để tranh đấu ở miền Nam. Trong lúc đó thì Trung
Quốc cũng chủ trương dùng đấu tranh vũ trang để chống Mỹ và giương ngọn cờ
chống xét lại để tiếp tục bám giữ các giáo điều. Do đó, tại Hội nghị trung ương
9 khóa 3 Đảng Lao động Việt Nam, tháng 12/1963, cùng với một nghị quyết “giải
phóng miền Nam” là một nghị quyết “chống chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô như một
sự “ngả về” Trung Quốc. Tuy nhiên, như W. R. Smyser (1980: 80) nhận định, vấn
đề đối với Hà Nội không phải là theo Trung Quốc hay ngả về Liên Xô hay giữ một
vị trí cân bằng giữa hai bên. Chính sách của Hà Nội theo đuổi một mục tiêu
không đổi: giành sự kiểm soát hoàn toàn miền Nam. Và Hà Nội sẽ nghiêng về bên
nào ủng hộ mục tiêu đó.
Song chẳng bao lâu sau, vào
cuối những năm 60, đầu những năm 70, quan điểm và đường lối đại chiến lược của
Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu rời xa nhau. Bất đồng sâu sắc với Liên Xô mà
không lôi kéo được phe xã hội chủ nghĩa theo mình, Trung Quốc quay ra giương
cao ngọn cờ lãnh đạo các nước đang phát triển. Cuối những năm 60, Trung Quốc
đưa ra viễn tượng “nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới”, trong đó
“nông thôn thế giới” do Trung Quốc lãnh đạo, còn “thành thị thế giới” bao gồm
cả Mỹ lẫn Liên Xô. Cũng trong khoảng thời gian này, Liên Xô đưa ra mô hình “ba
dòng thác cách mạng thế giới”. Ba dòng thác ấy bao gồm chủ nghĩa xã hội ở các
nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, và
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước đang phát triển. Theo thuyết của Liên
Xô, nước này lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa và lực lượng xã hội chủ nghĩa là chủ
lưu của ba dòng thác cách mạng. Như vậy, Liên Xô là lãnh đạo của lãnh đạo. Việt
Nam không nhận được vai trò gì quan trọng trong viễn tượng thế giới của Trung
Quốc, nhưng vẫn có thể có chỗ đứng danh giá trong mô hình của Liên Xô. Đó là
một lý do vì sao Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhanh chóng tiếp thu lý luận “ba dòng
thác cách mạng” của Suslov, đồng thời gắn vào đó hình ảnh Việt Nam là “tiền đồn
của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn của phong trào giải phóng
dân tộc trên toàn thế giới”.
Ngoài ra, cũng trong khoảng
thời gian cuối những năm 60, đầu những năm 70, một loạt biến cố quan trọng đã
xảy ra trong chính sách và mối quan hệ của các nước lớn liên quan đến Việt Nam.
Năm 1966, căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô bùng cháy thành xung đột biên
giới. Năm 1967, Mỹ tổn thất nặng vì chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Johnson
không dám ra tranh cử tổng thống. Năm 1968, Nixon trúng cử tổng thống Mỹ,
chuyển sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Cố vấn an ninh quốc gia
Kissinger, một giáo sư sử học đặc biệt tâm đắc phương thức “cân bằng quyền lực”
(balance of power), phương thức mà theo ông đã giúp châu Âu duy trì hòa bình
trong suốt một thế kỷ (từ sau Chiến tranh Napoléon đến trước Thế chiến thứ 1),
bí mật sang Trung Quốc thăm dò khả năng dùng nước này làm đối trọng với Liên
Xô. Năm 1972, nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon, hai nước ký
Tuyên bố chung Thượng Hải, đặt nền móng cho liên minh chiến lược chống lại Liên
Xô. Sự bắt tay của Trung Quốc với Mỹ càng làm Việt Nam xích lại gần Liên Xô.
Như Eero Palmujoki (1997: 48) nhận xét, việc Hà Nội tiếp thu lý luận “ba dòng
thác cách mạng” là để thể hiện chính sách thân Liên Xô, vì quan điểm “ba dòng
thác cách mạng” mà Liên Xô đưa ra năm 1969 về cơ bản không khác gì quan điểm
“ba lực lượng cách mạng thế giới” mà Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân đã
thông qua vào năm 1960.
Năm 1975, chiến tranh kết thúc,
nước Việt Nam thống nhất, quan hệ Việt-Trung đi vào một bối cảnh mới. Sự nghiệp
“giải phóng miền Nam” đã hoàn tất, Việt Nam phải chuyển sang chiến lược lớn
mới. Mục tiêu của sự nghiệp mới là “xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước”, mà một nội dung chính là đưa Việt Nam tiến kịp các nước phát triển về
kinh tế. Lãnh đạo Việt Nam lúc đó tin tưởng rằng với vị thế rất cao trên trường
quốc tế sau khi đã chiến thắng siêu cường số 1 thế giới, Việt Nam hoàn toàn có
thể tranh thủ được nguồn lực của cả hai phe, của Liên Xô (vì Việt Nam đã có
thành tích thắng Mỹ) cũng như của Mỹ (vì Mỹ đã hứa viện trợ nhiều tỉ đô la bồi
thường chiến tranh), để thực hiện mục tiêu này. Song tính toán của Việt Nam
hoàn toàn dựa trên sự hiểu sai thế giới bên ngoài, nhất là hiểu sai các nước
lớn có ảnh hưởng quyết định đến số phận của Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc cũng như
Liên Xô. Không như Việt Nam nghĩ, Liên Xô mạnh tay giúp Việt Nam phần nhiều vì
Việt Nam đứng trên tuyến đầu chống kẻ thù chiến lược của Liên Xô chứ không hẳn
vì Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội cho bản thân. Bởi vậy, sau khi chiến
tranh kết thúc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác đã cắt giảm mạnh
viện trợ cho Việt Nam, thay vì tiếp tục cho không để Việt Nam xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Khác với tin tưởng của Việt Nam, Mỹ chỉ giận chứ không sợ Việt Nam sau khi thua
cuộc chiến. Do đó, Washington nhất định không chấp nhận lấy việc Mỹ viện trợ
(Hà Nội đòi 3,2 tỉ đô la) làm điều kiện để bình thường hóa quan hệ. Đối với
Trung Quốc, Việt Nam cho rằng cái uy chiến thắng siêu cường Mỹ sẽ khiến người
láng giềng phương bắc phải nể. Nhưng sự mạnh lên của Việt Nam lại khiến Bắc
Kinh coi Hà Nội như một đối thủ cần ngăn chặn. Do đó, Trung Quốc đã kết liên
chiến lược với Campuchia để gây sức ép với Hà Nội từ phía nam.
Năm 1978, Trung Quốc đi vào một
khúc quanh lịch sử. Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền – lần này không còn Mao
Trạch Đông ngồi trên nữa vì ông đã chết từ 1976 – phát động một đại chiến lược
mới. Vẫn hoài bão cũ: đưa Trung Quốc trở thành đại cường quốc thế giới, nhưng
nhiệm vụ mới: “4 hiện đại hóa”, và phương thức thực hiện mới: tranh thủ sự cộng
tác của phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Trung Quốc từ bỏ quan điểm đấu tranh giai
cấp trong quan hệ quốc tế, phấn đấu làm đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ. Mô
hình “3 thế giới” trong đó Trung Quốc có sứ mệnh lãnh đạo “thế giới thứ ba”
(các nước đang phát triển), liên kết với “thế giới thứ hai” (các nước công
nghiệp phát triển nhưng không phải siêu cường), để lật đổ sự thống trị của “thế
giới thứ nhất” (gồm hai siêu cường Mỹ và Liên Xô), không còn giá trị. Thay vào
đó là lợi ích dân tộc thuần túy và tư duy thực dụng: Trung Quốc phải tranh thủ
được nước mạnh nhất thế giới về năng lực kinh tế, khoa học và quân sự, bất kể
nước đó “màu gì” (Đặng: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được
chuột”).
Các sự kiện có tính bước ngoặt
trong hai năm 1977-78: Sự đổ vỡ trong quan hệ Việt-Trung, Mỹ cự tuyệt quan hệ
ngoại giao với Việt Nam, Việt Nam gia nhập khối kinh tế của Liên Xô (Hội đồng
Tương trợ Kinh tế) và ký liên minh phòng thủ (Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và
Hợp tác) với Liên Xô và các nước trong khối Vácsava, Campuchia gây hấn biên
giới tây nam Việt Nam và Việt Nam đưa quân vào thay đổi chính phủ của
Campuchia, diễn ra như là kết quả của sự đan xen đại chiến lược giữa các nước
liên hệ, tiếp theo một chuỗi các sự kiện đã khởi sự từ cuối những năm 60, đầu
những năm 70. Cuối năm 1978, Trung Quốc lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, đầu năm
1979 đưa quân đánh Việt Nam trên toàn tuyến biến giới phía bắc, Việt Nam bị cả
thế giới ngoài các nước thân Liên Xô tẩy chay. Việt Nam buộc phải chuyển sang
một chiến lược lớn khác.
Liệu lịch sử có thể khác đi
được không? Chẳng hạn như nếu sau năm 1975, Việt Nam không giải tán Cộng hòa
miền Nam Việt Nam, hoặc thực hiện “một nước, hai chế độ”, không cải tạo công
thương ở miền Nam, không nghiêng về một nước lớn nào mà tìm cách cân bằng ảnh
hưởng của cả ba cường quốc Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, cố gắng tranh thủ nguồn
lực của tư bản trong nước cũng như quốc tế, giữ thể diện cho Mỹ (như cha ông đã
từng làm với Trung Quốc sau khi thắng họ) để bình thường hóa quan hệ và tranh
thủ nguồn lực của Mỹ. Như Trần Quang Cơ (2001/2003) nhận định, trong các năm
1977-78, “ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình
để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng
khoảng cách với các nước cùng khu vực” (tr. 6). Theo ông, Việt Nam đã có 4 sai
lầm lớn là 1) không duy trì quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, 2) quá
cứng nhắc bắt Mỹ phải viện trợ, bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm
1977, 3) không gia nhập khối ASEAN từ 1976 khi cả 6 nước này đều muốn Việt Nam
tham gia, 4) dính líu quá sâu và quá lâu vào Campuchia (tr. 7). Liệu những “sai
lầm” này có phải là tất yếu không và nếu chúng không xảy ra thì tình hình có
khác đi cơ bản hay không? Khó có thể trả lời những chữ “nếu” khi lịch sử đã là
lịch sử. Song có thể thấy để chuyển lịch sử đi theo hướng khác đòi hỏi rất
nhiều nỗ lực. Trước hết, những “sai lầm” nói trên dường như là kết quả của một
sự “cộng hưởng chiến lược” làm cho cơ hội khác đi của lịch sử càng ngày càng thu
hẹp. Sự cự tuyệt và thái độ thù địch của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam sau
30/4/1975 càng làm cho Hà Nội thấy không cần thiết phải để Cộng hòa miền Nam
Việt Nam tiếp tục tồn tại. Ngược lại, việc Việt Nam khăng khăng bắt Mỹ phải
viện trợ làm điều kiện cho bình thường hóa đã góp phần thu hẹp cơ hội này,
khiến Ngoại trưởng Cyrus Vance không còn con bài nào để chơi, và khi mà Cố vấn
an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski đã bắt tay được với Trung Quốc thì sau đó
Việt Nam đã trở thành một thứ “con tin” trong quan hệ Mỹ-Trung ( bạn đọc
có thể xem Chanda (1986) để tìm hiểu kỹ hơn giai đoạn lịch sử bước ngoặt
1975-78). Thứ hai, nếu Việt Nam đi tìm một vị trí cân bằng giữa ba nước lớn,
nhiều khả năng là các nước sẽ áp dụng cho Việt Nam một công thức như kiểu Nam Tư.
Song, sau một chiến thắng vĩ đại như năm 1975, hình ảnh một “Nam Tư phương
Đông” khó lòng hấp dẫn bằng hình ảnh ”tiền đồn phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam
Á” và “mũi nhọn phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”.
Các sự kiện năm 1978-79 đã xô
đẩy Việt Nam vào một đại chiến lược mới. Phải can dự vào Campuchia, bị chiến
tranh với Trung Quốc và bị phần lớn thế giới cô lập, Việt Nam buộc phải tìm
kiếm cho mình một bảo đảm an ninh bằng cách lập vành đai an toàn ở Đông Dương,
kết giao chặt chẽ và toàn diện với Liên Xô. Bởi thế, trong những năm 1980, quan
hệ với Liên Xô trở thành “hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại” của Việt Nam,
quan hệ với Lào và Campuchia trở thành “mối quan hệ đặc biệt”, thành “liên minh
chiến lược ba nước Đông Dương”. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam liên minh
với một nước lớn khác để chống lại Trung Quốc. Cũng vậy, khu vực ảnh hưởng của
Việt Nam ở Đông Dương trong giai đoạn này rộng hơn bất cứ thời kỳ nào khác
trong lịch sử.
Các diễn biến của quan hệ
Việt-Trung trong thời hiện đại cũng phơi bày khoảng cách lớn giữa mặt “hình
thức” và mặt “thực chất” của quan hệ giữa hai nước. Về hình thức, hai nước đều
thừa nhận trật tự thế giới kiểu Westphalia (mỗi quốc gia có chủ quyền như nhau)
và kiểu Zhdanov (thế giới gồm hai phe: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa).
Nhưng thực chất, hành xử của Việt-Trung lại theo những lôgíc hoàn toàn khác.
Không phải “Westphalia” mà là “thiên triều”: Trung Quốc đánh Việt Nam mà không
cần bị tấn công trước để “dạy cho Việt Nam một bài học”. (Mỹ 1964 theo “Westphalia”:
phải có sự kiện vịnh Bắc Bộ mới có cớ đưa quân vào Việt Nam). Không phải “phe
xã hội chủ nghĩa một bên, phe tư bản chủ nghĩa một bên” mà là “chính trị thực
tế” (Realpolitik – chính sách đối ngoại dựa trên thực tế tranh giành quyền lực,
không dựa trên tiêu chuẩn đạo đức và ý thức hệ) và “cân bằng quyền lực”:
Campuchia (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam (xã hội chủ nghĩa), Việt Nam đánh
Campuchia, Trung Quốc (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam, Mỹ (tư bản chủ nghĩa)
liên minh với Trung Quốc, Thái Lan (tư bản chủ nghĩa) làm hậu phương cho Khmer
Đỏ.
Xung đột nhỏ lồng trong xung
đột lớn, tất cả chịu sự chi phối của quan hệ giữa các nước lớn. Quan hệ
Việt-Trung rơi vào một bối cảnh mới khi chiến lược của một nước lớn trong tam
giác Mỹ-Trung-Xô thay đổi. Điều này đã xảy ra sau khi Nixon lên cầm quyền ở Mỹ
(1968), khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền ở Trung Quốc (1978), và một lần nữa
xảy ra sau khi Gorbachov lên cầm quyền ở Liên Xô (1985). Gorbachev thực hiện
một phương thức đại chiến lược mới. Vẫn nhắm mục tiêu giữ vững vị trí siêu
cường của Liên Xô nhưng bằng cách cải tổ kinh tế (perestroika), minh bạch hóa
nền chính trị (glasnost), hòa dịu với phương Tây và Trung Quốc. Ông định thông
qua chính sách đối ngoại mới để 1) giảm áp lực đe dọa quân sự từ Mỹ và Trung Quốc,
2) nhận được vốn và công nghệ của phương Tây, nhằm vực dậy nền kinh tế kém hiệu
năng của Liên Xô. Không rõ có phải do đánh giá đúng ý đồ của đối thủ hay không
mà Trung Quốc đặt ba điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ Xô-Trung
là Liên Xô phải rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt ủng hộ Việt Nam can thiệp
vào Campuchia, giảm quân dọc biên giới Xô-Trung. Sự cứng rắn của Đặng Tiểu Bình
cuối cùng đã buộc Gorbachov nhượng bộ cả ba điều kiện. Lợi dụng xu hướng Liên
Xô bỏ rơi Việt Nam để tập trung vào các vấn nạn trong nước, tạo ra khoảng trống
quyền lực ở khu vực Biển Đông, đầu năm 1988, Trung Quốc tiến xuống cắm chốt
trên quần đảo Trường Sa, nơi trước nay họ chưa hiện diện thường xuyên về quân
sự. Trong chiến dịch này, Trung Quốc chọn mỗi vùng một vị trí chiến lược để đổ
bộ: đá Chữ Thập ở rìa phía tây, đá Subi ở mỏm phía bắc, đá Châu Viên ở dải phía
nam, và ở cụm trung tâm là các đá Gaven, Kennan và Gạc Ma. Tại Gạc Ma đã xảy ra
đụng độ với Việt Nam sáng ngày 14/3/1988, kết quả Trung Quốc chiếm được đảo này
và Việt Nam mất ba tàu chiến cùng hơn 70 thủy thủ.
Hai đại chiến lược, hai thế giới
quan
Sự thay đổi đại chiến lược của
Liên Xô cộng với tình hình bản thân của Việt Nam (kinh tế suy sụp, chiến tranh
ở Campuchia trở thành gánh nặng) cũng buộc Việt Nam phải tìm hướng đi mới.
Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13 điều chỉnh chiến lược từ “hợp tác
toàn diện với Liên Xô” sang “đa dạng hóa, đa phương hóa”. Nghị quyết này là tác
phẩm của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, thể hiện bước ngoặt quan trọng trong tư
duy đối ngoại cũng như đánh dấu bước chuyển lớn trong chính sách quốc tế của
Việt Nam. Giống như Nghị quyết 9 năm 1963, Nghị quyết 13 không được đưa ra công
khai, chỉ từ nửa sau thập niên 90 mới được nhắc đến như văn kiện mở màn chính
sách đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa” mà Đại hội đảng 7 (1991) đã thông
qua. Cơ sở lý luận của Nghị quyết 13 là một viễn tượng thế giới hoàn toàn khác
với những gì Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn mường tượng từ năm 1948, thậm chí từ
1930. Trong tinh thần “đổi mới tư duy”, kể cả tư duy đối ngoại, Phan Doãn Nam,
cánh tay phải của Nguyễn Cơ Thạch về lý luận, viết bài “Một vài suy nghĩ về đổi
mới tư duy đối ngoại” đăng trên Tạp chí Cộng sảntháng 2/1988 như một bước chuẩn
bị cho Nghị quyết 13. Bài báo chỉ trích mô hình “hai phe, bốn mâu thuẫn”, nền
tảng thế giới quan của chính sách đối ngoại Việt Nam từ 1948, là giáo điều,
không đúng với thực tế. Thay vào đó, bài báo đề xuất coi thế giới ngày nay đầy
dẫy các mâu thuẫn phức tạp với đặc điểm nổi bật là sự “tùy thuộc lẫn nhau” giữa
các quốc gia bất kể chế độ chính trị-xã hội, một quan điểm vay mượn từ “tư duy
mới” của Liên Xô. Theo bài báo, chính sự tùy thuộc lẫn nhau đã làm thay đổi bản
chất của chủ nghĩa tư bản và thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc. Không nói
ra, nhưng tư tưởng này đã ngầm bác bỏ quan điểm “chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn
tột cùng của chủ nghĩa tư bản” của Lênin (chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn phát
triển tột cùng của nó sẽ dẫn đến hình thức tư bản độc quyền, dẫn đến chủ nghĩa
đế quốc, là nguồn gốc của chiến tranh thế giới, cách mạng vô sản là con đường
duy nhất bảo vệ hòa bình thế giới), học thuyết nền tảng cho chính sách đối
ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa từ xưa đến nay.
Mặc dù Nghị quyết 13 với đường
lối “đa dạng hóa, đa phương hóa” được thông qua nhưng cơ sở lý luận của nó
không được hoàn toàn chấp nhận. Lý do là trong những vấn đề lý luận có tính nền
tảng, lãnh đạo Việt Nam quyết định trên cơ sở hoàn toàn nhất trí. Chỉ cần “một
số đồng chí” không thông thì vẫn phải gác lại bàn sau (Porter 1990: 13). Kết
quả là “tư duy mới” và “tư duy cũ” cùng nhau tồn tại song song như một kiểu
“tam giáo đồng nguyên” (so sánh của Vũ Quang Việt).
Một lý do nữa cho sự củng cố
trở lại của thế giới quan “hai phe, bốn mâu thuẫn” là ảnh hưởng của các sự kiện
ở Đông Âu năm 1989 vào Việt Nam. Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã
dẫn đến tranh cãi gay gắt trong giới lãnh đạo Việt Nam. Một bên, trong đó có
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, khẳng định nguyên nhân chủ yếu là do “mưu đồ của
chủ nghĩa đế quốc hòng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội”. Bên kia, trong đó có Nguyễn
Cơ Thạch, cho rằng nguồn gốc sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu là sự
quản lý yếu kém và tư tưởng giáo điều gắn với một mô hình chủ nghĩa xã hội sai
lầm. Phát biểu tại Hội nghị trung ương 7 khóa 6 (tháng 8/1989), Nguyễn Văn Linh
nói sự bác bỏ quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” đã khiến một số người lầm
tưởng rằng chủ nghĩa đế quốc đã thay đổi bản chất. Câu nói ám chỉ Nguyễn Cơ
Thạch và đồng chí. Mâu thuẫn về thế giới quan giữa hai bên được Nguyễn Văn Linh
chốt lại: “Chừng nào chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại, chừng nào chủ nghĩa xã hội
chưa thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, thì chừng đó học thuyết của chủ
nghĩa Lênin vẫn giữ nguyên giá trị của nó” (“Phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn
Linh. Bế mạc Hội nghị 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng”, Tạp chí Cộng sản, 9/1989, tr. 6). Tuy nhiên,
không bên nào áp đảo được bên nào nên tại Hội nghị trung ương 8, tháng 11/1989,
giải pháp “hòa cả làng” được áp dụng. Nghị quyết của Hội nghị một mặt chỉ ra
nguyên nhân của sự sụp đổ chế độ ở Đông Âu là “những sai lầm chủ quan, duy ý
chí” của lãnh đạo các nước đó, mặt khác khẳng định “chủ nghĩa đế quốc đã lợi
dụng những khó khăn bên trong của chủ nghĩa xã hội để thực hiện các mưu đồ
chống cộng của chúng”.
Hai năm 1988-89 là thời gian
bản lề cho chính sách đối ngoại của Việt Nam suốt những năm sau. Thời gian này
hình thành thế “hai chân” trong tư duy đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong thời hậu Chiến tranh Lạnh dựa trên hai đại chiến lược
khác nhau. Sở dĩ là hai mà không phải là một vì chúng mang hai ý đồ khác nhau
và dựa trên hai quan điểm trái ngược nhau về thế giới.
Chiến lược lớn thứ nhất dựa
trên thế giới quan Mác-Lê, nhìn thế giới qua lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn”,
coi mâu thuẫn giữa “chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản” là mâu thuẫn
cơ bản nhất, đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư
bản là động lực cơ bản cho vận động chính trị toàn cầu. Bước vào thời kỳ sau
Chiến tranh Lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô đặt ra cho Việt Nam một yêu cầu mới. Từ
góc nhìn của thế giới quan Mác-Lê, mục tiêu lớn của Việt Nam được xác định là
phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội thế giới, Việt Nam phải coi Trung Quốc là đồng
minh chiến lược, Mỹ là kẻ thù chiến lược, phải đặt trọng điểm an ninh quốc gia
vào chống “diễn biến hòa bình”. Chiến lược lớn này lấy “chống đế quốc, bảo vệ
chủ nghĩa xã hội” làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm các chương 9, 10 và
14 trong hồi ký của Trần Quang Cơ (2001/2003) về quan điểm chiến lược theo
hướng này của Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh).
Chiến lược lớn thứ hai dựa trên
thế giới quan mới được hình thành trong thời kỳ “đổi mới tư duy” cuối những năm
80. Thế giới quan này gồm hai chiều: kinh tế và chính trị. Về kinh tế, nó coi
thế giới như một thị trường thống nhất, liên thuộc vào nhau, vận động theo xu
hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Các nước muốn sống còn không có cách nào
khác là phải tham gia vào “phân công lao động quốc tế mới”, phải hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và hội nhập khu vực. Về chính trị, mâu thuẫn cơ bản được
coi là mâu thuẫn giữa các quốc gia-dân tộc, cục diện thế giới về cơ bản được
xem là chịu sự chi phối của mối tương quan giữa các “nước lớn”. Chiến lược của
Việt Nam trong tình hình mới (các nước lớn hòa hoãn, chuyển sang chạy đua kinh
tế, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập khu vực gia tăng) là phải “hội nhập” mạnh
mẽ vào thế giới và khu vực, đặc biệt tranh thủ nguồn lực của các trung tâm tài
chính-công nghệ thế giới (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu), thực hiện ngoại giao đa
phương, tạo thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và
Trung Quốc. Trọng điểm an ninh quốc gia, theo chiến lược lớn thứ hai, là chống
“tụt hậu”. Chiến lược lớn này lấy “phát triển, hiện đại hóa” làm mục tiêu lâu
dài và cơ bản. (Xem thêm cuốn sách của Nguyễn Cơ Thạch (1998) và thư gửi Bộ
chính trị của Võ Văn Kiệt (1995) về quan điểm chiến lược theo hướng này).
Một câu hỏi đặt ra là tại sao ở
Trung Quốc các mục tiêu phát triển, hiện đại hóa, cũng như chống đế quốc (TQ
dùng từ “bá quyền”), bảo vệ chủ nghĩa xã hội cùng nằm trong một đại chiến lược
mà ở Việt Nam lại là hai? Mấu chốt nằm ở chỗ Trung Quốc không chống đế quốc
theo định nghĩa của Lênin (đế quốc đồng nghĩa với tư bản) mà chống bất cứ nước
nào có mưu đồ bá quyền trên thế giới cũng như ở châu Á (Trung Quốc từng gọi
Liên Xô là “đế quốc xã hội”), và Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Trung
Quốc chứ không bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới như Việt Nam (lời Đại sứ
Trung Quốc nói với Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày
27/7/1990, xem hồi ký Trần Quang Cơ, tr. 19). Như vậy tuy nhìn bề ngoài thì mục
tiêu của Trung Quốc và Việt Nam có vẻ không khác nhau là mấy nhưng về nội dung
thì khác nhau cơ bản vì dựa trên hai thế giới quan khác hẳn nhau. Chủ tịch Hội
đồng Nhà nước Võ Chí Công đã chỉ ra điều này tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày
19/6/1990: “Trung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi
ích chung của chủ nghĩa xã hội. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không
chịu đâu. Không nên ảo tưởng” (Trần Quang Cơ 2003: 43). Điều có vẻ nghịch lý là
chiến lược “phát triển, hiện đại hóa” (không chủ trương liên minh chiến lược với
Trung Quốc) dựa trên một thế giới quan giống với của Trung Quốc, trong khi
chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” (chủ trương liên minh chiến
lược với Trung Quốc) lại có một thế giới quan khác hẳn của Trung Quốc.
Trong những năm 90, một sự “phân
công lao động” giữa hai chiến lược lớn đối ngoại đã được dàn xếp. Sự phân công
này thể hiện rõ trong cơ cấu và cơ chế lãnh đạo sau Đại hội Đảng 7. Chủ tịch
nước Lê Đức Anh, đại diện chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội”,
phụ trách khối ngoại giao-quốc phòng-an ninh. Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đại diện
cho chiến lược “phát triển, hiện đại hóa”, phụ trách mảng kinh tế. Tổng bí thư
Đỗ Mười đóng vai trò dàn xếp giữa hai chiến lược, là người quyết định cuối
cùng.
Hai nhà lãnh đạo cao cấp thúc
đẩy đường lối “phát triển” và đại diện cho thế giới quan và quan điểm chiến
lược này là Nguyễn Cơ Thạch (Ngoại trưởng 1980-1991) và Võ Văn Kiệt (Thủ tướng
1991-1996). Những người kiên quyết giữ vững thế giới quan Mác-Lê và chủ trương
đường lối chiến lược tương ứng là Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư 1986-1991), Lê
Đức Anh (Chủ tịch nước 1991-1996), Đào Duy Tùng (Thường trực Ban Bí thư
1991-1996), Nguyễn Đức Bình (lý thuyết gia trưởng của Đảng 1991-1996), Lê Khả
Phiêu (Tổng bí thư 1997-2001). Như vậy, mặc dù chính sách ngoại giao “đa dạng
hóa, đa phương hóa” được các kỳ Đại hội Đảng liên tục khẳng định tính chính
thống, quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” vẫn ở thế thượng phong. Thế thượng
phong của đại chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có phần do cú
sốc tâm lý bởi các “sự kiện định hướng” của các năm 1989-90-91. Đó là sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, các đảng “bạn” mất chính quyền ở hàng loạt
nước, sự tan rã của Liên Xô.
Suy nghĩ thông thường cho rằng
các sự kiện này khiến cho Việt Nam mất đi nguồn viện trợ lớn, thị trường truyền
thống và chỗ dựa chính về ngoại giao. Thật ra, các sự kiện Đông Âu năm 1989-90
không có mấy ảnh hưởng “khách quan” lên nền kinh tế Việt Nam mà phần nhiều là
ảnh hưởng “chủ quan” lên tâm lý người lãnh đạo. Số liệu thống kê cho thấy năm
1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô và gạo ở mức độ đáng kể. Năm 1989
xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, trong khi chỉ 3 năm trước (1986) lượng gạo xuất
khẩu là 0,158 triệu tấn. Cũng ngay trong năm 1989, giá trị xuất khẩu sang khu
vực ngoại tệ chuyển đổi (các nước tư bản) tăng vọt lên 1,139 tỉ đô la từ con số
350 triệu đô la của năm 1988. Trong khi năm 1988, xuất khẩu sang khu vực ngoại
tệ không chuyển đổi (các nước xã hội chủ nghĩa) còn chiếm 55,6 % tổng giá trị
xuất khẩu thì năm 1989, xuất khẩu sang các nước tư bản đã chiếm 58,5% tổng giá
trị xuất khẩu. Năm 1991, tuy xuất khẩu sang thị trường các nước xã hội chủ
nghĩa sụt hẳn xuống còn 80 triệu rúp từ con số 1,1 tỉ rúp của năm trước, nhưng
xuất khẩu sang các nước tư bản cũng tăng mạnh lên gần 1,9 tỉ đô la, khiến tổng
giá trị xuất khẩu năm 1991 tuy thấp hơn năm 1990 nhưng vẫn cao hơn năm 1989
(Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam 1986-1991. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1992,
tr. 93-94). Do sự chuyển hướng chiến lược trong các năm 1987-88 cho nên ngay
trong thời gian xảy ra các sự biến ở Đông Âu và Liên Xô (1989-91), Việt Nam đã
tạo được xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, tạo được chỗ bám
vào thị trường thế giới. Vốn đầu tư nước ngoài (đăng ký) tăng từ 371 triệu đô
la năm 1988 lên 582 triệu năm 1989, 839 triệu năm 1990 và 1,322 tỉ năm 1991.
Xuất khẩu sang các nước tư bản tăng từ 448 triệu đô la năm 1988 lên 1,138 tỉ
năm 1989, 1,352 tỉ năm 1990, và 2,010 tỉ năm 1991. Nhập khẩu từ các nước tư bản
cũng tăng từ 804 triệu đô la năm 1988 lên 879 triệu năm 1989, 1,372 tỉ năm
1990, và 2,049 tỉ năm 1991. Như vậy ngay trong năm 1991, tức là trước khi Liên
Xô sụp đổ, Việt Nam đã thu được ở thị trường các nước tư bản khoảng 2 tỉ đô la
tiền xuất khẩu, gấp đôi số tiền thu được từ bán hàng sang các nước xã hội chủ
nghĩa vào thời điểm đỉnh cao trước đây (1,1 tỉ rúp năm 1990). Mặt khác, nếu
viện trợ kinh tế và vay nợ từ các nước xã hội chủ nghĩa (ước khoảng 1-2 tỉ đô
la một năm trong những năm 80) mất đi thì Việt Nam lại được bù đắp một khoản
tương ứng từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài cũng như các khoản viện trợ và cho
vay từ các nước tư bản. Năm 1991 Việt Nam nhận được 1,079 tỉ đô la cho vay và
526 triệu viện trợ từ nước ngoài. Ngoài ra còn có hơn 1,3 tỉ đô la đầu tư trực
tiếp của nước ngoài được cam kết. (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống
kê, Niên
giám thống kê 1995. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1996, tr. 51, 64, 253; các số liệu thống
kê chỉ có tính tương đối, lưu ý sự khác nhau giữa TCTK 1992 và TCTK 1996 về giá
trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi năm 1991). Tóm lại, không thể
nói sự tan rã của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa đã tác hại nặng nề lên nền
kinh tế Việt Nam.
Ngược lại, sự sụp đổ của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước liên tiếp đã gây phản ứng tâm lý mạnh trong
đông đảo cán bộ lãnh đạo Việt Nam. Sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa gây ra
hụt hẫng nghiêm trọng trong hình dung về thế giới của họ. Nhìn thế giới qua
lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn” nhiều người trong số họ lo sợ rằng sau Đông Âu
sẽ đến lượt Việt Nam, cảm nhận mối nguy hiểm lớn nhất xuất phát từ Mỹ, coi liên
minh giữa các chế độ xã hội chủ nghĩa còn lại là yêu cầu khách quan của tình
thế. Yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đối với họ trở nên cấp bách
hơn yêu cầu phát triển, hiện đại hóa. Hai yêu cầu này tự chúng không mâu thuẫn
với nhau. Song đặt trong hoàn cảnh thực tế, muốn phát triển, hiện đại hóa thì
phải cộng tác với các trung tâm kinh tế và khoa học hiện đều do các nước tư bản
phương Tây nắm, yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trở nên mâu
thuẫn với yêu cầu phát triển, hiện đại hóa.
Do người lãnh đạo cao nhất
trong thời kỳ 1990-91 nhiệt tâm theo đuổi mục tiêu đại chiến lược bảo vệ chủ
nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh toàn cầu với chủ nghĩa tư bản/đế quốc, mặc dù
Bộ Chính trị bất đồng về đánh giá tình hình quốc tế cũng như phương hướng đối
ngoại, động cơ đại chiến lược này đã chi phối Việt Nam trong quá trình “bình
thường hóa” quan hệ với Trung Quốc cũng như trong việc tìm giải pháp cho vấn đề
Campuchia. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày
10/4/1990: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm
mưu đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng chống đế quốc. Trước hết phải
phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau … Một
Campuchia thân thiện với Trung Quốc, thân thiện với Việt Nam là tốt nhất. Trên
cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho Campuchia … Không
để Liên Hợp Quốc nhúng tay vào vì Liên Hợp Quốc là Mỹ, Thái Lan là Mỹ” (Trần
Quang Cơ 2003: 33).
Cùng một chủ trương bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc, nhưng mỗi đại chiến lược có một động cơ khác nhau.
Chiến lược lớn thứ nhất xuất phát từ động cơ “đoàn kết với Trung Quốc bảo vệ
chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”. Chiến lược lớn thứ hai xuất phát từ động cơ
“đa phương hóa quan hệ, phá thế bị bao vây”. Quá trình bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc trong các năm 1990-91, về lý thì là “thực hiện Nghị quyết 13 Bộ
Chính trị” nhưng thực chất không phải nhằm đa phương hóa, tạo thế cân bằng giữa
các nước lớn, như tinh thần của những người dự thảo Nghị quyết 13, mà động cơ
thực sự, như Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh giải thích cho lãnh đạo Campuchia
về cuộc gặp cấp cao Việt-Trung ở Thành Đô, là: ”Mỹ và phương Tây muốn cơ hội
này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên
toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng
minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Trần Quang Cơ 2003: 51).
Mặc dù Trung Quốc nhiều lần nói
thẳng với Việt Nam là họ không chấp nhận “giải pháp đỏ” ở Campuchia cũng như
không thể bắt tay với Việt Nam theo kiểu hai nước xã hội chủ nghĩa liên minh
lại chống Mỹ, và mặc dù trong Bộ Chính trị cũng đã có nhiều ý kiến rằng đại
chiến lược của Trung Quốc là tranh thủ Mỹ và phương Tây để thực hiện “bốn hiện
đại hóa”, do đó không thể liên minh chiến lược với Việt Nam, song các lãnh đạo
cao nhất của Việt Nam vẫn hy vọng một ngày kia Trung Quốc sẽ “hiểu ra” mà bắt
tay với Việt Nam chống Mỹ (Trần Quang Cơ 2001/2003). Trong cuộc gặp cấp cao
Việt-Trung 5-10/11/1991 hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ, Việt Nam lại đề
nghị Trung Quốc “đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc”, song Trung
Quốc đã khẳng định hai bên là “đồng chí, không là đồng minh” (Thayer 1994). Cho
đến tận cuối những năm 1990, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu vẫn tiếp tục đề nghị
Trung Quốc kết đồng minh bảo vệ chủ nghĩa xã hội và một lần nữa lại bị bác bỏ
(N.S.P., “Thư Hà Nội”, Diễn Đàn, số 104, tháng 2/2001).
Vậy tại sao vẫn kéo dài tình
trạng “lưỡng giáo đồng nguyên” mà không hợp được hai mục tiêu vào làm một,
chẳng hạn như mô hình Trung Quốc? Có thể do nhiều nguyên nhân tác động rất phức
tạp với nhau. Cũng có thể vì những lý do rất giản dị như thói quen, nếp nghĩ,
niềm tin của một số người rất có thế lực v.v. Bài viết này chỉ nêu một giả
thuyết có tính gợi ý. Thứ nhất, như trên đã phân tích, mục tiêu bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa và chống bá quyền của Trung Quốc khác mục tiêu bảo vệ chủ
nghĩa xã hội, chống đế quốc của Việt Nam về nội dung nên không thể lấy Trung
Quốc làm gương. Mặt khác nếu hai đại chiến lược khác nhau cả về mục tiêu phấn
đấu lẫn thế giới quan làm nền tảng thì không còn điểm chung nào để có thể hòa
vào làm một. Thứ hai, vì cả hai đại chiến lược của Việt Nam sau Chiến tranh
Lạnh đều không tới, đều bất cập, nhưng mỗi cái cũng lại có điểm mạnh riêng, và
điểm mạnh của chiến lược này lại là điểm yếu của chiến lược kia, cho nên cả hai
đứng riêng bổ xung cho nhau thì dễ mà cái này đồng hóa cái kia thì khó, và cũng
chưa tìm ra được cái nào khác thay thế, cho nên cứ nhùng nhằng “lưỡng giáo đồng
nguyên”.
Đại chiến lược chống đế quốc,
bảo vệ chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh Việt-Trung cùng phe chống Mỹ, cũng như khi
xưa, cả hai cùng là “văn minh” chống lại “man di”, thì nay, cùng “xã hội chủ
nghĩa” (hiểu: tiến bộ) chống “tư bản đế quốc” (hiểu: phản động). Như vậy là hợp
với yêu cầu của bài toán chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải
liên minh với cường quốc xã hội chủ nghĩa lớn nhất. Nhưng không gặp thời cơ vì
muộn nhất là từ 1978, Trung Quốc đã không còn coi Việt Nam cùng phe, đồng thời
luôn đặt yêu cầu hợp tác với Mỹ lên trên yêu cầu chống Mỹ. Vì thế điểm mấu chốt
của chiến lược này không thực thi được.
Đại chiến lược phát triển, hiện
đại hóa nhấn mạnh hội nhập, hợp tác với phương Tây, giữ thế cân bằng giữa các
cường quốc. Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán phát triển, hiện đại hóa
đòi hỏi phải có hòa bình, phải tranh thủ được các nước phát triển nhất. Nhìn
chung, chiến lược này là hợp thời vì nó phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực
và việc tạo thế cân bằng giữa các cường quốc (chủ yếu là giữa Trung Quốc và Mỹ)
có thể coi là khả thi trong điều kiện quan hệ các nước lớn đang ở giai đoạn hòa
hoãn. Vậy thì điểm yếu của chiến lược “hiện đại hóa” và cũng là điểm mạnh của
chiến lược “chống đế quốc” nằm ở đâu? Ở đây thử nêu giả thuyết là chiến lược
“bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có thể đáp ứng tốt hơn chiến lược “hiện đại hóa” về
hai nhu cầu: hãnh diện và an toàn.
Chiến lược “hiện đại hóa” nhận
Việt Nam là nước nhỏ, chịu sự chi phối của quan hệ nước lớn, không đóng vai trò
gì quan trọng trên trường quốc tế. Nó đề ra mục tiêu phấn đấu là “hóa rồng” như
các nước công nghiệp hóa ở Đông Á nhưng không nêu cụ thể hơn. Hóa thành rồng
gì? Rồng đầu đàn hay rồng cuối đàn, rồng to hay rồng nhỏ? Nếu chỉ hóa rồng
chung chung thì đó mới chỉ là một nửa mong ước của người Việt Nam. Tâm lý Việt
Nam thích “ta phải nhất”, không thích làm kẻ “thường thường bậc trung”, càng
không thích làm kẻ “vô danh tốt tiểu”. Tuy vẫn quen “luồn lách” nhưng vẫn thích
được tiếng là “mũi nhọn”, “tiền đồn”.
Mặt khác, nếu Việt Nam muốn hóa
rồng thì phải chọn lựa: 1) hoặc là phải bỏ hệ ý thức vô sản để có thể theo mô
hình Đông Á, 2) hoặc vẫn giữ hệ ý thức đó và một mình làm chuyện vô tiền khoáng
hậu, 3) hoặc theo sau Trung Quốc, họ đi đâu mình theo đó. Quá trình đổi mới của
Việt Nam đã không theo lựa chọn 1. Hiện còn quá sớm để kết luận liệu Việt Nam
theo hướng 2 hay hướng 3. Vì nếu đi theo Trung Quốc, Việt Nam rồi cũng sẽ phải
từ bỏ ý thức hệ vô sản, phải chấp nhận tư sản, cả trong Hiến pháp lẫn trong
Đảng. Có thể Việt Nam còn đang chờ xem, nếu Trung Quốc thành công thì sẽ làm
theo. Dù thế nào, việc không chọn hướng 1 mà chọn hướng 2 hoặc 3 có nghĩa rằng
nhu cầu an toàn là rất lớn đối với Việt Nam. Thậm chí, trong mắt một số người,
hướng thứ ba còn cho sự an toàn kép: cứ để Trung Quốc nghĩ hộ và làm trước, chờ
họ thành công mình sẽ làm theo, thêm nữa, bắt chước Trung Quốc sẽ làm Trung
Quốc vừa lòng (Điều sau này không hẳn đã đúng). Tuy theo hướng này cũng có rủi
ro. Như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có lần nói: “Nếu Trung Quốc thành công, chúng
tôi sẽ thành công. Nếu Trung Quốc thất bại, chúng tôi sẽ thất bại” (Nayan
Chanda, “Friend of Foe?”, Far Eastern Economic Review, 22/6/2000, tr. 32).
Sau 11/9/2001, thời kỳ chuyển
tiếp “hậu Chiến tranh Lạnh” kết thúc, tất cả các nước lớn đều điều chỉnh lại
chiến lược của mình. Hay nói đúng hơn, thời kỳ nhì nhằng chiến lược sau CTL đã chấm dứt, các
nước lớn đã rõ hơn về đường hướng và mục tiêu đại chiến lược của mình. Liệu
Việt Nam có thể đóng vai trò gì trong mô hình trật tự thế giới mới của Mỹ và
Trung Quốc? Đây sẽ là một câu hỏi quyết định chính sách đối ngoại của Việt Nam
trong tương lai.
Kết luận
Quan hệ Việt-Trung trong gần
2200 năm lịch sử của nó đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Có lúc Việt Nam
là quận huyện của Trung Quốc mà cũng có lúc Việt Nam lại thuộc về Pháp, lấn
lướt được Trung Hoa. Có lúc Việt Nam chịu thần phục Trung Quốc nhưng có lúc lại
liên minh với Liên Xô để đối đầu lại Trung Hoa. Mỗi giai đoạn như vậy, trong
nội bộ Việt Nam cũng như Trung Quốc đều có các quan điểm khác nhau. Phía Việt
Nam có phe nhấn mạnh điểm đồng và có phe nhấn mạnh điểm dị. Phía Trung Quốc có
phái coi Việt Nam như kẻ trong nhưng cũng có phái xem Việt Nam như người ngoài.
Tuy nhiên, xuyên suốt gần 22
thế kỷ, tương quan vị thế giữa Việt và Trung vẫn mang một hằng số. Quan hệ
Việt-Trung có thể ví như quan hệ giữa một người và một con chip (micro-
processor) gắn vào thân thể người đó:
·
không rời nhau được, nhưng lại
·
không đồng hóa được nhau, nhất là
·
không bao giờ cùng đẳng cấp,
·
và nhiều đặc điểm khác.
Xuyên suốt gần 22 thế kỷ, cái
nhìn của Trung Quốc về Việt Nam giống như cái nhìn của một người về con chip
gắn vào thân thể người đó. Cái nhìn của Việt Nam về Trung Quốc giống như cái
nhìn của con chip về cơ thể mà nó gắn vào.
* Cornell University,
Ithaca, New York, Mỹ. Tác giả cảm ơn hai người thẩm định của Thời Đại Mới, các anh Cao Huy Thuần, Ngô
Vĩnh Long, Keith Taylor, James Anderson và Vũ Hữu Nghị về những phê bình, gợi ý
và nhận xét quý báu, đặc biệt cảm ơn anh Vũ Quang Việt đã cung cấp một số tài
liệu và ý kiến giá trị cũng như đã khích lệ viết bài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(một số tác phẩm tiêu biểu về từng
đề tài)
1. Về lịch sử Việt Nam Cổ, Trung
và Cận đại, các quan hệ kinh tế-xã hội và đối ngoại, xem: Lê Thành Khôi, Le Viêt-Nam: Histoire et
civilisation. Paris: Minuit, 1955; Lê Thành Khôi, Histoire du Viêt Nam: des
origines à 1858. Paris: Sudestasie, 1981.
2. Về lịch sử Việt Nam thời Cổ và
Trung đại, các quan hệ kinh tế-xã hội đặt trong bối cảnh quốc tế, xem: Phan Huy
Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, Tập 1. Hà Nội: Nhà xuất bản
Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1981.
3. Về quan hệ Việt-Trung thời Bắc
thuộc, sự hình thành ý thức bản ngã Việt từ sự tiếp xúc và cọ sát với các cộng
đồng người láng giềng, xem: Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam. Berkeley: University of
California Press, 1983.
4. Về so sánh hai mô hình chính
trị Việt Nam (thời Nguyễn) và Trung Quốc (thời Thanh), xem: Alexander B.
Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese
and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Cambridge, MA: Harvard
University Press, 1971.
5. Về trật tự thế giới kiểu Tàu và
quan niệm cổ truyền của Trung Quốc về trật tự thế giới, xem: John K. Fairbank
(bt.) The Chinese World Order: Traditional China’s Foreign Relations. Cambridge, MA: Harvard
University Press, 1968; Charles P. Fitzgerald, The Chinese View of Their
Place in the World, London: Oxford University Press, 1964.
6. Về viễn tượng của Việt Nam về
thế giới, quốc gia và quốc gia trong thế giới qua các thời kỳ, xem: Alexander
L. Vuving, “The References of Vietnamese States and the Mechanisms of World
Formation”, Asien, số 79, tháng 4/2001, tr. 62-86.
7. Về vận động địa chính trị và
đại chiến lược của Việt Nam từ cổ xưa đến trước lúc thuộc Pháp, xem: Vũ Hoằng
Dương, “Nghĩ vào cuối thế kỷ: Nước non, non nước …” (2 phần), Cánh Én, số 45 và 47, 1995.
8. Về đại chiến lược của Việt Nam
trong thời kỳ Trung đại, cũng như thái độ của Việt Nam với Trung Quốc xem: Trần
Quốc Vượng, “Tradition, Acculturation, Renovation: The Evolution Pattern of the
Vietnamese Culture”, trong David G. Marr, A. C. Milner (bt.) Southeast Asia in the 9th to
the 14th Centuries. Singapore: Institute for Southeast Asian Studies, 1988; Trần
Quốc Vượng, “Dân gian và bác học”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa,
1993, tr. 159-195; Trần Quốc Vượng, “Tây Sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới
đất Việt ở thế kỷ XVIII”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa,
1993, tr. 65-75.
9. Về thái độ của Việt Nam đối với
Trung Quốc, trong so sánh với Nhật Bản, xem: Vĩnh Sính, “‘Hồn Đại Việt, giọng
Hàn Thuyên’ – vị trí lịch sử của Trung Quốc đối với Việt Nam và Nhật
Bản”, Diễn Đàn, số 26, tháng 1/1994, tr. 28-30.
10. Về đặc điểm sự giao lưu giữa
Việt Nam với bên ngoài, xem: Trần Quốc Vượng, “Việt Nam: 100 năm giao thoa văn
hóa Đông-Tây”, Đất Mới, bộ 3, số 3&4, 1991, tr. 32-44.
11. Về cách ứng xử của Việt Nam với
Liên Xô và Trung Quốc nhằm phục vụ mục tiêu đại chiến lược của mình (thời kỳ
1956-1969), xem: W. R. Smyser, The Independent Vietnamese:
Vietnamese Communism Between Russia and China, 1956-1969. Athens, Ohio: Ohio University
Center for International Studies, Southeast Asia Program, 1980.
12. Về cuộc xung đột Đông Dương lần
3 và quan hệ Việt-Trung trong ngũ giác Việt Nam-Trung Quốc-Mỹ-Liên Xô-Campuchia
thời kỳ sau 1975, xem: Nayan Chanda, Brother Enemy. The War after the
War: The History of Indochina since the Fall of Saigon. San Diego: Harcourt Brace
Jovanovich, 1986.
13. Về các thế giới quan làm nền
cho chính sách đối ngoại của Việt Nam (Hà Nội) trong thời hiện đại, xem: Eero
Palmujoki, Vietnam and the World: Marxist-Leninist Doctrine and the Changes
in International Relations, 1975-93, London: Macmillan Press,
1997; Gareth Porter, “The Transformation of Vietnam’s World-view: From Two
Camps to Interdependence,” Contemporary Southeast Asia, bộ 12, số 1, 6/1990, tr. 1-19;
Võ Văn Kiệt, “Thư gửi Bộ Chính trị”, 9/8/1995, in lại trong Diễn Đàn, số 48, 1/1996, tr. 16-23;
Nguyễn Cơ Thạch, Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25 năm tới
(1995-2020). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.
14. Về chặng đường ngoại giao Việt
Nam 1975-1991, quan điểm của lãnh đạo và cách xử lý mối quan hệ với Trung Quốc
cũng như vấn đề Campuchia, giai đoạn bản lề 1987-91, xem: Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ, mimeo, gộp hai bản 2001/2003
(hai chương 13 và 14 về cuộc gặp cấp cao Thành Đô 1990 in lại trên Diễn Đàn, số 134, tháng 11/2003,
chương 1 về quan hệ Việt-Mỹ và thời cơ bỏ lỡ năm 1977 trích đăng trong Diễn Đàn, số 136, tháng 1/2004);
cũng xem thêm về quan hệ Việt-Trung, quá trình bình thường hóa: Carlyle Thayer,
“Sino-Vietnamese Relations: The Interplay of Ideology and National
Interest”, Asian Survey, 6/1994.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét