Alex Smith
Hồi còn nhỏ tôi được học một
bài ca dao:
” Con cò đậu ở bờ tre/
Thằng Tây nó bắn cò què một chân/
Mai cò ra chợ Đồng Xuân/
Chú khách mới hỏi sao chân cò què/
Cò rằng tôi đứng bờ tre/
Thằng tây nó bắn tôi què một chân”
Thằng Tây nó bắn cò què một chân/
Mai cò ra chợ Đồng Xuân/
Chú khách mới hỏi sao chân cò què/
Cò rằng tôi đứng bờ tre/
Thằng tây nó bắn tôi què một chân”
Bài ca dao này cứ ám ảnh tôi
mãi, không phải vì nó có nội dung hay nghệ thuật đặc sắc gì mà vì thông điệp
không rõ ràng của nó đối với người đọc. Tôi nhớ sách giáo khoa (không nhớ rõ
lớp nào và năm nào) có giải thích: – qua nhân vật con cò tố cáo tội ác của giặc
Pháp!
Tuy nhiên, ”con cò” ở đây không
hề có thái độ thù hằn gì “Thằng tây” cả, thậm chí, cũng không thực sự đau buồn
hay giận dữ!. Đổi lại, thái độ của ”cò” hoàn toàn dửng dưng: ”- cò rằng tôi
đứng bờ tre/ thằng tây nó bắn tôi què một chân”! Hết!
Thái độ dửng dưng này là một
dấu hỏi lớn trong tâm trí tôi suốt thời đi học. Sau này được tiếp cận một khối
lượng lớn thông tin và qua suy xét của bản thân tôi dần dần nghiệm ra ý tứ sâu
xa mà tác giả vô danh muốn gửi tới người đọc.
Bài ca dao trên gắn với một
giai đoạn đau buồn trong lịch sử dân tộc, đó là khi thực dân Pháp xâm lược nước
ta vào cuối thế kỷ XIX.
Xem lại lịch sử giai đoạn này,
ngoài quyết tâm đánh pháp của Trương Công Định và các văn thân, sỹ phu với
nhưng tấm gương hy sinh anh dũng (thực ra cả Triều đình Nhà Nguyễn cũng quyết
tâm đánh Pháp) còn có các sự kiện khác mà người Việt Nam có lương tri nào khi
xem lại cũng cảm thấy xấu hổ.
Chỉ có 120 binh lính Pháp do
một đại úy chỉ huy cộng với vài chục lính mộ người Việt và người một số nước
Châu Á khác đi theo hỗ trợ(10 người âu, 30 người châu á, 150 lính mộ Vân Nam)
cùng với 08 khẩu pháo mà hạ thành Hà Nội do một vị đại tướng của Việt Nam chỉ
huy với 7 ngàn quân, chỉ trong nháy mắt! (chưa đến 1 tiếng đồng hồ trong ngày
20/11/1873)
Trận thành Hà Nội
Đại úy Garnier yêu cầu nộp
thành, ta không theo. Y ra lệnh công thành. Nên nhớ, quân ta đông gấp vài chục
lần quân Pháp, lại là một dân tộc văn minh chứ không còn ở giai đoạn bán khai
như người da đen ở châu Phi hay còn dùng công cụ đồ đá như người Azteca ở
Mexico. Nếu xáp chiến thì chỉ cần dùng quả đấm cũng có thể đè bẹp quân Pháp.
Nên nhớ vũ khí thời đó của quân Pháp cũng khá thô sơ. Tiếc thay, chỉ vài loạt
đạn của quân Pháp quân ta vứt súng chạy như vịt còn trơ lại vị Tổng đốc bị
thương. Con trai Cụ là Nguyễn Lân cũng bị bắn chết.
Đại uý Garnier, 34 tuổi
Các sự khiện tiếp theo còn bi thảm hơn. Ngày 05/12/1873, chỉ có 7 lính Pháp và 2 lính mộ đi ca nô đến thành Ninh Bình bắt quan tuần phủ và hạ thành; lúc đó trong thành có 1700 quân trấn giữ.
8 lính Pháp hạ thành Ninh Bình
Chỉ có 50 lính pháp và một số
lính mộ tấn công thành Nam Định có hàng ngàn quân. Việc quân Pháp dùng ngay các
thanh chướng ngại làm thang leo lên mặt thành cũng đủ thấy sức kháng cự của
quân ta không đáng kể. Thành Hải Dương còn thất thủ một cách khôi hài hơn. Chỉ
có hơn hai chục lính pháp tấn công thành; táo tợn đến mức đu người lên cánh cửa
để nhòm vào trong thành. Sau vài loạt đạn, lãnh binh Vi Văn Đông vội vàng bỏ
trốn, quan binh thấy thế cũng trốn sạch. Quân Pháp phá cổng vào thành, thành
mất.
Hạ thành Nam Định
Tại sao một dân tộc đã từng
đánh thắng hàng vạn quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại bạc nhược như vậy. Cũng
vẫn dân tộc ấy thôi 80 năm sau, bằng vũ khí cũng kém hơn đã đánh bại chính đế
quốc pháp trang bị tối tân hơn nhiều?!
Nhiều người cho rằng ta thua
Pháp vì súng đạn ta không bằng Pháp. Điều đó không sai nhưng thực ra không hoàn
toàn đúng. Súng đạn của quân Nhà Nguyễn cũng được nhập từ phương Tây và chỉ
thua súng đạn của pháp một thế hệ. Thậm chí bằng lò rèn thủ công mà ông Cao
Thắng ở núi rừng Vụ Quang còn chế tạo được gần giống súng của Pháp.
Ta thua pháp về tổ chức chiến
tranh nhưng điều này có thể học hỏi và thay đổi được vì cuộc chiến tranh pháp –
việt kéo dài 30 năm (1859 – 1888).
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến
thất bại của người Việt Nam chính là sự thờ ơ của đa số người dân trước thời
cuộc, trước vận mệnh của đất nước.
Trở lại bài ca dao, người dân ở
đây được hình tượng hoá ở hình ảnh con cò. Cò ta đứng ở bờ tre để xem quan quân
triều đình đánh nhau với Tây. Cò dửng dưng như người ngoài cuộc đứng xem một
việc không liên quan đến mình. Không may ”thằng Tây” nó bắn phải ”cò”, thế
thôi!
Người dân dửng dưng trước thời
cuộc, trước nguy cơ mất nước vì xã hội Việt Nam đã chia rẽ sâu sắc. Nguyễn Hàn
Ninh có bài thơ vịnh đèn kéo quân rất hay nói lên thực trạng của xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ là:
” Một lũ ăn mày, một lũ quan/
Quanh đi quẩn lại chỉ một đoàn”
Quanh đi quẩn lại chỉ một đoàn”
Thân phận người lính cũng vậy:
”Ngày thì canh điếm, tối dồn
việc quan/
đẽo tre đẵn gỗ trên ngàn…”.
đẽo tre đẵn gỗ trên ngàn…”.
Các quan chỉ coi lính như lũ
người hầu, làm việc không công: ”nước sông công lính”. Ngay các quan cũng chẳng
quan tâm gì đến việc luyện tập, võ bị. Lực lượng vũ trang bị coi thường:
”Văn thì thất phẩm đã
sang/
võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu”.
võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu”.
Tựu trung, quan lại là lũ người
chỉ nghĩ đến mình, ra tay vơ vét, chiếm đoạt. Người dân đã nhìn rõ thực trạng
này về hàng ngũ công chức bất tài, vô hạnh này:
”Khi bình làm hại dân ta/
Túi tham vơ vét chẳng tha thứ gì/
Đến khi hoạn nạn lâm nguy/
Mặt trông lơ láo, chân đi tập tềnh!”
Túi tham vơ vét chẳng tha thứ gì/
Đến khi hoạn nạn lâm nguy/
Mặt trông lơ láo, chân đi tập tềnh!”
Rồi:
” Đồn rằng quan tướng có
danh/
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai”
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai”
Ông Ích Khiêm phải kêu lên:
” Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu/
Đến khi đánh giặc phải nhờ Tầu…”
Trong tình hình quan chức như
vậy, người dân vừa khinh vừa ghét. ”Cò” không nói ra nhưng có khi còn hả hê
trưóc cảnh quan quân bị Tây bắn, chạy như vịt:
”- Cho chúng mày chết!”
”- Cho chúng mày chết!”
Một dân tộc đã chia rẽ như vậy
thì mất nước là tất yếu!
Sỹ quan Pháp phát súng cho lính
mộ tình nguyện người Việt
Khác hẳn 600 năm trước khi giặc
mạnh phương Bắc lăm le cướp nước, chính quyền đã mở hội nghị Diên Hồng để tạo
sự đồng thuận toàn dân; mở hội nghị Bình Than để thống nhất ý chí của quý tộc.
Điều đó cho thấy, đối diện với
nguy cơ mất nước càng cần đối thoại để thống nhấ ý chí. Muốn có đối thoại cần
có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội. Điều này Nhà Nguyễn đã
không làm được. Những vị vua dốt nát, yếu đuối và đội ngũ quan lại tham nhũng,
bất tài, mua quan bán tước của nhà Nguyễn không thể nào trở thành hạt nhân đoàn
kết dân tộc được nữa. Họ không làm được điều các quý tộc nhà Trần đã làm. Quý
tộc Nhà Trần là những anh hùng, hào kiệt, con cháu của những người bình dân
chài lưới mới chiếm được chính quyền từ tay Nhà Lý rệu rã bằng võ công và trí
tuệ.
Giữa những trang hào kiệt:
” Một gánh càn khôn quẩy xuống
ngàn/
Hỏi rằng chi đó bảo rằng than!”
Hỏi rằng chi đó bảo rằng than!”
Và lũ công chức tham nhũng, bạc
nhược là khoảng cách rất xa về chất người.
Chúng ta vẫn có thể thua Pháp
vì trình độ phát triển của họ lúc bấy giờ hơn hẳn ta nhưng thua như kiểu vua
quan nhà Nguyễn là một nỗi nhục lớn lao mà không nên quên. Bởi vì nếu quên, nếu
cố tình không sòng phẳng với lịch sử có thể dân tộc Việt Nam lại lặp lại sai
lầm tương tự trong tương lai./.
————————–
HN, 02/8/2011
HN, 02/8/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét