Thứ Tư, 1 tháng 3, 2017

ĐỌC BÀI "LÝ SỰ CÙN" TRÊN TCCS THẤY PHI LÝ HƠN KỊCH PHI LÝ CỦA KỊCH TÁC GIA PHÁP GỐC ROMANIA EUGEN IONESCU

Tính chất phi lý của luận điểm “Muốn thực sự có dân chủ cho người dân và xã hội phát triển phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”
28/2/2017 22:53'Gửi bài nà

TCCSĐT - Trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch rất quan tâm đến việc chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng luôn tìm mọi cách để hạ thấp và đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam. Nhưng trên cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm cho người dân được thực sự dân chủ, bảo đảm cho xã hội Việt Nam được từng bước phát triển bền vững, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cơ sở quan trọng để phê phán, bác bỏ quan điểm của các thế lực thù địch, cơ hội cho rằng, muốn có dân chủ cho người dân và xã hội phát triển thì phải thực hiện đa nguyên, đa đảng.
Các thế lực thù địch thường xuyên tuyên truyền, kích động, kêu gọi tán dương, cổ súy cho quan điểm “đa nguyên, đa đảng”, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, nhất là vào dịp chúng ta tổ chức Đại hội Đảng. Đặc biệt, trong thời gian chúng ta tổ chức cho toàn Đảng, toàn dân góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện rất nhiều “ý kiến đóng góp” yêu cầu xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 1992, “xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam. Họ thường rêu rao rằng, muốn cho người dân thực sự có dân chủ, muốn cho xã hội phát triển thì phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
1- Nghiên cứu chế độ đa đảng ở các nước phương Tây có thể nhận thấy, bề ngoài thì các đảng chính trị có vẻ như được tự do, bình đẳng tranh cử để trở thành đảng cầm quyền, chi phối quốc hội và chính phủ, nhưng thực chất bên trong, cũng chỉ có những đảng lớn được sự ủng hộ của các thế lực tư bản độc quyền mới giành được vai trò chấp chính. Đảng Cộng sản ở các nước tư bản không bao giờ được bình đẳng trong tranh cử. Ở một số nước tư bản hiện nay, đặc biệt là ở nước Mỹ, bên cạnh “một xã hội” với những người có cuộc sống xa hoa, hào nhoáng, thì vẫn còn tồn tại “một xã hội” hoàn toàn khác hẳn với hàng chục triệu người phải sống trong sự bất công, đói nghèo, bệnh tật, thất nghiệp, mất hết quyền dân chủ. Chẳng hạn, ở Mỹ hiện có 112 đảng, nhưng chỉ có hai đảng (đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ) thay nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài là chế độ đa đảng, song xét về bản chất, đó chỉ là một đảng - đảng của giai cấp tư sản. Dù Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa nắm quyền thì cũng đều là đảng của giai cấp tư sản, đều nhận sự tài trợ của các tập đoàn kinh tế, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản. Vì thế, dân chủ ở Mỹ thực chất vẫn là nền dân chủ tư sản, nền dân chủ chỉ dành cho một bộ phận thiểu số, một số ít người trong xã hội. Mặc dù giai cấp tư sản cố tìm mọi cách để che đậy, lừa mị, song vẫn không thể phủ nhận được mục đích cuối cùng, mục tiêu duy nhất của chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong xã hội tư bản về bản chất vẫn là bảo đảm quyền lực của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, thực hiện dân chủ cho một bộ phận thiểu số trong xã hội tư bản. Giáo sư trường Đại học bang Indiana, Paul Mishler cho thấy rõ thực chất vấn đề: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học,… đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ”(1). 
Thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nhất là ở Liên Xô trước đây cũng cho thấy, từ khi chấp nhận bỏ Ðiều 6 trong Hiến pháp của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, đã dẫn đến tình trạng xuất hiện đa đảng và hậu quả là, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần đánh mất quyền lãnh đạo xã hội. Những sự thỏa hiệp về “dân chủ hóa”, về “công khai hóa” hay “đa nguyên chính trị”, không những không làm cho người dân được dân chủ hơn, không làm cho xã hội phát triển hơn, mà còn là mảnh đất rất màu mỡ cho các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô nhanh chóng sụp đổ.
Một số nước khác tuy có hệ thống chính trị đa nguyên, đa đảng nhưng vẫn thường xuyên xảy ra khủng hoảng chính trị, đảo chính làm cho xã hội bất ổn. Những bất ổn chính trị ở Ucraina hay ở Thái Lan diễn ra trong thời gian gần đây là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do đảng cầm quyền và đảng đối lập mâu thuẫn với nhau về lợi ích, dẫn đến đảng đối lập đã kích động quần chúng biểu tình, đưa yêu sách lật đổ chính phủ hợp pháp đang điều hành đất nước. Hậu quả là, quyền dân chủ của người dân bị lợi dụng phục vụ cho mục đích riêng của từng đảng; xã hội gặp phải những khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển. Như vậy, rõ ràng là, đâu phải cứ có đa đảng mới có dân chủ, mới bảo đảm cho xã hội phát triển!
2- Thực chất những luận điệu hô hào, cổ súy đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không có mục đích gì khác là muốn hạ thấp và đi tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam, với những lời lẽ hết sức mị dân, nào là: “đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”, nào là “Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ thực sự”, nào là “thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì “xã hội Việt Nam mới nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo”... Có người còn “lớn tiếng kêu gọi” những đảng viên cộng sản hãy ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam để thành lập một đảng mới, làm “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch đã luôn rêu rao rằng, chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập theo các nước phương Tây là điều mà chúng ta phải nên “học theo” để bảo đảm dân chủ và xã hội phát triển. Chúng cho rằng, “từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản, vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”(2).
Thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế, từ đó có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, có thể dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam; gây nên sự phân tâm trong xã hội; làm suy giảm và có thể đi đến mất dần niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực chất của luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là tìm cách xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lái nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta sang nền dân chủ tư sản; gây nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính trị - xã hội không ổn định, kinh tế suy giảm, văn hóa xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội ngày càng gia tăng, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Và nếu cứ nghe theo “lời khuyên” của các thế lực thù địch, cơ hội, chiều theo sự đòi hỏi phi lý của những người (hoặc là do thiếu hiểu biết, hoặc là do động cơ không trong sáng) để thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thì điều gì sẽ xẩy ra? Điều chắc chắn có thể khẳng định là, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng trước nguy cơ bị tan rã, chẳng những người dân không được dân chủ, mà xã hội cũng rơi vào rối loạn, khủng hoảng, đình trệ, không phát triển được.
3- Thực hiện chế độ nhất nguyên chính trị, một Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo xã hội Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử cách mạng Việt Nam, sự lựa chọn đúng đắn của chính nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một hiện tượng hoàn toàn hợp quy luật, phản ánh những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã chín muồi trong quá trình vận động của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, khác với tình hình của nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó không phải là do mong muốn chủ quan của Đảng, mà chính là sự giao phó của lịch sử, của cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa chọn một cách đúng đắn. Bằng sự thể nghiệm xương máu trong cuộc đấu tranh cách mạng với bao khó khăn, gian khổ, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam, mà nhân dân ta đã lựa chọn và thừa nhận, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là bảo đảm cho người dân có dân chủ thực sự, xã hội phát triển tiến bộ.
Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam trong hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn xứng đáng với sự lựa chọn, giao phó của lịch sử, sự tin cậy của nhân dân. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á; đưa dân tộc ta từ một dân tộc không có độc lập đến một dân tộc độc lập, có tên trên bản đồ thế giới; đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ đến dân chủ, tự do, hạnh phúc. Sau đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Tiếp đó, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển. Bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. 
Đặc biệt, trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới đất nước vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.../.
--------------------------------------------
(1) Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 7 (106), 2009, tr. 87 - 89
(2) Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điển sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007, tr. 53
PGS. TS. Nguyễn Vĩnh Thắn

Không có nhận xét nào: