Phạm Viết Đào.
Bài liên quan:
MỘT VÀI SỐ LIỆU VỀ TỔN THẤT CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM TẠI VỊ XUYÊN
VỀ
PHÍA TRUNG QUỐC:
Nghĩa trang Malifo chôn cất binh
sĩ Trung Quốc chết trận Lão Sơn
“Về quân ta (Trung Quốc), trước sự
chuẩn bị mở hầu bao chiến dịch Lưỡng Sơn vào ngày 2 tháng 4 năm 1984. Tư
lệnh đại tướng Dương Đắc Chí (杨得志-Yang
Dezhi) chỉ huy, dưới trướng của đại tướng gồm có quân đoàn 14, quân
đoàn 11, quân đoàn 1, tập đoàn 67 (集团军67), tập đoàn 27 (集团军27), tập đoàn
quân 13 (集团军13) và Bộ Tư lệnh
Hậu Cần.Ngoài ra còn có quân đoàn 41, quân đoàn 42, quân đoàn 43, quân đoàn 54,
quân đoàn 55, đóng chốt trước miệng 3 tỉnh Lai châu, Lào Cai, và Hà Giang của
Việt Nam.
Bản thống kê những đơn vị của
Trung Quốc tham chiến tại chiến trường biên giới Lão Sơn Lào Cai Việt Nam:
1
- Quân đoàn 11, 14 Côn Minh, tham chiến 4/84 - 4/85, tử thương 2749, trọng
thương 4152.
2 – Quân đoàn 1, 11 Nam Kinh,
tham chiến 12/84-5/85, tử thương 3942, trọng thương 3435.
3 – Quân đoàn 46, 67 Tế Nam, tham
chiến 5/84-4/86, tử thương 4746, trọng thương 3257.
4 – Quân đoàn 21, 47 Lan Châu,
tham chiến 4/86-4/87, tử thương 3654, trọng thương 3264.
5 – Quân đoàn 27 Bắc Kinh, tham
chiến 4/87-4/88, tử thương 3087, trọng thương 3649.
Tổng kết từ ngày 2/4/1984 đến
ngày 25/4/88, quân Trung Quốc tử thương 15.178, trọng thương 17.757…”[1]
Bổ
sung: Một lần, trong một
cuộc gặp tình cờ Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Nguyên Cẩn, bạn học tiếng Pháp tại
Romania, trao đổi về cuộc chiến Vị Xuyên, Lê Nguyên Cẩn cho biết: Anh đã có lần
đi thăm người quen ở Trung Quốc qua cửa khẩu Thanh Thủy, Vị Xuyên, Trung Quốc gọi
là Thiên Bao. Bắt đầu từ kilômet 5 tính từ Thiên Báo, Lê Nguyên Cẩn đã nhìn thầy
nghĩa trang chôn lính Trung Quốc san sát bên vệ đường.
Nghĩa
trang này kéo dài trên 30 km, ngồi trên ôtô nhìn rõ. Khi tôi đưa ra con số do mạng
Trung Quốc đưa: Lính Trung Quốc tử thương tại mặt trận này trên 15.000 người;
Theo Nguyên Cẩn, bằng mắt thường quan sát qua kính ôtô, anh thấy số tử thương của
lính Trung Quốc nhiều hơn con số 15.000…
VỀ PHÍA VIỆT NAM:
THEO THIẾU TƯỚNG
NGUYỄN ĐỨC HUY - NGUYÊN THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN KHU 2:
“Đây là cuộc chiến có
quy mô lớn nhất, chỉ sau chiến tranh giải phóng miền Nam. Trung Quốc huy động
8/10 đại quân khu với hơn 50 vạn quân; phía Việt Nam huy động 9 sư đoàn với số
lượng quân có lúc lên tới 15 vạn quân. Đây là cuộc chiến ác liệt nhất khi Trung
Quốc cày nát Vị Xuyên, có ngày bắn tới 3 vạn quả đạn pháo, tấn công vào tất cả
các điểm cao của ta. Tổn thất của địch trong trận chiến này rất lớn nhưng có những
trận trong một ngày quân ta hy sinh khoảng 1.000 chiến sĩ…
Cuộc chiến tranh
Vị Xuyên đã khiến hơn 5.000 chiến sĩ của ta hy sinh, 9000 bộ đội bị thương, đến
nay hơn 3.000 người chưa tìm thấy hài cốt; trong nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên
có hơn 1.700 mộ liệt sĩ nhưng tới 700 ngôi mộ liệt sĩ chưa xác định được tên tuổi.
Tôi kiến nghị phải tổ chức đội rà phá bom mìn, quy tập mộ và hài cốt liệt sĩ
trong cuộc chiến Vị Xuyên để đưa về nghĩa trang...”[2]
KIỂM CHỨNG 3: CÓ ĐÚNG MỸ DÙNG POL POT ĐÁNH VIỆT NAM ĐỂ TRẢ
THÙ?
Trong bài: “Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển Đông”: (01/02/2015 08:44 GMT+7- ) có 2 đoạn đáng chú
ý sau đây:
1. “Còn
Mỹ, sau thất bại chiến tranh Việt Nam, Mỹ câu kết với phản động quốc tế, dùng
Pôn Pốt ở Cam-phu-chia đánh ta để trả thù, làm cho ta suy yếu và ngăn chặn sự
ảnh hưởng của Việt Nam với khu vực, nhưng đến bây giờ ý đồ này cũng đã thất
bại…”[3]
2. “Trong khối ASEAN tuy có một số nước trước đây rất “căng” với ta, nhưng
gần đây đã có những dấu hiệu thay đổi. Và cũng có những nước sẽ ủng hộ ta vào,
những nước này từ lâu vẫn có thiện cảm với Việt Nam, từng đồng tình và ủng hộ
Việt Nam chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, như Indonesia chẳng hạn. Ta sẽ
đặt chân vào ASEAN từ cánh cửa của những nước như vậy. Nhưng những bước đi đầu
tiên phải hết sức bí mật và thận trọng. Nếu ta không vào thì Mỹ và một số nước
lớn sẽ tiếp tục phá ta, thậm chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá ta. Còn
nếu ta vào được thì họ không phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ dựa về chính
trị để các nước ASEAN vươn lên”.[4]
Để hiểu sâu thêm về những kết luận,
đánh giá trên đây là của nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Chủ tịch nước
Lê Đức Anh về các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt quan hệ Việt - Mỹ, Việt Nam -
ASEAN, xin trích giới thiệu tiểu sử của tướng Lê Đức Anh:
“Từ tháng 5 năm 1976,
ông là Tư lệnh Quân khu 9. Đến tháng 6 năm 1978, là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, chỉ huy trưởng cơ
quan tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; được phong Thượng tướng năm 1980. Năm 1981, khi đang giữ chức Tư lệnh Quân khu 7, ông
được phân công kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện
Việt Nam tại Campuchia, Phó trưởng ban, rồi
Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Năm 1984, ông được phong
hàm Đại tướng…”[5]
Trong hàng ngũ tướng lĩnh Việt Nam,
có thể nói rằng: không ai có thẩm quyền to và cao hơn Lê Đức Anh, đặc trách về
chiến trường Cămpuchia về mặt quân sự…Lê Đức Anh được phong quân hàm đại tướng
và giữ cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng 1984 khi đang chỉ huy quân tình nguyện
Việt Nam tại chiến trường này…
Vậy thì kết luận của tướng Lê Đức
Anh: “Mỹ…dùng Pôn Pốt ở Campuchia đánh ta để trả thù, làm cho ta suy yếu và
ngăn chặn sự ảnh hưởng của Việt Nam với khu vực…” có đúng sự thật lịch sử của giai đoạn đó?
Với tư cách là tư lệnh chiến
trường Cămpuchia, trực tiếp chỉ huy tiêu diệt chế độ Khơ Me đỏ, khi tướng Lê
Đức Anh cho rằng: Mỹ dùng Pol Pot để trả thù Việt Nam là dùng bằng cách nào và
thông qua phương tiện gì?
Để kiểm chứng lại hai nhận định
trên của tướng Lê Đức Anh, xin trích một đoạn dưới đây trong bài “Khmer Đỏ: Ai
từng trợ giúp phe kháng chiến Pol Pot?” Bài vừa
đăng trên BBC ngày 17/11/2018 nhân phiên Tòa xét xử tội diệt chúng của Khmer
đỏ:[6]
“Trung
Quốc thời Hoa Quốc Phong và Đặng Tiểu Bình là nước bảo trợ chính cho Khmer Đỏ,
nhưng Hoa Kỳ là nước cổ vũ chính cho Trung Quốc.
Washington đã dính líu vào Campuchia từ khi Henry Kissinger làm Cố vấn an ninh
Quốc gia và Ngoại trưởng thời hai tổng thống Richard Nixon và Gerard Ford…Sau
cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ theo đuổi chiến lược của Zbigniew Brzezinski ủng
hộ Trung Quốc để chia rẽ khối cộng sản và bao vây Liên Xô, và trừng phạt Hà
Nội, đồng minh của Moscow tại châu Á.
Nước
Anh trong thời gian bà Margaret Thatcher cầm quyền cũng từng hỗ trợ tích cực
cho lực lượng liên minh do Khmer Đỏ chỉ huy trong thời gian 1985 - 1989.
Và
một quốc gia nữa là Bắc Triều Tiên, nơi luôn nhiệt thành ủng hộ lực lượng chống
Phnom Penh và Hà Nội trong cuộc nội chiến Campuchia.
Ngoài
ra, không thể không nhắc tới Thái Lan, quốc gia láng giềng từng một thời để các
nhóm quân Pol Pot ẩn náu và làm căn cứ kháng chiến chống lại chính quyền Phnom
Penh.
Bàn tay Trung Quốc
Chương
trình trợ giúp của Bắc Kinh cho lực lượng Khmer Đỏ ngay từ khi Pol Pot lên nắm
quyền đã được nhiều nguồn tài liệu khai thác.
Nhưng
sau năm 1979, khi Việt Nam đem quân sang lật đổ chế độ này, Hoa Kỳ tiếp tục
hỗ trợ Pol Pot thông qua Trung Quốc.
Theo
nhà báo Elizabeth Becker, Cố vấn An ninh Quốc gia Zbigniew Brzezinski rất tự
hào về chiến lược khuyến khích Thái Lan hợp tác với Trung Quốc để giúp Khmer Đỏ
tái xây dựng lực lượng.
Ông
Brzezinski từng nói về sự kinh tởm đối với chế độ Pol Pol (abomination), vì
thế, Hoa Kỳ sẽ không bao giờ giúp Pol Pot trực tiếp, "nhưng người Trung
Quốc thì có thể làm điều đó".
Lãnh
tụ Đặng Tiểu Bình đặc biệt yêu thích Khmer Đỏ, và giúp cho họ chừng 100
triệu USD viện trợ các loại một năm, theo Gregory Elich viết trên CounterPunch, hồi
2014.
Đặng
từng nói năm 1984:"Tôi không hiểu vì sao có người muốn loại bỏ Pol Pot?
Đúng là ông ta có phạm một số sai lầm trong quá khứ nhưng nay ông ta đang lãnh
đạo cuộc chiến chống bọn xâm lược Việt Nam cơ mà."
Nhờ
chiến lược này, Pol Pot có căn cứ trên đất Thái Lan, và ngoài Khmer Đỏ còn có
mội đội quân của Mặt trận Giải phóng Nhân dân Khmer (KPNLF) của Son Sann,
và quân đội riêng của Hoàng thân Norodom Sihanouk (Armée Nationale
Sihanoukiste, ANS).
Ngoài
ủng hộ ngoại giao cho Pol Pot và liên minh Campuchia chống lại chính quyền Hun
Sen cùng Hà Nội và Moscow, Hoa Kỳ còn tác động đến viện trợ quốc tế cho
Campuchia.
Theo
đó, chính quyền Carter yêu cầu các tổ chức cứu trợ quốc tế không cấp viện cho
Hà Nội và Phnom Penh.
Các
lá phiếu của Washington và đồng minh đủ mạnh khiến Ngân hàng Thế giới và Ngân
hàng Phát triển Á châu không viện trợ cho Campuchia dưới quyền Heng Samrin và
Hun Sen.
Viện
trợ trái lại chỉ được chuyển cho người Campuchia sống ở vùng Khmer Đỏ kiểm
soát.
Sang
thời Reagan và Bush, chính sách chống Hà Nội và Phnom Penh vẫn tiếp tục.
Tới
năm 1985, tiền CIA viện trợ cho các nhóm du kích Campuchia gồm Khmer Đỏ lên
tới 12 triệu. Theo điều khoản McCollum, cơ quan cấp viện USAID cũng chuyển
quân trang quân dụng không sát thương dư thừa cho các nhóm du kích đóng ở Thái
Lan, đạt con số 13 triệu USD năm 1989.
Nhưng
có vẻ như nhà bảo trợ chính cho Khmer Đỏ vẫn là Trung Quốc.
Andrew
Mertha, tác giả cuốn “Brothers in Arms: China's Aid to the Khmer Rouge,
1975-1979” từng cho biết 90% viện trợ nước ngoài mà Khmer Đỏ nhận được đã đến
từ Trung Quốc. Các khoản này
gồm thực phẩm, vật liệu xây dựng tới xe tăng, máy bay, pháo.
“Trong
khi chính quyền đang giết dân của họ thì kỹ sư và cố vấn quân sự Trung Quốc vẫn
tiếp tục huấn luyện nước đồng minh cộng sản”.
Qua thông tin của BBC, theo
người viết bài này là khách quan, thông tin chỉ ra Mỹ và một số quốc gia khác
như Thái Lan, Anh, Bắc Triều Tiên…có tham gia việc hỗ trợ cho Khơ Me đỏ, nhưng
vai trò bảo trợ chính đổ tiền của nhiều nhất là Trung Quốc…Thế nhưng trong bài
của đại tá Khuất Biên Hòa đăng Vietnamnet lại viết: tướng Lê ĐứcAnh lại không đề
cập tới vai trò “ bảo trợ chính’ của Trung Quốc mà chỉ nhắc tới Mỹ và phản động
quốc tế đã dùng Pol Pot đánh Việt Nam?
Còn quan hệ giữa Việt Nam với
ASEAN và Mỹ có đúng như lời tướng Lê Đức Anh do đại tá Khuất Biên Hòa thuật
lại:” Nếu ta không vào thì Mỹ và một số
nước lớn sẽ tiếp tục phá ta, thậm chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá
ta. Còn nếu ta vào được thì họ không phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ dựa về chính trị để các nước
ASEAN vươn lên”.
Các nước ASEAN phát triển thịnh
vượng về kinh tế là do họ biết phát huy nội lực, kết hợp hài hòa quan hệ Đông
Tây giữa Mỹ - Tây Âu và Nhật Bản; Họ cũng rất biết tranh thủ Trung Quốc đúng
bài, giữ khoảng cách để không để bị lệ thuộc vào Trung Quốc từ kinh tế đến
chính trị văn hóa…
Thế
giới xưa nay đã từng hình thành nên các khối liên minh bởi hai tác nhân: liên
minh tự nhiên do bởi cái hoàn cảnh địa - chính trị - văn hóa…hoặc liên minh do
bởi sự áp đặt từ quốc gia này với quốc gia khác (xâm lược-thực dân): Liên minh
bởi ý thức hệ…
Trong
thế kỷ XX, thế giới đã hình thành “phe xã hội chủ nghĩa” chiếm ¼ dân số thế giới”
để rồi cuối thế kỷ tan như bong bóng xà phòng; bởi đây là khối liên minh ý thức
hệ cùng đồng chí cộng sản với nhau…
Còn khối liên minh EU là khối liên minh địa
chính trị - kinh tế - văn hóa; Tuy đang có nhiều trục trặc, nhưng do trên cơ sở
tự nguyện và không có sự áp đặt lẫn nhau từ nội khối, do vậy nên nó có khả năng
tồn tại lâu vì nó có lợi cho các thành viên trong khối…
Khối liên minh ASEAN là một khối liên minh
theo gương của EU, các quốc gia ASEAN xúm lại với nhau, tuy không nêu ra trong
cương lĩnh, như các quốc gia tham gia liên mình nhằm mục đích canh chừng ông
bạn vàng Trung Quốc, hạn chế “nhân tố nước lớn” tác động tiêu cực tới các nước
trong khu vực ASEAN…
Người
viết bài này cho rằng: Chính Mỹ bật đèn xanh, khuyến khích các nước ASEAN lôi
kéo Việt Nam tham gia khối; Chỉ khi Việt Nam gia nhập ASEAN thì mới có khả năng
để tách khỏi ảnh hưởng Trung Quốc, hạn chế được những tiêu cực bởi nhân tố nước
lớn là Trung Quốc.
Không
có chuyện Mỹ dùng ASEAN đế phá Việt Nam, nếu Việt Nam gia nhập ASEAN như nhận định
của tướng Lê Đức Anh…“Nếu ta không vào thì Mỹ và một
số nước lớn sẽ tiếp tục phá ta, thậm chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá
ta. Còn nếu ta vào được thì họ không phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ dựa
về chính trị để các nước ASEAN vươn lên…”
Cho tới năm 2018, người viết
bài này chưa thấy nước nào trong khối ASEAN “dựa vào chỗ dựa chính trị” là Việt Nam để vươn lên cả? Mà thế mạnh
chính trị của Việt Nam đó là: nhà nước được lãnh đạo toàn diện bởi một đảng
marxit - leninnit…
KIỂM CHỨNG 4 “BA LẦN LUI QUÂN”?
Về
việc lui quân tại chiến trường Vị Xuyên vào đầu năm 1987, tác giả đại tá Khuất
Biên Hòa viết:
“Lịch sử nhân loại ở những thập niên cuối thế kỷ 20 có ba
“cuộc lui quân vĩ đại”. Thứ nhất là quân đội Liên Xô rút khỏi Apghanistan; tuy
không có sự xua đuổi nhưng không được người dân “đưa tiễn thắm tình”. Thứ hai
là cuộc rút quân về nước trước thời hạn của Quân tình nguyện và đoàn chuyên gia
Việt Nam. Cả đất nước Chùa tháp rực rỡ cổng chào, cờ hoa cùng các tầng lớp nhân
dân Campuchia lưu luyến đưa tiễn. Trước Hoàng cung, Quốc trưởng Nô-rô-đôm
Xi-ha-núc và Vua Sãi Tếp Vông trịnh trọng quàng vòng Nguyệt quế lên cổ đại
tướng, Tổng chỉ huy Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia Việt Nam Lê Đức Anh rồi
thống thiết nói lời cảm ơn Đảng, nhân dân và quân tình nguyện Việt Nam đã chịu
gian khổ, hy sinh, không tiếc máu xương, sức lực, trí tuệ và của cải để cứu dân
tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và hồi sinh đất nước Chùa tháp từ tiêu
điều xơ xác trở nên xanh tươi bền vững. Thứ ba là cuộc lui quân, chấm dứt việc
đấu súng, đấu trí của hai quân đội, hai nhà nước, khôi phục đường biên giới hữu
nghị, lập lại quan hệ bình thường giữa hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc. Có
thể nói, trong ba cuộc lui quân vĩ đại này, thì hai cuộc sau đều là “cuộc lui
quân Đẹp!”, lui quân vô cùng ngoạn mục, mà người được giao trọng trách lớn lao,
vừa thiết kế vừa tổ chức thực hiện nó, chính là đại tướng Lê Đức Anh!”…
Đem cuộc lui quân của quân đội Liên Xô ra
khỏi chiến trường Apghanistan để gộp với hai cuộc lui quân của Việt Nam tại
chiến trường Cămpuchia 1989 và Vị Xuyên 1987 là một sự so sánh khiên cưỡng. Đem
3 cuộc rút lui trên để đánh giá đó là “ba
“cuộc lui quân vĩ đại” của “Lịch sử
nhân loại ở những thập niên cuối thế kỷ 20…” là một kiểu ngoa ngôn, viết lấy được…
Lịch sử chống Trung Quốc xâm lược đã có những
cuộc lui quân được đánh giá cao, được hậu thế ca ngợi: đó là các cuộc lui quân
bỏ trống thành Thăng Long của vua tôi nhà Trần trước vó ngựa của quân Nguyên -
Mông; Cuộc lui quân của tướng Tây Sơn Ngô Văn Sở, bỏ Thăng Long rút về cố thủ
Tam Điệp, cuộc lui quân này đã được Quang Trung Nguyễn Huệ khen ngợi…
Còn về ba cuộc lui quân trên có đúng là vẻ
vang của lịch sử nhân loại thế kỷ XX không? Về cuộc rút lui của quân đội Liên
Xô ra khỏi Apghanistan, người viết xin
không lạm bàn.
Đối với tướng Lê Đức Anh, giai đoạn 1987 -
1989, thực chất có ba cuộc lui quân tướng Lê Đức Anh can dự và trực tiếp quyết
định. Ngoài hai cuộc lui quân: rút ra khỏi chiến trường Cămpuchia và Vị Xuyên,
có một cuộc lui quân ở Gạc Ma tháng 3/1988 mà dư luận bấy lâu nay đang bàn tán
nhiều…
Tướng Lê Đức Anh là người chịu trách nhiệm về
cuộc rút lui, tạo điều kiện để Trung Quốc đẩy lùi quân ta khỏi hòn đảo này.
Hiện tại, Trung Quốc đã bồi đắp thành một căn cứ quân sự trên Biển Đông, có
đường băng sân bay…đang gây nên một sự cố hàng hải quốc tế…Đáng tiếc, không rõ
vì lý do gì đại tá Khuất Biên Hòa lại không đưa sự kiện lui quân khỏi Gạc Ma và
bảng tổng sắp của ông, khi tổng kết về cuộc đời binh nghiệp của tướng Lê Đức
Anh liên quan tới Trung Quốc?
Về 3 cuộc lui quân này, nếu so sánh với cuộc
lui quân của vua tôi nhà Trần khỏi Thăng Long; cuộc lui quân của Tướng Tây Sơn
Ngô Văn Sở thì cũng chưa có thể so sánh được…Bởi đó là những cuộc lùi để tiến.
Còn 3 cuộc lùi quân của Tướng Lê Đức Anh thì theo người viết bài này lùi để
luật hẳn ? Trong bài viết, đại tá Khuất Biên Hòa là thổi lên thành cuộc “rút lui vĩ đại” tầm nhân loại của thế ký
XX ?
Về cuộc lui quân khỏi Cămpuchia, tướng Lê Đức
Anh chỉ là người thừa hành. Mặc dù ông được coi là Tư lệnh đặc trách chiến
trường này. Việc đưa quân vào Cămpuchia năm 1978 và rút ra năm 1989 do Bộ Chính
trị quyết định…
Hiện nay, vẫn còn nhiều ý kiến ngay trong nội
bộ Việt Nam chưa đồng thuận với việc chúng ta đưa quân tham chiến 10 năm tại
chiến trường Cămpuchia. Việt Nam đã bỏ ra một lượng xương máu không nhỏ để giúp
nhân dân Cămpuchia diệt trừ chế độ diệt chủng; Nhưng kết cục thì “ngựa bất kham lại trở về nơi bồng báo”.
Loại được Pol Pot thì đến lượt Hunsen vẫn nằm trong quỹ đạo Trung Quốc.
Nhiều ý kiến cho rằng: Số phận của nhân dân
Cămpuchia do nhân dân nước bạn định đoạt. Đáng lẽ, sau khi chúng ta đánh tan
Khmer Đỏ, lúc đó đã có ý kiến đề xuất Việt Nam nên bàn giao chiến trường này
cho Liên hiệp quốc, rút quân đội về bảo vệ và xây dựng đất nước.
Nếu chúng ta rút ra ngay từ năm 1978 thì
Trung Quốc không còn cớ gây ra hai cuộc chiến tranh 1979, đánh phá toàn tuyến
biên giới; và năm 1984-1989 đánh phá ác liệt Vị Xuyên Hà Giang…Ngoài ra không
tạo cớ cho Mỹ bao vây, cấm vận vào tạo điều kiện cho Trung Quốc gạt Việt Nam ra
để bắt tay với Mỹ; Tự Việt Nam tự mình đút đầu vào cái thong lọng tự cô lập
mình…
Thực ra, kẻ đứng đằng sau xúi dục Khmer Đỏ
gây ra cuộc chiến chống Việt Nam, lừa cho Việt Nam xua quân vào chiến trường
này, tạo cớ cho Trung Quốc lập công với Mỹ, bình thường hóa quan hệ với Mỹ để
bán hàng cho Mỹ và tranh thủ vốn liếng, công nghệ và thị trường Mỹ. Ngay cả Thượng
tướng Lưu Á Châu, con rể Lý Tiên Niệm, một tướng văn cũng đã nói toạc ra điều
này: Trung Quốc gây chiến tranh với Việt Nam, lấy cớ Việt Nam đưa quân vào
Cămpuchia để bình thường hóa quan hệ với Mỹ, lầm ăn với Mỹ…
Âm mưu của Trung Quốc rõ ràng như vậy, chúng
tôi đã dẫn chứng việc tướng Lê Đức Anh nhận định: Mỹ là kẻ dùng Pol Pot đánh
Việt Nam để trả thù. Còn trong phần đầu chúng tôi đã dẫn ra ý kiến vô cùng lệch
lạc của tướng Lê Đức Anh, người đảm nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và
phát biểu ý kiến này sau khi rời cương vị Chủ tịch nước? Tướng Lê Đức Anh cho
rằng: Trung Quốc đánh Vị Xuyên không vì mục đích xâm lược Việt Nam?
Tôi đồ rằng: Do việc Việt Nam chủ trương lui
quân tại chiến trường Vị Xuyên 1987, việc lui quân này đã bật đèn xanh, tín hiệu
cho Trung Quốc lấn tới trong tháng 3/1988 tiến hành đánh chiếm đảo Gạc Ma, một
hòn đảo án ngữ trên đường hàng hải quốc tế, nằm giữa quần đảo Sinh Tồn lớn nhất
của Việt Nam với đất liền…
Sau cuộc lui quân tại chiến trường Vị Xuyên,
có đúng “hai nước chấm dứt việc đấu súng,
đấu trí của hai quân đội, hai nhà nước, khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập
lại quan hệ bình thường giữa hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc ???”
Hậu thể mai đây chắc chắn rồi sẽ còn phải
bàn, đánh giá lại cái việc ba lần lui quân trước Trung Quốc mà tướng Lê Đức Anh
can dự, trong đó có hai cuộc cá nhân ông phải chịu trách nhiệm!
Rất nhiều ý kiến cho rằng: Cuộc lui quân Gạc
Ma là hành vi chủ trương, đổi chác theo kiểu “bán lúa non”; Nhượng Gạc Ma cho
Trung Quốc để được họ trả lại một số vị trí tại Vị Xuyên…Tài điểu binh khiển
tướng của Lê Đức Anh chẳng nhẽ lại ở cái tầm như vậy?
Lưu ý thêm: bài viết của Đại tá Khuất Biên
Hòa viết về quan hệ của Tướng Lê Đức Anh với Trung Quốc ; bài viết được
công bố trên Vietnamnet năm 2015, trước thềm Đại hội Đảng lần thứ 12 với nội
hàm khẳng định « thiện chí », « thiện cảm » bênh Trung
Quốc của Tướng Lê Đức Anh ?
Bài viết “Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển Đông” của Đại tá Khuất Biên Hòa có là 1 tín hiệu từ 2015 như một cuộc loby, một sự ve vãn, tranh thủ lá phiếu ủng hộ từ Trung Quốc, dành cho ai đó « là người của Lê Đức Anh » nắm chiếc ghế TBT Đảng CS Việt Nam Đại hội Đảng thứ 12?
P.V.Đ.
Rút từ:
" VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG"
Biên khảo 700 trang
Liên hệ chia sẻ qua email: Hoanghtham9@gmail.com
ĐT: 0382598746
[2]
Tham mưu trưởng mặt trận Vị Xuyên: “Nhiều
hài cốt đồng đội đang nằm lại ở khe núi, hốc đá…”
“Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển
Đông”: (01/02/2015 08:44 GMT+7-
http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-voi-van-de-trung-quoc-va-bien-dong-219675.html
[5] Theo
WikiPedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét